Sunday, February 22, 2009

CHIẾN TRANH HOA VIỆT 1979

BÀI HỌC THỨ NHẤT 1979



Cuộc Chiến 1979 và Hoàng Sa
Huy Đức

Ngày 7-2-1979, tại Tokyo, khi ngầm thông báo với báo chí một chiến
dịch "trừng phạt" Việt Nam, Đặng Tiểu Bình giải thích: "Hiệp ước mà



(Nữ binh Việt Cộng canh tù binh Trung Cộng )


Việt Nam và Liên Xô ký kết có tính chất đồng minh quân sự. Việt Nam đã
mở cuộc xâm nhập vũ trang vào Campuchia và đang khiêu khích ở biên
giới Trung Quốc". Tuy nhiên, nguyên nhân thực sự của cuộc chiến tranh
mà Đặng Tiểu Bình thực hiện 10 ngày sau không đơn giản chỉ là những gì
được nói ra trong lời tuyên bố ấy.

Hiệp ước mà ông Đặng đề cập là Hiệp ước hợp tác toàn diện giữa Việt
Nam và Liên Xô, ký ngày 3-11-1978. Hiệp ước này được ký kết sau khi
mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã rất trầm trọng:

Trung Quốc yêu cầu Việt Nam đóng cửa 3 tổng lãnh sự quán (6-6-1978) và
cắt toàn bộ viện trợ (7-1978). Ngày 29-1-1979, khi hội đàm ở Mỹ, Đặng
Tiểu Bình nhắc tới Campuchia, Afganistan với Tổng thống Jimmy Carter và cảnh báo "nguy cơ phản ứng dây chuyền". J. Carter "đồng ý với Đặng cách nhìn nhận" ấy. Tuyên bố chung, hai ngày sau đó (1-3), nhấn mạnh, Trung-Mỹ chống lại bất kỳ quốc gia hoặc tập đoàn quốc gia nào mưu kế bá quyền".

Đặng đã thành công khi sử dụng liên minh Việt-Xô để gieo rắc hoài
nghi, khiến Mỹ làm ngơ cho Trung Quốc đánh Việt Nam, bên trong,
Đặng không hề đánh giá cao "liên minh" ấy.

Trong hội nghị do Quân ủy Trung ương Trung Quốc triệu tập, bàn "chủ
trương" đánh Việt Nam, không ít tướng lĩnh đã cảnh báo nguy cơ bị Liên
Xô tấn công. Khi ấy, trên biên giới Trung- Xô, Liên Xô bố trí tới 50
sư đoàn chủ lực. Đặng Tiểu Bình nhận định: "Liên Xô không thể không
xét tới nhiều nhân tố quốc tế nên khả năng (vì Việt Nam mà) can thiệp
vào Trung Quốc là rất ít". Trên thực tế, một tuần sau khi Trung Quốc
đánh Việt Nam, không thấy Liên Xô "ra tay", Trung Quốc đã đánh tiếp
sang thị xã Lạng Sơn, và chỉ rút khi trên hướng này Quân Đoàn II xuất
hiện.

Tại thời điểm Đặng tuyên bố với báo chí, 7-2-1979, quân đội Việt Nam
có mặt ở Phnompênh vừa tròn một tháng, nên "yếu tố Campuchia" có vẻ
như rất dễ thuyết phục. Nhưng, theo cuốn sách "10 Năm Chiến Tranh
Trung Việt" của NXB Đại học Tứ Xuyên, công bố năm 1993, ngay trong Hội
Nghị Quân ủy Trung ương, từ 7 đến ngày 9 tháng 12 năm 1978, Trung Quốc
đã quyết định đánh Việt Nam. Trong ngày 9-12-1978, Quyết định này đã
được "tuyệt mật" chuyển tới tay tướng Hứa Thế Hữu (Tướng Hữu cùng với
Dương Đắc Chí là hai tướng chỉ huy cuộc chiến tranh 17-2).

Trong khi mãi tới ngày 25-12-1978, quân đội Việt Nam mới bắt đầu mở
chiến dịch đánh sang Phnompênh. Khi Khmer Đỏ chưa nắm được chính quyền, đang "ăn nhờ, ở đậu" gần Trung ương Cục (Việt Nam), Pol Pot, Yeng Sary đã "đi lại" với Bắc Kinh. Năm 1970, Lon Non lật đổ Sihanouk, Pol Pot đã rất cay cú khi Sihanouk được đưa về Hà Nội. Pol Pot nhận ra, họ không phải là lực lượng duy nhất mà Việt Nam ủng hộ ở đất nước nhỏ bé này. Cho dù sau đó "lá bài" Sihanouk cũng được "nuôi" ở Bắc Kinh như một ông hoàng, người Trung Quốc đã khéo léo nhen nhúm hiềm khích Việt Nam cho Pol Pot. Chính vì thế mà ngay trong năm 1975, Khmer Đỏ đã phản bội Việt Nam, bắn giết ở Phú Quốc, ở Thổ Chu và từ năm 1977 đánh sang An Giang, Tây Ninh, có khi vào sâu hơn 10 km. Tuy nhiên, cho dù có bị "mất mặt" khi chế độ diệt chủng Khmer Đỏ do Trung Quốc hậu thuẫn bị Việt Nam đánh đổ ở Phnompênh.

