Sunday, January 31, 2010

TS. NGUYỄN PHÚC LIÊN * KINH TẾ


*



TƯ NHÂN HÓA, GIA ĐÌNH HÓA

HAY TRUNG QUỐC HÓA

TÀI SẢN QUỐC GIA VN

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Geneva, 28.01.2010

UNICODE: http://VietTUDAN.net

Kinh tế Trung quốc và Kinh tế Việt Nam thóat thai từ Chủ trương Kinh tế Tập quyền Chỉ huy. Chủ trương Kinh tế này còn mang một khía cạnh nhân đạo, đó là Bao Cấp và đồng hưởng Xã hội. Để có thể thực hiện Chủ trương Kinh tế ấy, thì Nhà Nước tập trung quyền lực Chính trị độc tài về mình, đồng thời giữ luôn độc quyền phác họa những kế họach Kinh tế gồm Sản xuất và phân phối Tiêu thụ.

Kinh tế nhóm đảng Mafia:

Một người làm quan, cả họ được nhờ

Chủ trương Kinh tế Tập quyền Chỉ huy và Bao cấp Xã hội đã thất bại vì tiền bạc chung bị thất thóat và bao cấp xã hội làm người ta lười biếng. Do đó, Trung quốc cũng như Việt Nam tuyên bố chuyển mình sang Chủ trương Kinh tế Tự và Thị trường. Nhưng Chủ trương Kinh tế Tự do và Thị trường THỰC SỰ đòi hỏi phải có một Môi trường Chính trị-Pháp lý phù hợp (Environnement Politico-Juridique adéquat): Tư hữu những phương tiện sản xuất và tiêu thụ, Tự do tư doanh, Tự do thương lượng và ký kết giao kèo, Luật pháp bảo đảm những quyền sinh họat Kinh tế phải do những cá nhân đồng quyết định (Dân chủ).

Trung quốc và Việt Nam nói rằng chấp nhận Chủ trương Kinh tế Tự do và Thị trường cho mọi tác nhân Kinh tế, nhưng đã đặt hệ thống Kinh tế trong một Môi trường Chính trị-Luật pháp cũ của Chủ trương Kinh tế Tập quyền Chỉ huy: độc đảng giữ trọn quyết định trên những phương tiện sản xuất, độc đảng nắm đất đai và tài nguyên quốc gia, độc đảng giữ trọn những sinh họat kinh tế/ thương mại qua những Công ty quốc doanh, Luật pháp liên quan đến sinh họat Kinh tế do độc đảng thiết lập và cá nhân phải tuân phục. Đảng đã thêm vào cái đuôi “định hướng XHCN“ để lấy cớ giữ trọn cái Mội trường Chính trị-Pháp lý bảo đảm cho độc tài Chính trị và độc quyền Kinh tế, đồng thời làm một việc bất nhân nữa là không nhận trách nhiệm bao cấp và đồng hưởng xã hội.

Đó chính là bóc lột của nhóm đảng Mafia mà kết quả là nhóm đảng Mafia trở thành giầu nứt khố và đại đa số dân chúng bị bóc lột đến nghèo kiết xác. Không có CÔNG LÝ ở một lọai Kinh tế như vậy, tất nhiên cũng không thể có HÒA BÌNH xã hội.

Sự phản kháng của đại đa số Dân chúng tại Trung quốc cũng như tại Việt Nam đang lên mạnh để đòi hỏi CÔNG LÝ và do đó HÒA BÌNH cho cá nhân và xã hội. Trước sự phản kháng lên mạnh này, nhóm đảng Mafia đã trở thành giầu có sau những chục năm bóc lột, cảm thấy rằng không thể ngồi yên thụ hưởng, nên dường như đang tìm cách cất giấu tiền bạc dưới một chiêu bài nào đó.

Việc chuyển tài sản ra nước ngòai để cất giấu là sự tất nhiên. Giới Ngân Hàng Thụ sĩ nói nhỏ với nhau rằng họ sẽ nhận được việc chuyển từ Trung quốc sang Thụy sĩ số tài sản tới USD.180 tỉ. Chúng tôi cũng đọc tin thấy rằng Việt Nam đang định “tư nhân hóa“ một số Công ty quốc doanh lớn. Đây cũng là chiêu bài để nhóm đảng Mafia cất giấu tài sản tại chính quốc nội.

Không phải chỉ nguyên chúng tôi nhận định về Kinh tế nhóm đảng Mafia Trung quốc và Việt Nam. Có nhiều người đã viết. Chúng tôi xin trích đăng một số tỉ dụ.

Nhà phân tích Bill Hayton nói về

Kinh tế Mafia gia đình tại Việt Nam

Việt Nam sẽ đi về đâu? Chắc chắn là sẽ không bình yên. Báo Foreign Policy (foreignpolicy. com) hôm 21-1-2010 có bài viết nhan đề “Vietnam’s New Money” (Đồng Tiền Mới của VN) cho thấy một viễn ảnh u ám của kinh tế và xã hội VN, và dịch tóm tắt như sau.

Nhà phân tích Bill Hayton mở đầu bài viết bằng hình ảnh ngày 16-11-2008, kể về đám cưới của 2 doanh nhân tại khách sạn sang trọng Caravelle ở Sài Gòn: Chú rể là Nguyễn Bảo Hoàng, 36 tuổi, quản trị công ty đầu tư IDG Ventures Vietnam, và cô dân là Nguyễn Thanh Phượng, 27 tuổi, chủ tịch quỹ đầu tư VietCapital. Hai công ty của cô dâu chú rể kết hợp quản trị 150 triệu đô la các khoản đầu tư ở VN.