Liệu, Trung Quốc có phải là một "đàn anh" trung thành với lân bang đến mức hy sinh mình như vậy? Người Hoa và vấn đề "nạn kiều" cũng đóng một vai trò nhất định. Thật khó lý giải vì sao cuộc "cải tạo tư sản công thương nghiệp", đụng tới hàng trăm nghìn người Hoa, lại được Việt Nam tiến hành năm 1978, khi mà mối quan hệ với Trung Quốc đang hết sức căng, nếu như không đề cập đến câu chuyện sau đây, câu chuyện mà sách vở chưa bao giờ nói đến. Bí thư Thành ủy TP HCM vào thời điểm 1975, ông Võ Văn Kiệt, kể:

"Sau ngày 30-4, ở khu vực Chợ Lớn có một chi bộ có vũ trang thuộc bộ
phận hải ngoại của đảng Cộng Sản Trung Quốc. Chi bộ này xuất hiện
bí mật từ trước 30-4 và khi đó họ đòi được công khai hoạt động".


Để một lực lượng Trung Quốc có vũ trang ở Chợ Lớn thì cũng không khác chi "đặt mồi lửa dưới đống củi", Việt Nam buộc phải "giải giáp" họ. Bắc Kinh rất khó chịu về vụ "giải giáp" này. Nhưng, cho dù có b ao nhiêu người Hoa đã phải ra đi trong năm 1978 thì "nạn kiều" vẫn là một "lá bài" mà Trung Quốc cũng chủ động "chơi" chứ không hẳn là nguyên nhân khiến cho Đặng Tiểu Bình đưa quân sang Việt Nam xâm lược.

Tác giả của "10 Năm Chiến Tranh Trung Việt" còn chỉ ra một vấn đề rất
có thể cũng là nguyên nhân: Năm 1978, Đặng Tiểu Bình vừa khôi phục lại
quyền lãnh đạo quân đội, "Ông có ý thức nhạy bén… thông qua cuộc chiến
tranh, vừa thăm dò được sự trung thành (của quân đội), vừa làm cho các
nhà lãnh đạo (Trung Quốc) khác nhận rõ những mặt phải cải cách quân
đội".




Đại tá Hà Tám, chỉ huy trung đoàn 12 anh hùng đánh Trung Quốc tháng 2-1979, cho biết: "Mặc dù pháo theo cùng của Trung Quốc bắn khá chính xác, nhưng, bộ binh thì chủ yếu dùng 'biển người'; chỉ huy của Trung Quốc lúc ấy ra trận mà vẫn có người che ô, quân thì chờ kèn kêu mới xông trận". Sau ngày 17-2, Trung Quốc đã gấp rút cải cách quân đội, và họ đã "thử nghiệm" lại trên Biên giới Việt Nam vào ngày 28-4-1984 bằng một chiến dịch với phương thức chiến tranh hoàn toàn mới.

(Pháobinh Việt )



Đặng Tiểu Bính nói: "Người Trung Quốc làm gì cũng có tính toán". Cuộc
chiến tranh được huy động khi mà Trung Quốc đang vô cùng lạc hậu sau
các cuộc cách mạng "da thịt tàn nhau" không chỉ nhắm đến một mục tiêu.
Bằng cách kể lể kiểu chương hồi, cuốn sách mà Trung Quốc cho công bố,
"10 Năm Chiến Tranh Trung Việt", đã để lộ một ý đồ thâm sâu của Đặng,
đó là vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa. Ngay sau khi kết thúc chiến tranh ở
miền Nam, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã bày tỏ thái độ khá kiên định về
chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa, quần đảo mà từ lâu
Trung Quốc đã rắp tâm thôn tính.

Tháng 6-1975, Bộ Ngoại Giao Việt Nam gửi công hàm cho Trung Quốc về
vấn đề Hoàng Sa. Ngày 24-9-1975, khi gặp Đặng Tiểu Bình ở Bắc Kinh, Bí
thư thứ nhất Lê Duẩn đã "yêu cầu phó thủ tướng Đặng Tiểu Bình đàm phán
về vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa". Tháng 4-1977, trên đường đi Liên Xô
ghé qua Bắc Kinh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã gửi đến Trung Quốc
thông điệp của Việt Nam về hai quần đảo ấy. Tuy nhiên, trước sau Trung
Quốc đều một mực "yêu cầu Việt Nam trở lại lập trường trước năm 1974".
"Lập trường trước năm 1974", theo cuốn sách "10 Năm Chiến Tranh Trung
Việt" là "Tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958". Cuốn sách
nói là Đặng Tiểu Bình đã rất "khó chịu" với Bí thư thứ nhất Lê Duẩn,
Đặng nói: "Vấn đề này không cần thiết phải đàm phán… (đó) là lãnh thổ
Trung Quốc".

Có lẽ, năm 1979, Đặng Tiểu Bình nghĩ là có thể đè bẹp ý chí của người
Việt Nam trong vấn đề đòi lại Hoàng Sa và Trường Sa nên đã phát động
chiến tranh. Và, các yếu tố như Liên Xô, Campuchia được Đặng vận dụng
tối đa để cô lập Việt Nam trên trường quốc tế. Điều cay đắng là, lẽ ra
Đặng đã không thể cô lập Việt Nam để gây đổ máu của dân ta như thế nếu
như sau 1975, Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước trong
khối ASEAN ngay và đặc biệt, bình thường ngoại giao với Mỹ.



Năm 1977,khi Mỹ chìa tay ra cho Việt Nam, theo Tổng thống Jimmy Carter,
"vấn đề bồi thường chiến tranh đã gây khó khăn". Rồi, trong khi Việt Nam đang loay hoay thì Đặng Tiểu Bình đã khai thác yếu tố này ngay, để thiết lập được quan hệ ngoại giao với Mỹ và đặt Việt Nam vào tình huống bị bao vây, cấm vận. Tất nhiên, "ý thức hệ" đóng một vài trò quan trọng
trong quyết định "nhất biên đảo" với Liên Xô; năm ấy, báo Nhân Dân vẫn
chỉ trích Đặng về chủ thuyết "mèo trắng, mèo đen" và ngày nay, chúng
ta vẫn cần phải quan tâm tới bài học ấy.
(Việt cộng dựng đài tưởng nhớ quân Trung Quốc xâm lược tại Thủy Khẩu, Long Châu, vùng biên giới)


Tôi công bố bài viết này không chỉ vì sắp đến ngày 17-2 mà còn vì,
muốn lưu ý, "người Trung Quốc làm gì cũng có tính toán", không nên đặt
cuộc chiến tranh 17-2 ra ngoài âm mưu Biển Đông. Bản Giốc, Tục Lãm…
giờ đã xong; nhưng, Hoàng Sa, Trường Sa thì vẫn đó.


Huy Đức

Đăng trên BBC ngày 16-2-2009
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/indepth/story/2009/02/090216_duongdanhdy.shtml


*********

Nhớ lại đêm 17 tháng 2 năm 1979
Dương Danh Dy

Tháng 9 năm 1977, tôi được lãnh đạo Bộ Ngoại giao Việt Nam cử sang làm
Bí thư thứ nhất tại Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh, chuyên làm công
tác nghiên cứu. Quan hệ hai nước Việt Trung, từ lúc tôi ở trong nước
đã xấu, lúc này càng xấu đi từng ngày:





( Việt gian cộng sản đặt vòng hoa thương nhớ quân xâm lược tại đài tưởng niệmThủy Khẩu. Hàng chữ ghi:HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN, ỦY BAN NHÂN DÂN, ỦY BAN MẶT TRẬN TOÀN XÃ ĐỜI ĐỜI NHỚ ƠN CÁC LIỆT SĨ TRUNG QUỐCNhớ ơn gì? Nhớ ơn đã tàn phá Cao Bằng, Lạng Sơn, đã giết nhân dân và quân đội cộng sản Viêt Nam?)



Dòng "nạn kiều" dưới sự xúi bẩy kích động của nhà đương cục Trung Quốc vẫn lũ lượt kéo nhau rời khỏi Việt Nam, một phần về Trung Quốc một phần đi sang các nước khác. Lấy lý do cần có tiền để "nuôi nạn kiều" ngày 13/5/1978 lần đầu tiên nhà cầm quyền Trung Quốc tuyên bố cắt một phần viện trợ không hoàn lại đã ký cho Việt Nam và rút một bộ phận chuyên gia về nước. Không lâu sau đó, ngày 3/7/1978 chính phủ Trung Quốc tuyên bố cắt hết viện trợ và rút hết chuyên gia đang làm việc tại Việt Nam về nước. (Cầu Thăng Long và nhiều công trình khác bị dở dang- sự kiện này không khác chuyện đã xảy ra giữa Liên Xô với Trung Quốc trước đó và không ngoài dự liệu của ta). Cùng với việc này
là sự kiện: một số rất ít trong những công dân Trung Quốc năm 1966 gửi
tiền giúp cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta nay gửi thư tới
đòi với những lời lẽ khiếm nhã (kèm theo cả giấy chứng nhận của đại sứ
quán ta ghi số tiền đã ủng hộ). Có lẽ tôi là một trong số mấy đồng chí
công tác tại đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh được chứng kiến cả hai
cảnh tượng: vui mừng cảm động vì nhân dân Trung Quốc anh em hết lòng
giúp đỡ ủng hộ sự nghiệp chống Mỹ của dân tộc ta năm đó, và đau buồn
vì lúc này có một bộ phận dù là rất nhỏ người Trung Quốc do bị nhà
đương quyền tuyên truyền lừa bịp mà đã có hành động, lời nói không
hay.