Cô Phượng là con gái Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng. Chú rể là Việt kiều công dân Mỹ, con của một gia đình chạy khỏi VN năm 1975 để trốn chế độ CS, bây giờ trở về để cưới con của một trong những người quyền lực nhất nước.

Đám cưới này biểu hiện cho thấy Đảng CSVN vẫn khống chế cả khu vực công lẫn tư. Nhiều hãng tư thực ra nguyên là hãng quốc doanh cũ (SOE) hay vẫn còn thuôc quyền nhà nước quản lý, và hầu hết vẫn điều hành bởi các đảng viên.

Hầu hết những người chỉ huy kinh tế tư doanh hiện này là do đảng chỉ định, hay gia đình họ, hay bạn bè của họ. Giới thượng lưu CSVN đang biến chủ nghĩa tư bản VN trở thành một kinh doanh gia đình. Và nếu phiên tòa xử 4 nhà dân chủ tuần này về tội lật đổ chính phủ có dấu hiệu nào, thì tình hình củng cố quyền lực đảng là diễn biến kinh sợ cho tương lai VN.

Có nhìều điển hình về mối quan hệ gia tộc và tiền bạc, quyền lực tại VN: một trong những người giàu nhất VN là Trương Gia Bình, chủ tịch công ty tin học lớn nhất VN, hãng FPT. Bình cùng là ngưòi duy nhất tại VN thường được nhắc với nhãn hiệu “cựu phò mã” bởi vì Bình từng kết hôn với con gaí cuả tướng Võ Nguyên Giáp.

Một thí dụ khác là Đinh Thị Hoa, người VN đầu tiên tốt nghiệp MBA, cao học kinh doanh, tại Đaị Học Harvard. Khi về VN, Hoa lập công ty có tên là Galaxy. Trông thì đúng là mô hình kinh tế tư doanh. Nhưng Galaxy là một trong nhiều công ty thuộc sở hữu của con cái các lãnh tụ đảng. Khi WB cấp học bổng cho Hoa, cha của Hoa là Thứ Trưởng Ngoaị Giao.

Việc kết hợp tài sản của cả nước vào tay các gia đình quyền thế tại VN đang bóp méo nền kinh tế này: kinh tế sẽ đi theo ý muốn của một số ít người, chứ không đi theo nhu cầu của đa số dân. Và mạng lưới chủ nghĩa xã hội bè cánh chia chác kinh tế đang trở thành một đe dọa cho ổn định tương lai VN. VN có cơ nguy gặp số phận của nhiều đứa con cưng trước kia của WB -- bùng nổ kinh tế, rồi sẽ sụp đổ.

Các hãng quốc doanh lớn nhất được hưởng nguồn tài trợ tiền không minh bạch cho các dự án tài chánh với rất ít hợp lý về kinh tế. Vào tháng 6-2008, tới 28 hãng quốc doanh xài 1.5 tỉ đô để thiết lập hay mua cổ phần trong các công ty quản lý tiền đầu tư, các hãng chứng khoán, các ngân hàng thương mại và các hãng bảo hiểm. Có 3/4 công ty tài chánh VN hiện sở hữu của các hãng quốc doanh lớn nhất (còn gọi là tổng công ty).

Với tiền dễ dàng xài như thế, nên mới xảy ra hiện tượng các hãng quốc doanh phải hối lộ khách hàng, cán bộ và thanh tra để nhắm mắt cho vi phạm luật. Câu hỏi là, vào thời khoảng khủng hoảng, Đảng CSVN có thể trừng phạt chính các đảng viên của họ không để đưa kinh tế đen naỳ trở lại vòng kiểm soát. Nhưng bao lâu nữa mới có thể làm thế?

Vụ kết án các nhà dân chủ tuần này có phaỉ là dấu hiệu cho thấy mạng lưới tham nhũng của đảng, của quyền lực và của đặc quyền hiện đã ra ngoaì vòng kiểm soát?

Tim JOHNSTON viết về tư nhân hóa

các Tổng Công ty Việt Nam

Ngày 06.01.2010, từ Bangkok, Ký giả Tim JOHNSTON, dưới đề mục TƯ NHÂN HÓA (PRIVATISATION) đăng trên FINANCIAL TIMES trang 15, đã viết về việc Nguyễn Tấn Dũng sắp cho tư nhân hóa hai Tổng Công ty lớn của Nhà Nước, đó là PETROLIMEX và VIETNAM STEEL CORP.

Petrolimex, trước đây gọi là Vietnam National Petroleum Corp., chính yếu nhập cảng dầu lửa cho cả nước. Hiện Petrolimex có tất cả 6'000 trạm phân phối xăng dầu trên tòan quốc.

Vietnam Steel Corp. là Tổng Công ty sản xuất và cung ứng sắt thép cho Việt Nam.

Phải chăng đây là tiến trình tư nhân hóa Kinh tế hay chỉ vì những lý do sau đây:

=> Tổng Công ty Nhà Nước lãng phí, thua lỗ mà Ngân qũy Nhà Nước thiếu hụt không còn sức bù thêm tài chánh nữa.

=> Một chiêu bài để con cháu đảng giầu có mua lại Công ty nhà nước làm tư hữu và giấu tài sản. Đây có thể gọi là gia đình hóa, hay nhóm đảng hóa tài sản quốc gia.