Xung đột biên giới trên đất liền, nhất là tại điểm nối ray trên
đường sắt liên vận Hà Nội-Bằng Tường ngày càng tăng (có lúc có nơi đã
xảy ra đổ máu) toàn bộ vụ, việc đều do phía Trung Quốc cố tình gây
ra.

Tháng 7 năm 1978 chúng tôi được phổ biến Nghị Quyết TW 4, tinh thần
là phải thấu suốt quan điểm nắm vững cả hai nhiệm vụ vừa xây dựng kinh
tế vừa tăng cường lực lượng quốc phòng, chuấn bị tốt và sẵn sàng chiến
đấu.

Tháng 11 năm 1978 ta ký "hiệp ước hữu nghị và hợp tác" với Liên Xô.

Đến tháng 12 năm 1978 mọi chuẩn bị cho tình huống xấu nhất trong đại
sứ quán đã làm xong. Sứ quán nhận được máy phát điện chạy xăng (và đã
cho chạy thử), gạo nước, thực phẩm khô đã được tích trữ đầy đủ, đại sứ
quán mấy nước anh em thân thiết cũng nhận được các đề nghị cụ thể khi
bất trắc xẩy ra… Tôi được đồng chí đại sứ phân công đọc và lựa chọn
các tài liệu lưu trữ quan trọng, cái phải gửi về nhà cái có thể hủy
(nhờ đó biết thêm được nhiều điều trước đây trong quan hệ ngoại giao,
kinh tế… giữa hai nước..)

Tháng 12 năm 1978 trong chuyến thăm mấy nước Đông Nam Á, trong một
cuộc trả lời phỏng vấn, Đặng Tiểu Bình vừa hùng hổ vừa tức tối nói một
câu không xứng đáng với tư cách của một người lãnh đạo một nước được
coi là văn minh: "Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học"(tôi không bao giờ có thể quên vẻ mặt lỗ mãng và lời nói "bạo đồ"
đầy giọng tức tối của ông ta qua truyền hình trực tiếp và tiếng người
phiên dịch sang tiếng Anh là "hooligan"- tức du côn, côn đồ)

Rồi ngày 22 tháng 12 năm 1978, Trung Quốc đơn phương ngừng vận chuyển hành khách xe lửa liên vận tới Việt Nam, rất nhiều cán bộ, sinh viên Việt Nam từ Liên Xô Đông Âu trở về bị đọng lại trong nhà khách sứ quán chờ đường hàng không và cuối cùng đến đầu tháng 1 năm 1979 đường bay Bắc Kinh Hà Nội cũng bị cắt.

Đầu tháng 1 năm 1979 quân đội ta bất ngờ phản công trên toàn tuyến
biên giới Tây Nam, quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng chỉ trong thời
gian ngắn đã đập tan sức chống cự của bè lũ Polpot tiến vào giải phóng
Phnom Penh. Đây cũng là điều mà Đặng Tiểu Bình không ngờ.

Lại một quả đắng khó nuốt nữa đối với nhà lãnh đạo Trung Quốc này (có
dịp xin nói về cảnh cán bộ sứ quán và chuyên gia Trung Quốc tại Cămpuchia lúc đó đã rút chạy như thế nào, và một vị tướng của ta đã cố
tình tiến chậm vào Phnom Penh để cho họ có thể đi thoát)

Cuối tháng 1 năm 1979 Đặng Tiểu Bình thăm Mỹ, được Tổng thống Carter
đón tiếp với nghi lễ rất cao, hai nước quyết định thiết lập quan hệ
ngoại giao, và không biết còn bàn bạc gì nữa? Trên đường về nước Đặng
Tiểu Bình ghé qua Nhật Bản.

Trước những tình hình trên, một số anh em nghiên cứu chúng tôi đã
khẳng định khá sớm: hai nước anh em thân thiết như răng với môi này
không đánh nhau một trận không xong. Lý trí mách bảo như vậy, thậm chí
còn mách bảo hơn nữa: Trung quốc đã từng gây cuộc chiến tranh biên
giới với Ấn Độ và nhất là với Liên Xô và cả hai lần họ đều bất ngờ ra
tay trước. Thế nhưng về mặt tình cảm (bây giờ nhìn lại thì còn có cả
sự ngây thơ, cả tin nữa) vẫn hy vọng dù chỉ là chút ít thôi: quan hệ
Việt Trung đã từng gắn bó, sâu nặng như vậy, họ không thể một sớm một
chiều trở mặt được!) Không nói tới những khoản viện trợ to lớn có hiệu
quả, những tình cảm thân thiết như anh em trước đây, mà ngay trong
những giờ phút căng thẳng này, tôi vẫn không thể quên được những việc
làm tốt hay tỏ ra biết điều của một số cán bộ Trung Quốc:

Năm 1977, Nhà máy dệt Vĩnh Phúc do Trung Quốc viện trợ cho ta, sau
một hồi chạy thử vẫn không hiện đúng màu nhuộm cần thiết, một kỹ sư Trung Quốc đã bí mật cung cấp cho ta bí quyết. Khi các chuyên gia Trung
Quốc khác thấy kết quả đó, không biết do ai chỉ đạo, họ đã "xử trí" anh một cách tàn bạo, anh bị đánh tới chết. Khi được thông báo tin tức này,
chúng tôi vô cùng cảm phục tinh thần quốc tế và lương tâm kỹ thuật
chân chính của anh.

Khi đoàn chuyên gia Trung Quốc thi công cầu Thăng Long bị cấp trên của
họ điều về nước, một số đồng chí đã để lại khá nhiều bản vẽ, tài liệu
kỹ thuật về chiếc cầu này cho ta. Tôi biết chiếc cầu Chương Dương do
ta tự thiết kế thi công sau này đã dùng một số sắt thép do phía Trung
Quốc đưa sang để dựng cầu Thăng Long, nhưng chưa rõ các nhà thiết kế
cầu Chương Dương có được hưởng lợi gì từ những tài liệu mà mấy chuyên
gia Trung Quốc do không đồng tình với cách làm sai trái của người lãnh
đạo đã dũng cảm để lại cho chúng ta hay không?

Mặc dù khi truyền hình trực tiếp , Trung Quốc không thể cắt được câu
nói lỗ mãng của Đặng Tiểu Bình: Việt Nam là côn đồ, nhưng báo chí
chính thức ngày hôm sau của Trung Quốc đã cắt bỏ câu này khi đưa tin
(chỉ còn đăng câu "phải dạy cho Việt Nam bài học" , nghĩa là đỡ tệ
hơn, và như vậy có phải vẫn có người Trung Quốc còn chút lương tri?)
v.v…

Trong bối cảnh trên, cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu ngày 17/2/1979 do nhà cầm quyền Trung Quốc - mà người chủ xướng là Đặng Tiểu Bình, phát động, về tổng thể không bất ngờ đối với chúng tôi, nhưng về thời gian cụ thể và nhất là về qui mô binh lực mà Trung Quốc sử dụng thì quả là không tính tới. Sau này những day dứt về dự báo không chính xác trên đã có phần giảm bớt, khi được biết có một số cán bộ trung cấp và một số đơn vị quân đội Trung Quốc chỉ sau khi đã tiến vào lãnh thổ nước ta rồi họ mới biết là phải đi đánh Việt Nam cũng như một số tin tức liên quan khác, chưa tiện nói bây giờ!

10 giờ tối ngày 17/2/79 (tức 9 giờ tối Việt Nam) tôi bật đài nghe tin
của đài tiếng nói Việt Nam, không thấy có tin quan trọng nào liên quan
đến hai nước, tôi chuyển đài khác nghe tin. Khoảng 10 giờ 30 phút đồng
chí Trần Trung, tham tán đại biện lâm thời (thời gian này đại sứ
Nguyễn Trọng Vĩnh về Việt Nam họp) đến đập mạnh vào cửa phòng tôi: Dy,
lên phòng hạnh phúc họp ngay, Trung Quốc đánh ta rồi!

Ít phút sau, một số đồng chí có trách nhiệm đã có mặt đông đủ. Đồng
chí Trần Trung phổ biến tình hình nhà vừa thông báo: sáng sớm ngày
17/2, bọn bành trướng Trung Quốc đã tấn công trên toàn tuyến biên giới
trên đất liền (6 tỉnh của Việt Nam lúc đó) với qui mô 20 sư đoàn bộ
binh. Hai sư đoàn chủ lực của ta cùng với bộ đội địa phương và anh chị
em dân quân du kích đang anh dũng chống trả. Nhiệm vụ của chúng ta bây
giờ là dịch ngay bản Tuyên Bố của chính phủ ta ra 3 tiếng Trung, Anh,
Pháp để phục vụ cho cuộc họp báo quốc tế sẽ phải tổ chức và để thông
báo càng rộng càng tốt cho một số nhân dân Trung Quốc biết rõ sự thực.