=> Trung quốc có nhiều tiền muốn chuyển ra nước ngòai. Nếu Trung quốc mua lại đa số phần hùn Petrolimex, thì họ giữ quyền kiểm sóat xăng nhớt tại Việt Nam. Đây sẽ nằm trong chương trình xâm lăng Kinh tế vậy.

=> Cũng vậy, nếu Trung quốc mua đa số phần hùn trong Tổng Công ty Sắt Thép Việt Nam, họ có thể biến Tổng Công ty này thành một chi nhánh Sắt Thép của họ đã khá mạnh trên Thế giới.

Tác giả Tim Johnston nhận định rằng: “The appetite for investment in Vietnam is quite low!“ (Sự ham muốn đầu tư vào Việt Nam còn hòan tòan thấp). Bỏ vốn đầu tư vào một Tổng Công ty vẫn lệ thuộc ở một hệ thống Luật pháp độc tài, độc đảng, đó là liều lĩnh.

Chúng tôi cũng nghĩ rằng giới Việt kiều có thể về thăm Quê Hương, giúp vốn cho người nhà làm ăn nhỏ, nhưng chưa dám bỏ số vốn lớn để hùn vào Petrolimex hoặc Vietnam Steel Corp.

Đại đa số dân chúng thì nghèo khổ, làm sao có tiền hùn vốn mua Petrolimex hoặc Vietnam Steel Corp. Chỉ có nhóm đảng Mafia, đã cướp bóc được nhiều tiền, cánh nhóm đảng Mafia Trung quốc, có thể bỏ vốn mua để cất giấu tài sản.

Jamil ANDERLINI viết về những Công ty của

con Thủ tướng ÔN GIA BẢO

và con Chủ tịch HỒ CẨM ĐÀO

Một sự trùng hợp hy hữu. Cũng trong thời gian này, Tác giả Tim ANDERLINI từ Bắc Kinh, cũng dưới đề mục tài sản tư, viết đăng trên tờ FINANCIAL TIMES ngày hôm qua 27.01.2010, trang 17, một bài về những Công ty của con trai Thủ tướng Oâng Gia Bảo và của con trai Chủ tịch Hồ Cẩm Đào. Con gái Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, con rể của Tướng Võ Nguyên Giáp, tại Việt Nam, nhờ quyền lực độc tài đảng, mà làm ăn giầu có, thì tại Trung quốc, con trai Thủ tướng Oân Gia Bảo và con trai Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, cũng dựa quyền thế sinh sát độc đóan của đảng mà làm ăn thâu tóm tài sản.

ÔN YUNSONG, cũng gọi là Winston ÔN, con trai của Thủ tướng Oâng Gia Bảo, có Công ty tư nhân về tài chánh NEW HORIZON có thể đầu tư tiền tỷ Đo-la. Chúng tôi xin dịch một đọan viết của Tác giả Jamil ANDERLINI:

“Một Tập đòan Tài chánh được thành lập bởi con trai của Oân Gia Bảo, Thủ tướng Trung quốc, đã cùng với một số nhà đầu tư nước ngòai sắp đầu tư số lượng USD.1 tỷ vào lục địa Trung quốc.“

“ÔN Yunsong, cũng được gọi là Winston ÔN, là con trai độc nhất của Thủ tướng Trung quốc, có Tập đòan Tài chánh NEW HORIZON với vốn lúc đầu USD.750 triệu và sắp tăng lên USD.1 tỷ trong những tuần tới.“

Về những bí mật làm việc của những con cái các Lãnh đạo của đảng Cộng sản, Tác giả Jamil ANDERLINI viết: “The children of China’s Leaders enjoy unparalelled access to decision-makers and are seen as essential facilitators by foreign businesses operating in the country. But while their names can help attract investors, any public perception in China that they are trading on their family’s name can be politically devastating and details of their activities are often regarded as state secrets. Internet searches for information on NEW HORIZON and Winston WEN were blocked in China yesterday.“ (Những con cái của các Lãnh đạo tại Trung quốc được hưởng liên hệ không sánh được về việc liên hệ trực tiếp với những người có quyền quyết định và được coi như là những người dàn xếp chính yếu bởi nhà kinh doanh nước ngòai làm việc trọng xứ Tầu. Nhưng trong khi tên của những con cái các Lãnh tụ này có thể quyến rũ những nhà đầu tư, thì bất cứ những sự biết đến của quần chúng rằng những người con này đang làm ăn dựa trên tên gia đình của họ có thể gây tàn phá về mặt chính trị, và những chi tiết họat động của họ thường được coi là những bí mật nhà nước. Những truy tìm tin tức bằng Internet về Tập đòan New Horizon và về Winston ÔN đã được ngăn chặn lại hôm qua tại Trung quốc) (FINANCIAL TIMES 27.01.2010, trang 17).

Về riêng con trai của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, Tác giả Jamil ANDERLINI cũng viết như sau: “In similar situation in July last year, the Central Propaganda Department ordered all Chinese search engines to block searches related corruption probe in Namibia involving Nuctech, the airport scanner group controlled by Hu Haifeng, 38-year-old son of Hu Jintao, China’s president“. (Trong hòan cảnh giống như vậy vào tháng Bẩy năm ngóai, Bộ Tuyên truyền Trung ương đã ra lệnh xử dụng tất cả những phương tiện tìm kiếm đóng chặt những truy tìm bằng chứng tham nhũng ở Namibia liên hệ đến NUCTECH, Tập đòan Air Scanner dưới quyền kiểm sóat của Hồ Haifeng, con trai 38 tuổi của Hồ Cẩm Đào, Chủ tịch Trung quốc) (FINANCIAL TIMES 27.01.2010, trang 17).