Bộ phận dịch tiếng Trung, dưới sự chỉ huy của anh Thái Hoàng - Bí thư
thứ nhất, gồm hai đồng chí Hoàng Như Lý, bí thư thứ ba và Chu Công
Phùng cán bộ phòng chính trị, đã dịch văn bản một cách "ngon lành";
đồng chí Lê Công Phụng, bí thư thứ ba phụ trách phần dịch tiếng Anh
cũng không vất vả gì; riêng phần tiếng Pháp, đồng chí Minh, phiên dịch
tiếng Pháp do mới ra trường không lâu, nên có đôi lúc tỏ ra luống
cuống, tôi chủ động tới tra giúp một số từ mà đ/c quên mất giống
(trong tiếng Pháp, các mạo từ, tính từ .. tùy theo danh từ là giống
đực hay giống cái .. mà cách viết có khác).

Guồng máy dịch, in roneo, soát, sửa lại bản in nhanh chóng chạy đều, mọi người làm việc không biết mệt với lòng căm giận bọn bành trướng. Thi thoảng mấy câu chửi bọn chúng như kìm nén không nổi lại khe khẽ bật ra từ vài đồng chí. Không căm tức uất hận sao được? Dù đã dự liệu nghiêm túc nhưng vẫn bất ngờ về thời gian (cùng một thời gian trên tuyến biên giới dài hơn 1000 km, lại chọn đúng ngày nghỉ) và qui mô (một lực lượng đông tới mấy chục vạn quân chính qui với nhiều xe tăng, đại bác và mấy chục vạn dân công phục vụ mà lại gọi là "đánh trả tự vệ")

Khi chúng tôi hoàn thành công việc thì trời đã hửng sáng (đài BBC sau
đó đã đưa tin, tối ngày 17/2/1979 toàn Đại sứ quán Việt Nam để sáng
đèn). Những người ngoài 40, 50 chúng tôi sau một đêm vất vả không ngủ
vẫn tỏ ra bình thường nhưng riêng hai đồng chí Phùng và Minh đang tuổi
ăn tuổi ngủ, tuy được đồng chí Đặng Hữu - Bí thư thứ nhất, tiếp sâm,
nhưng vẻ mặt sau một đêm căng thẳng đã lộ nét mệt mỏi.
Thương cảm vô cùng.

Tuy vậy, chúng tôi đã nhanh chóng bước vào ngày làm việc mới với tất
cả sức mạnh tinh thần và lòng căm thù bọn bành trướng bá quyền, nước
lớn.

Cuộc chiến tranh do nhà cầm quyền Bắc Kinh mà người chủ xướng là Đặng
Tiểu Bình gây ra, kết thúc đã 30 năm.

Sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ, vì nghĩa lớn, chúng ta
Đã thực hiện đúng lời cam kết: không nhắc lại chuyện cũ. Nhưng ở phía
bên kia, một số kẻ không biết điều, vẫn thường xuyên, xuyên tạc sự
thật lịch sử, rêu rao, tự cho là đã "giành thắng lợi", là "chính
nghĩa", là "Việt Nam bài Hoa, Việt Nam chống Hoa, Việt Nam "xua đuổi
nạn kiều", Việt Nam xâm lược Cămpuchia" v.v.. Cho đến hôm nay, một số
cuốn sách lịch sử, sách nghiên cứu, không ít bài thơ, truyện, ký…vẫn
nhai lại những luận điệu trên dù hai nước đã bình thường hóa quan hệ
được gần hai chục năm.

Tôi nghỉ hưu đã được hơn mười năm nhưng do vẫn tiếp tục nghiên cứu về
Trung Quốc, nên thỉnh thoảng vẫn có dịp gặp các bạn cũ công tác tại Bộ
Ngoại Giao Trung Quốc trước đây cũng như nhiều học giả Trung Quốc.
Không dưới một lần tôi đã thân tình và nghiêm túc nhắc họ: nếu các bạn
chỉ nhận phần đúng trong những việc xảy ra trong thời gian trước đây,
đổ hết lỗi cho cho người khác thì quan hệ Việt Trung dù ai đó có dùng
những chữ vàng để tô vẽ cũng không thể nào xóa bỏ được những vết hằn
lịch sử do người lãnh đạo của các bạn gây ra, quan hệ hai nước không
thể nào phát triển tốt đẹp được, vì những hoài nghi lớn của nhân dân
hai bên chưa được giải tỏa?

Mong rằng một số nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện nay nên nhớ chuyện sau:
nếu không biết lời dặn của Chủ tịch Mao với đoàn cố vấn Trung Quốc khi
sang giúp Việt nam thời kỳ chống Pháp: 'tổ tiên chúng ta trước đây đã
làm một số việc không phải với nhân dân Việt Nam, các anh sang giúp
nước bạn lần này là để trả nợ cho cha ông' và nếu không thấy trong
chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên sau khi hòa bình lập lại, Thủ Tướng
Chu đã tới dâng hương tại đền thờ Hai Bà thì chắc chắn những người
Việt Nam thời đó không dễ quên được chuyện cũ để nhanh chóng, hòa hiếu
với Trung Quốc như sau đó đâu?

Vết thương chung phải do cả hai bên cùng đồng tâm, thành ý chữa trị
thì mới có thể lành hẳn.

Chúng ta không nói lại chuyện cũ là vì nghĩa lớn, chứ không phải vì
chúng ta không có lý, không phải vì người Việt Nam sợ hãi hay chóng
quên.

Nghĩa địa lính Trung Quốc ở Malipo (Ma Lật Pha) --
Xem bài Was the War Pointless? China Shows How to Bury It




THI CA VỀ CUỘC CHIẾN 1979



Không điều gì bị lãng quên
Bùi Thanh, nguyên phó TBT báo Tuổi Trẻ
16.2.2009



Tình cờ đọc được bài thơ này của một người lính không rõ họ tên – người đã có mặt trong những tháng ngày khốc liệt ở biên giới phía Bắc, sau khi quân Trung Quốc ồ ạt tấn công Việt Nam, từ ngày 17-2-1979.
(Bình độ 400 là một khu vực ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.)




Bình độ 400


Đêm tháng Năm vào Bình độ Bốn Trăm
Đoàn xe trôi êm êm, tầm đại bác
Thuốc súng tanh, lá rừng kêu xào xạc
Chúng no máu rồi không cắn nữa đâu?
Lắc lư xe quan tài vượt về sau
Máu nhỏ xuống đường cuốn vào cát bụi
Lại xe quan tài vượt lên lầm lũi
Tốp thương binh bê bết máu mặt, mày
Đám cướp kia Thánh, Phật dạy ăn chay
Chẳng kiêng gì ngày Rằm, mồng Một!
Đạn cày xới đất tơi trồng cây tốt
Tưới máu người cướp, giữ đất biên cương.

Tư lệnh Hoàng Đan trận này cầm quân
Ông bảo rằng: Sống, chết, thời, vận, số!
Cả Trung đoàn ào ào như thác lũ
Bình độ Bốn Trăm bình địa trận người.
Những chàng trai sống, chết trận này ơi!
Mưa đổ xuống ông Trời tuôn nước mắt
Ơn nhớ mãi thân người đi giữ đất
Người trở về ăn, sống, ở ra sao?

Trần Nhương (nhà thơ – Hà Nội) và Lê Đức Dục (phóng viên Tuổi Trẻ - Quảng Trị)nối tiếp luôn ở đây:


Lời mẹ


Mẹ tôi nói:
Bố các con liệt sĩ Điện Biên
Anh các con liệt sĩ Khe Sanh Đường Chín
Em các con liệt sĩ Đồng Đăng xứ Lạng
Đều vì nước quên sinh
Đều vì con Hồng cháu Lạc
Sao các con lòng đen dạ bạc?
Đứa chết ở Đồng Đăng chẳng nhắc đến bao giờ?
Ba mươi năm rồi đó
Hay em nó chết chui?
Hay em nó hy sinh không chính đáng?
Lũ chúng mày mở mày mở mặt
Sống dư thừa nhờ cái chết bao người
Cả cái chết cũng bất công đến thế
Lòng mẹ đau biết nhắm mắt sao đây!

Trần Nhương
"Manchette" báo và ngày 17-2
(tặng anh B.T-Người rất nhạy cảm chuyện này
Nhưng giờ anh đã "pó tay" mất rồi)

Ga Hà Nội,

5 giờ 30 sáng 17 tháng 2
năm hai ngàn lẻ chín
tôi vội vã xuống tàu
tìm người bán báo dạo…
mấy chục măng sét báo xanh- tím- vàng -nâu
chẳng báo nào nhắc một dòng về biên giới
im như thể chưa hề biết tới
một sớm mai –giờ này này cách 30 năm
ở sân ga này hối hả những đoàn quân,
im và im
như chưa hề biết tới một bình minh
máu đã nhuộm thắm sắc đào sơn cước
giây phút này, 30 năm trước…
ôi Hà Nội , trái tim hồng cả nước
những huyết thư tuổi trẻ lên đường
cả Việt Nam rạo rực máu Lạc Hồng
máu cha ông truyền từ ngày "Sát Thát"
tất cả lên đường
nhằm biên cương phía Bắc!
ba mươi năm
Hà Nội sáng mai này
tôi cầm trên tay
những măng sét báo lặng câm
"Tuổi Trẻ" màu xanh"Thanh Niên" màu tím…
"Công an" màu nâu"Mua bán" màu vàng…
"Vedete" hôm nay"Giá nhà đất thôi tăng"
"Đánh bạc on-lai""Chuẩn bị tăng giá điện"...
Có măng sét báo nào hôm nay in màu đỏ hay không?
Chỉ cần một sắc đỏlặng im
vẫn cháy lòng tưởng nhớ
Khi chúng ta không dám nhắc thành lời!…
Tờ báo cũ tháng trước rơi ra
Chạy tít đỏkỷ niệm cách mạng Cu Ba
Kỷ niệm chiếm trại lính Moncada
Lên án Israel ném bom GazaAaaaaaa…
Hahaha……
Còn xương máu ông cha
Xương máu quân dân biên giới
Ba mươi năm không dám nhắc một dòng
Yêu hòa bình có nghĩa là im lặng!
Phải thế không?
Phải thế không?