Kinh tế nhóm đảng Mafia Trung quốc và Việt Nam đang tìm cách giấu cất tài sản bằng tư nhân hóa hay gia đình hóa những Công ty quốc doanh vậy.

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

SƠN TRUNG * ƯNG BÌNH THÚC GIẠ THỊ & ĐÔNG HỒ

*



ƯNG BÌNH THÚC GIẠ THỊ (1877- 1961),
VÀ ĐÔNG HỒ ( 1906 - 1969),


Năm 1956, sau cuộc thi tuyển, tôi vào học lớp đệ tam trường Quốc Học Huế. Trong cuộc đời học sinh trung học, chúng tôi có hai năm ăn chơi nhàn hạ là năm đệ ngũ và năm đệ tam. Thực sự năm đệ ngũ chúng tôi phải luyện thi để năm sau thi Trung học đệ nhất cấp. Sau một thời gian luyện thi cực khổ để lấy bằng Trung học đệ nhất cấp, năm đệ tam mới thât sự là nghỉ xả hơi để sang năm lại thi Tú tài bán phần, rồi Tú tài toàn phần.

Năm đệ tam, chúng tôi rủ nhau đi du sơn du thủy. Gần thì đi thăm các cung điện, lăng tẩm ở Huế, xa thì ra Quảng Trị xem cầu Hiền Lương hay vào Đà Nẵng thăm Ngũ Hành Sơn. Có vài bạn đi Sài gòn hay Nha Trang, Đà Lạt. Cuộc đời học sinh của chúng tôi lúc đó thật là vui vẻ, sung sướng.


Tôi ở Huế nghe danh cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị. Mặc dầu tôi có anh bạn là cháu cụ Ưng Bình, nhưng tôi quyết định đi một mình đến thăm cụ. Tôi ở đường Gia Hội, qua cầu Tràng Tiền, rẽ phải là qua Morin, rẽ trái là qua Đập Đá về Vỹ Dạ. Nhà cụ là một biệt thự ở thôn Vỹ Dã. Thôn này đã trở thành một ấn tượng sâu sắc trong lòng người Việt khắp nơi vì bài thơ "Đây thôn Vỹ Dạ " của Hàn Mặc Tử.

Khi tôi bước vào phòng khách, tôi chờ đợi độ năm phút thì cụ bước ra. Cụ mặc áo dài đen, dáng người nho nhã, mặt thanh tao. Lúc bấy giờ Ưng Bình lão nhân đã 80 tuổi, nhưng bước đi vững vàng, thân hình dẻo dai, giọng nói ấm áp, rõ ràng, cử chỉ khoan thai. Cụ là một bậc đại thi nhân ở Huế, dòng dõi lá ngọc cành vàng. Còn tôi chỉ là một cậu học sinh vô danh tiểu tốt, mới 18 tuổi tuổi đầu. Ấy thế mà cụ lại tiếp tôi! Tôi thấy thái độ cởi mở và khoan dung độ lượng của cụ làm tôi kính nể và cảm động!




Cụ nhẹ nhàng hỏi tên tuổi của tôi. Tôi thưa mọi điều với cụ, và nói rõ mục đích là tới thăm một thi hào của xứ Huế. Cụ chỉ cho tôi một quyển sổ lớn, rất dày đặt bàn bên cạnh, yêu cầu tôi ghi vài dòng lưu niệm. Quyển sổ rất nặng và đã cũ, xem ra đã có hàng trăm, hàng ngàn người đến thăm cụ và đã viết . Quyển sổ chỉ còn lại một số it trang.


Tôi ghi ngày tháng, tên họ , ký tên. và để lại chỗ cũ. Trong khi tôi hý hoáy ghi tên họ, cụ thong thả bỏ trầm vào lò hương ở trên bàn. Hương trầm thơm ngát, căn phòng rộng rãi mà yên tĩnh, không người qua lại. Tôi hỏi cụ một vài điều về thi ca, về những nhân vật trong lịch sử, và cụ trả lời rất đầy đủ.

Cụ cho tôi uống nước trà, và cười nói vui vẻ. Ngồi với cụ khoảng nửa giờ, tôi không dám làm phiền cụ nữa mà đành bái biệt ra về. Lúc bấy giờ tôi là một học sinh trung học, kiến thức không có là bao cho nên không có gì để hỏi han cụ, ngoài cái tò mò của tuổi trẻ và lòng kính trọng một danh nhân.


Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng trong suốt cuộc đời tôi, hình ảnh thanh nhã của cụ in sâu vào lòng tôi. Tôi không thích thơ chữ Hán và thơ nôm của cụ nhưng tôi kính trọng cái đức độ của cụ, có thể nói là cái cốt cách đạo hạnh Nho gia và tính cách quý phái vương giả đã hòa hợp trong con người của lão thi nhân một cách tuyệt diệu.



Sau đó vài năm, tôi vào Sài gòn học Đại học Văn Khoa và Đại Học Sư Phạm. Năm 1964, tôi hoàn tất cử nhân Văn Khoa và tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm. Tôi yêu thích văn chương nên xin làm luận án Cao Học Văn chương Việt Nam với giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch.


Luận án của tôi là nghiên cứu Tản Đà. Công việc đấu tiên của tôi là đọc các tác phẩm của Tản Đà và các tài liệu về Tản Đà. Ngoài ra, tôi phải đi gặp các thân nhân và những người quen biết Tản Đà. Tôi đọc An Nam tạp chí thấy Đông Hồ có gửi thư cho Tản Đà, và trong thời gian Tản Đà vào Nam có lẽ hai thi sĩ đã gặp nhau. Vì vậy, tôi đã đến thăm Đông Hồ để hỏi đôi điều về Tản Đà.

Lúc bấy giờ thi sĩ Đông Hồ ở gần khu hồ tắm Chi Lăng Gia Định. Tôi xin gặp tiên sinh thì được tiên sinh cho gặp mặt. . Đông Hồ tiên sinh mặc áo dài đen, khăn đóng ra tiếp tôi. Cũng như Ưng Bình lão nhân, tiên sinh đưa cho tôi một quyển sổ lưu niệm để sẵn trong phòng cho tôi ghi vào tên họ, ngày tháng và chữ ký.

Cũng như Ưng Bình lão nhân, khuôn mặt và dáng vẻ của tiên sinh rất từ ái và bình dị, nói năng ôn hòa và không tỏ vẻ khó chịu khi phải gặp một chàng trai trẻ lạ đến quấy nhiễu cái tĩnh mịch của thi nhân.


Cũng như Ưng Bình Thúc Giạ Thị, thi sĩ Đông Hồ cũng đặt một đỉnh trầm hương ở trên bàn và đốt lên khiến mùi trầm tỏa khắp căn phòng tạo cho tôi cảm giác nhẹ nhàng, khoan khoái. Tiên sinh cũng pha trà đãi tôi. Cách pha trà của tiên sinh rất cầu kỳ giống như Ưng Bình. . Trước hết, tiên sinh bỏ trà vào ấm trà, sau chuyển nước trà sang chén tống cho trà lắng xuống, rồi rót ra hai chén con, một cho tiên sinh và một cho tôi!

Khi tôi hỏi vài chi tiết về Tản Đà, thi sĩ đã vui vẻ trả lời . Thăm tiên sinh một giờ, tôi xin phép ra về. Trước khi tôi ra về, tiên sinh đem tặng cho tôi mấy cuốn thơ của tiên sinh. Tiên sinh có mấy cái triện. Cái vuông, cái tròn, cái hình bán nguyệt, cái to, cái nhỏ., Tiên sinh đóng triện son và ký tên vào tác phẩm của tiên sinh trước khi trao tặng tôi. Tiên sinh giải thích cho tôi cách dùng son đóng triện. Son của Trung Quốc và Việt Nam thì chế tạo đặc biệt, rất đỏ và bền lâu, không nhoè và phai như mực đỏ Âu Mỹ.


(Đông Hồ và Thất Tiểu Muội)

Đông Hồ tiên sinh là một nhà thơ mới. Sống trong vòng nôi của thơ Đường, tiên sinh đã hấp thụ được tinh hoa của tân học cho nên tiên sinh cũng đã bắt kịp xu hướng của thời đại, mạnh dạn gia nhập vào thơ mới và đã thành công.

Sau 1945, thơ ông đã già nhưng cốt cách của ông cũng như Ưng Bình Thúc Giạ Thị là cốt cách của tao nhân Lý Trần mang tính cách của thi nhân, của nho sĩ quý phái và thanh lịch trong thế giới của văn chương, của tao nhân mặc khách.

Một vài người ưa giản dị, không thích cung cách của người xưa, riêng tôi, tôi tôn kính phong cách của Ưng Bình và Đông Hồ mà nay những người đó đã đi xa và không còn để lại dấu vết.





Ưng Bình và Đông Hồ là hai con người cuối cùng của thế hệ cũ. Ngày nay dù chúng ta muốn sống như thời xưa cũng không được nữa. Có nhiều điều ngăn chận chúng ta đi ngược chiều lịch sử:

+Những phong cách cũ, trong vùng cộng sản sẽ bị phê bình là phong kiến, tư sản, tiểu tư sản, xa cách quần chúng.
+Chúng ta không còn mang y phục cổ truyền. Trong chiến tranh Việt Pháp (1945-1954), ngoại trừ vùng Pháp chiếm đóng là mang Âu phục và y phục cổ truyền, còn các nơi đều mang bà ba, Bộ đội, cán bộ thì mang đủ thứ y phục. Trong giỗ tết, hôn nhân và tang ma, người ta không còn mang áo dài đen, đầu đội khăn đóng. Ở hậu phương, phụ nữ cắt bỏ áo dài sửa thành áo ngắn và nhuộm nâu để thành vô sản .
+Trong vùng cộng sản, cha con, anh em đều gọi nhau bằng đồng chí, không còn ông bà, tiên sinh, ngài. ..
+Sau 1945, nhất là sau 1954, tại vùng cộng sản, những con người như Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, cụ nghè Nguyễn Mại, Ngô Tất Tố, Ưng Bình, Phan Văn Dật, Đông Hồ, Võ Phiến, Quách Tấn đã bị tù, hoặc bị giết. . .nhưng lại nẩy sinh ra một lớp vô sản mang danh cán bộ, bộ đội, công an, đảng viên. . .
+ Ngày nay, trầm rất đắt. Hơn nữa ta không dùng than củi nện không thể đốt trầm, Lại nữa, dùng đỉnh trầm có thể gây ra hỏa hoạn. Ở ngoại quốc người ta đề phòng hỏa hoạn rất ráo riết cho nên việc đốt giấy, đốt vàng mã, đốt hương đều phải bỏ hoặc hạn chế. Muốn cho thơm, nay chúng ta có thể sống giản dị bằng cách dùng nhiều loại nước hoa chứ không xông trầm đeo hương như xưa.
+ Sau 1945, ở các vùng cộng sản kiểm soát, người ta không dám viết nhật ký và giữ sổ lưu niệm Viết lưu bút sẽ bị phanh phui tình cảm của mình, dễ bị kết tội là lãng mạn, đồi trụy. Còn giữ sổ lưu niệm vì sẽ bị tra hỏi, tù tội nếu chẳng may ta quen với một người bị kết tội phản động. Chúng ta có thể bị bạn bè hay người thân mang nhật ký, sổ lưu niệm của ta đi trình công an hoặc cơ quan của ta. Thật là bất tiện và nguy hiểm!

*

TẠP CHÍ VĂN HÓA VIỆT NAM 127

SƠN TRUNG
chủ biên


CANH DẦN 2010


CUNG CHÚC TÂN XUÂN

KÍNH CHÚC QUÝ ĐỘC GIẢ AN KHANG THỊNH VƯỢNG

số 127
ngày 1-2- 2010
Cập nhật tháng 9-2012








TIN THẾ GIỚI * MỸ & TRUNG CỘNG

TIN BBC

*

TQ phản ứng vì Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan


Tên lửa Patriot

Hợp đồng bán vũ khí hơn 6 tỷ USD không bao gồm chiến đấu cơ F-16.

Trung Quốc tuyên bố sẽ trừng phạt những công ty Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan, và sẽ tạm ngừng trao đổi quân sự với Hoa Kỳ sau khi Washington đề nghị bán vũ khí cho Đài Loan, trị giá 6.4 tỷ USD.

Chương trình bán vũ khí này đã được chính quyền Bush cam kết, bao gồm hệ thống phòng thủ tên lửa và trực thăng.

Bắc Kinh, vốn coi Đài Loan là tỉnh bội phản, phản ứng giận dữ trước tin này. Bắc Kinh nói hợp đồng bán vũ khí sẽ “ảnh hưởng nghiêm trọng” đối với mối quan hệ song phương.

Sau khi cuộc nội chiến chấm dứt năm 1949, Đài Loan tách ra khỏi Trung Quốc.

Bắc Kinh từng lắp đặt hàng trăm tên lửa nhắm đến hòn đảo. Trong quá khứ TQ có lần hù dọa sẽ dùng vũ lực để đưa Đài Loan về lại chủ quyền của Trung Quốc.

Bắc Kinh cảnh báo

Tân Hoa Xã dẫn lời bộ quốc phòng nói Trung Quốc "quyết định tạm ngừng các chuyến thăm quân đội đã có trong kế hoạch".

Hãng tin nhà nước cũng nói tùy viên quân sự Mỹ đã bị triệu tới để nghe phản đối.

Hợp đồng bán vũ khí hơn 6 tỷ USD không bao gồm chiến đấu cơ F-16, mặt hàng quân đội Đài Loan rất muốn muốn sở hữu.

Theo luật Mỹ, Cơ quan hợp tác quốc phòng phải thông báo cho Quốc hội Mỹ về hợp đồng bán vũ khí. Cho đến nay việc chuyển giao vũ khí chưa xảy ra.

Đề nghị bán vũ khí

  • 114 Tên lửa Patriot (trị giá 2,81 tỷ USD)
  • 60 Trực thăng Black Hawk (3,1 tỷ USD)
  • Thiết bị thông tin liên lạc (340 triệu USD)
  • 2 Tàu dò mìn Osprey (105 triệu USD)
  • 12 Hỏa tiễn Harpoon (37 triệu USD)

Nguồn: Defense Security Co-operation Agency

Hãng AP đưa tin các nhà làm luật Mỹ có 30 ngày để bình luận về vụ bán. Nếu không có phản đối, hợp đồng bán vũ khí sẽ được tiến hành.

Đề nghị bán vũ khí của Hoa Kỳ bao gồm 114 tên lửa Patriot, 60 trực thăng Black Hawk, thiết bị thông tin liên lạc dùng cho phi đoàn F-16 của Đài Loan.

Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, He Yafei nói đề nghị bán vũ khí của Hoa Kỳ cho Đài Loan “sẽ có ảnh hưởng nghiêm trọng” đối với hợp tác Mỹ-Trung Quốc.

Trong bài viết đăng trên website của Bộ Ngoại giao TQ ông nói chính phủ Trung Quốc cực kỳ phản đối vụ bán vũ khí.

Trước đây Bắc Kinh đã cảnh báo Mỹ không nên bán vũ khí cho Đài Loan. Quan hệ giữa hai nước thời gian vừa qua đã bị căng thẳng phần nào do tranh cãi về thuế đánh vào thép ống Trung Quốc. Và việc Bắc Kinh kiểm duyệt mạng internet.

Cơ quan hợp tác quốc phòng Hoa Kỳ, DSCA nói đề nghị bán vũ khí sẽ hậu thuẫn nỗ lực của Đài Loan nhằm “hiện đại hóa quân đội và tăng cường khả năng phòng thủ.”

DSCA nói thêm: "Thương vụ bán vũ khí sẽ giúp gia tăng an ninh của nước mua, giúp nước này duy trì ổn định chính trị, cân bằng quân sự và phát triển kinh tế trong vùng.”

Dù Hoa Kỳ theo đuổi chính sách một Trung Hoa từ năm 1979, hiện nay Mỹ là quốc gia cung cấp vũ khí lớn nhất cho Đài Loan.

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2010/01/100130_taiwan_arms_sale.shtml

*

Trung Quốc chỉ trích Mỹ "ngạo mạn"


Truyền thông nhà nước Trung Quốc cáo buộc Hoa Kỳ là "ngạo mạn" và "chuẩn mực nước đôi" trong việc muốn bán vũ khí cho Đài Loan.

Báo China Daily, và Global Times cũng cảnh báo rằng các đe dọa trả đũa của Trung Quốc là có thật.

Hồi tuần trước, chính quyền của ông Obama chuẩn thuận vụ bán vũ khí trị giá 6.4 tỷ đô la cho Đài Loan.

Trung Quốc đã cảnh báo về "tổn hại nghiêm trọng" tới quan hệ giữa hai cường quốc, cũng như khả năng tạm ngưng quan hệ quân sự và áp lệnh trừng phạt đối với các công ty Mỹ có liên quan.

Hoa Kỳ nói sẽ vẫn tiếp tục thực hiện thỏa thuận mua bán.

'Tư duy chiến tranh lạnh'

Truyền thông nhà nước Trung Quốc nói ông Obama hẳn đã rất "thiếu chân thành" khi cam kết sẽ không "kiềm chế" Trung Quốc.

Bước đi của Hoa Kỳ "cho thấy việc Hoa Kỳ sử dụng tiêu chuẩn kép và đạo đức giả về các vấn đề lớn liên quan tới những quyền lợi cơ bản của Trung Quốc," tờ China Daily nói.

Ngoài những phản ứng ngoại giao giận dữ, Bắc Kinh còn đe dọa sẽ sử dụng vũ lực đối với Đài Loan.

Báo People's Daily có bài xã luận nhận xét việc bán vũ khí cho thấy Washington có "lối suy nghĩ thời chiến tranh lạnh thô lỗ và phi lý."

Trong một bước đi chính thức phản đối về mặt ngoại giao, Trung Quốc nói cuộc tranh cãi sẽ làm nguy hại cho sự hợp tác với Hoa Kỳ trên "các vấn đề quốc tế và khu vực cơ bản."

Bắc Kinh đặt hàng trăm hỏa tiễn hướng vào Đài Loan và đe dọa sẽ sử dụng vũ lực để kiểm soát tình hình nếu hòn đảo này hướng tới việc đòi độc lập chính thức.

Quan hệ quốc phòng giữa Washington và Bắc Kinh đã trở nên băng giá trong vài năm qua do sự khác biệt quan điểm trong vấn đề Đài Loan, dù các nhà lãnh đạo hai nước hồi năm 2009 đều cam kết cải thiện tình hình.

Hoa Kỳ từ chỗ thừa nhận về mặt ngoại giao đối với Đài Bắc chuyển sang thừa nhận Bắc Kinh hồi năm 1979 và công nhận "một Trung Quốc".

Tuy nhiên, Hoa Kỳ vẫn là đồng minh lớn nhất của Đài Loan và chịu trách nhiệm hỗ trợ quốc phòng cho hòn đảo theo Hiệp Ước Quan Hệ Đài Loan 1979.

Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ hôm thứ Bảy nói việc bán vũ khí góp phần tạo "an ninh và ổn định" giữa Đài Loan và Trung Quốc.

Mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã căng thẳng do có tranh cãi về vấn đề thương mại và kiểm soát internet.




*

Mỹ bảo vệ việc bán vũ khí cho Đài Loan


Tàu chiến Đài Loan tại căn cứ Cao Hùng

Trung Quốc đe dọa có phản ứng trả đũa

Hoa Kỳ cương quyết bảo vệ hợp đồng 6,4 tỷ đôla tiền vũ khí cho Đài Loan cho dù Trung Quốc phản ứng giận dữ và dọa trả đũa.

Bộ Ngoại giao Mỹ hôm thứ Bảy ra thông cáo nói việc bán vũ khí sẽ đóng góp cho "an ninh và ổn định" giữa Đài Loan và Trung Quốc.

Bắc Kinh đã đe dọa một loạt hành động trả đũa nhằm vào Hoa Kỳ. Quan hệ hai bên vốn đã căng thẳng vì mâu thuẫn thương mại và kiểm soát mạng internet.

Thông tấn xã Reuters trích lời người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Laura Tischler nói: "Các hợp đồng mua bán như vậy đóng góp cho việc duy trì an ninh và ổn định qua eo biển Đài Loan".

Mỹ là nước bán vũ khí nhiều nhất cho Đài Loan và hai bên đã có hiệp ước cung cấp vũ khí tự vệ.

Bắc Kinh về phần mình tuyên bố sẽ ngừng trao đổi quốc phòng với Washington, xem xét lại việc hợp tác trên nhiều lĩnh vực quan trọng và cấm vận các công ty vũ khí.

Tuy nhiên về điều cuối cùng này, người ta không rõ cấm vận thì có ý nghĩa gì vì các công ty Mỹ, cũng như châu Âu, từ khi có sự kiện Thiên An Môn năm 1989 đã bị cấm bán vũ khí cho Trung Quốc.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoàng Học Bình nói các biện pháp của Trung Quốc cho thấy sự "nguy hại nghiêm trọng" của hợp đồng bán vũ khí.

Quan hệ căng thẳng

Đài Loan và Trung Quốc có hai chính thể tách biệt kể từ cuối cuộc nội chiến 1949.

Bắc Kinh đã đặt hàng trăm hỏa tiễn hướng tới Đài Loan và đe dọa sử dụng vũ lực nếu Đài Loan đòi độc lập một cách chính thức.

Hợp đồng vũ khí

  • 114 tên lửa Patriot ($2,81 tỷ)
  • 60 trực thăng Black Hawk ($3,1 tỷ)
  • Thiết bị liên lạc ($340 triệu)
  • 2 tàu dò mìn Osprey ($105 triệu)
  • 12 tên lửa Harpoon ($37 triệu)

Quan hệ quốc phòng giữa Washington và Bắc Kinh đã ngưng trệ nhiều năm vì chủ đề Đài Loan, tuy năm 2009 hai bên hứa hẹn sẽ cải thiện.

Trong khi đó, Đài Loan hoan nghênh quyết định của Mỹ.

Hãng thông tấn trung ương nước này trích lời Tổng thống Mã Anh Cửu nói hợp đồng bán vũ khí sẽ khiến Đài Loan tự tin hơn để có thêm các hoạt động trao đổi với Trung Quốc.

Bộ Quốc phòng Mỹ trước đó đã báo cáo với Quốc hội về thỏa thuận bán vũ khí này, vốn là một phần của hợp đồng lớn hơn ký từ thời Tổng thống Bush.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa việc bán vũ khí đã được thực hiện.

Các dân biểu Hoa Kỳ có 30 ngày để suy nghĩ về thỏa thuận này và nếu họ không phản đối, nó sẽ được tiến hành.

Theo hợp đồng này Mỹ sẽ cung cấp cho Đài Loan 114 tên lửa Patriot, 60 trực thăng Black Hawk và trang thiết bị liên lạc cho không đội F-16 của Đài Loan.

Tuy nhiên, trong đó không có chiến đấu cơ F-16 mà Đài Loan nghe nói đang muốn mua thêm.

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2010/01/100131_us_taiwan_arms.shtml

*
Hoa Kỳ thuận bán hỏa tiễn cho Đài Loan


Hoa Kỳ bán hỏa tiễn phòng không Patriot cho Đài Loan

Hoa Kỳ đã chấp thuận bán các hỏa tiễn phòng không cho Đài Loan mặc cho Trung Quốc phản đối và các vụ tranh chấp về mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Theo thỏa thuận này, công ty Lockheed Martin sẽ bán hệ thống phòng không Patriot cho Đài Loan.

Hợp đồng này trị giá 6.5 tỷ đô-la trước đây đã được cựu Tổng Thống George W Bush chấp thuận hồi năm 2008.

Ước lượng Trung Quốc có đến 1500 hỏa tiễn nhắm vào đảo Đài Loan mà Trung Quốc coi là một lãnh thổ bất khả phân của họ.

Các nhà phân tích về quốc phòng nói rằng hỏa tiễn Patriot Advanced Capability-3 là một trong các hỏa tiễn tốt nhất thuộc loại này, có khả năng bắn hạ các hỏa tiễn tầm ngắn và tầm trung.

Đài Loan trông cậy vào võ khí của Hoa Kỳ để bảo vệ cho việc phòng thủ của họ.

Hồi tháng 11 vừa qua, một ủy ban tư vấn của Hoa Kỳ về quan hệ Mỹ-Trung đã cảnh báo rằng Bắc Kinh đang xây dựng một lực lượng hải quân có khả năng ngăn quân đội Hoa Kỳ đến được vùng này nếu như chiến tranh giữa Trung Quốc và Đài Loan bùng nổ.

Trong quá khứ, Trung Quốc lúc nào cũng dọa sẽ sử dụng vũ lực để tái thống nhất với Đài Loan nếu như Đài Loan tuyên bố độc lập, tuy nhiên, liên hệ song phương đã cải thiện từ khi Tổng thống Mã Anh Cửu đắc cử hồi năm 2008.

Một vài ngày trước khi Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ xác nhận hợp đồng bán võ khí này, Trung Quốc cảnh báo liên hệ Mỹ-Trung sẽ bị tổn hại vì hợp đồng này.

Hôm thứ Ba 5/1, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Quốc bà Khương Du trong một cuộc họp báo thường lệ nói: "Chúng tôi thúc giục Hoa Kỳ nhìn nhận tầm mức quan trọng của vụ bán vũ khí này cho Đài Loan, và hủy bỏ bất cứ toan tính bán võ khí nào cho Đài Loan để không làm phương hại cho mối liên hệ Mỹ Trung."

Mới đây, Hoa Kỳ đã nâng thuế quan biểu đối với các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, trong đó, có các ống thép và lớp xe và Trung Quốc đã cảnh báo trước tình trạng mà Trung Quốc gọi là bảo vệ hàng nội hóa của Hoa Kỳ.

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2010/01/100108_us_arms_sales_taiwan.shtml

*

ĐÀI RFI * TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM

*



Hai kịch bản đang chờ đón Trung Quốc và Việt Nam : Thay đổi hoặc sụp đổ

Thanh Phương

Bài đăng ngày 30/01/2010 Cập nhật lần cuối ngày 30/01/2010 19:22 TU

Nhà ly khai Trung Quốc Ngụy Kinh Sinh(DR)

Nhà ly khai Trung Quốc Ngụy Kinh Sinh
(DR)

Trên đây là nhận xét của nhà ly khai Trung Quốc Ngụy Kinh Sinh trong một bài tham luận đọc tại một cuộc hội thảo ở Los Angeles về nhân quyền và dân chủ