Lê Đức Dục (Ga Hà Nội 6h sáng 17-2-2009)




LỜI BÌNH CỦA VẠN MỘC CƯ SĨ
Đây là hai tài liệu của cán bộ Cộng sản viết ra, được đọc trên đài BBC. Ngôn từ và hành động của họ quả thật là cộng sản lưu manh, chuyên môn giấu dìếm lường gạt! Tại sao hôm nay họ mới viết về cuộc chiến 1979? Tại sao không nói sớm hơn? Tại sao bây giờ tình trạng nguy vong, Trung Cộng cướp đất liền và hải phận Việt Nam, sao họ không nói đến? Bởi vì họ cũng như bọn Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Nông Đức Mạnh, Đỗ Mười cam tâm phản quốc hại dân, đâu dám chống Trung Cộng! Tuy bán nước cầu vinh, họ cũng muốn tỏ ra anh hùng nói xa nói gần để lừa bịp nhân dân mà thôi! Nguyễn Tấn Dũng cũng vậy. Y sang Mỹ lừa bịp dư luận Mỹ và quốc dân Việt Nam nhưng thực tế là chúng đã ký kết dâng nước ta cho Trung Quốc. Cầu viện Mỹ chỉ là trò bịp bợm!

Cộng sản là như thế cả.Họ luôn luôn chơi trò ba lá,nửa hư nửa thực đánh lận con đen. Họ cấm sinh viên và nhân dân chống Trung Quốc xâm lược. Nhưng không lẽ im lặng, sợ nhân dân và thế giới chửi cho, họ tổ chức một nhóm sinh viện hạn chế biểu tình chống Trung Quốc. Họ thấy nhân dân kính yêu phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, họ muốn lấy lòng, ban phát một ít giải thưởng, nhưng họ không lên tiếng xin lỗi và sửa sai. Ông Hồ cũng vậy, trong Cải Cách Ruộng đất, nhân dân căm thù, ông giả bộ xin lỗi như đâu vẫn hoàn đó, người bị giết, ruộng đất bị tịch thu nay cho cộng sản đỏ bán đất, bán nước làm giàu!Một chân lý nhất quán là
cộng sản không bao giờ thành thực.

Họ giấu diếm, im lặng vì hèn nhát thế mà còn bảo là " vì nghĩa lớn"! Nghĩa lớn cái gì? Phải chăng là tình quốc tế vô sản? Tình nghĩa "vừa là đồng chí vừa là anh em"? Hay là nghĩa lớn giữa ông chủ và tên nô bộc hèn hạ?Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt,Nguyễn Trãi, Quang Trung coi Hoằng Thao, Ô Mã Nhi,Thoát Hoan là kẻ thù dân tộc, trong khi Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng lạy lục Nga Hoa, và xem chúng là anh em đồng chí? Cộng sản không có tình đồng chí anh em. Liên Xô đô hộ Đông Âu, chiếm đất Trung Quốc; Trung Quốc chiếm Mông Cổ, Tây Tạng và xâm lược Việt Nam. Còn Việt Nam xâm lược Miên, Lào. . .Đối với nhân dân thì họ vô cùng tàn ác, giết hàng triệu người, nay thì cướp đất, đem dân bán ra ngoại quốc. ..Làm sao mà bọn họ dám dùng hai chữ đạo nghĩa?

Chỉ có một số thi sĩ là tỏ ra khá một chút nhưng tất cả e cũng nằm trong âm mưu dối gạt. Tại sao trong năm 2009, bọn họ cùng nhau nói về cuộc chiến năm 1979 ?Họ giả đò thở than oán trách!
Hơn nữa, họ cũng chỉ nói cuộc chiến 1979, là điều mà cả thế giới đã biết, còn cuộc chiến và cuộc xâm lược sau đó (từ 1980 cho đến hiện nay) sao họ không nói đến?Phải chăng từ hai ông cán bộ ngoại giao cho đến các nhà văn nhà báo , được chỉ thị nói vài nét về bài học thứ nhất 1979, còn nhắm mắt bưng tai về bài học thứ hai, thứ ba và việc họ đầu hàng Trung Quốc? Ôi tất cả cũng là trò ba que xỏ lá, là thò lò hai mặt, dối mình, dối người! Nhìn chung, từ trên xuống dưới đều hèn nhát, phản quốc, hại dân, chuyên trò lường gạt.
Dầu che giấu, làm sao chúng giải thích với thế giới, với nhân dân Việt Nam và vong linh tổ tiên đã tốn xương máu giữ nước và dựng nước về những tượng đài và vòng hoa tưởng nhớ bọn Trung Cộng xâm lược?



No comments: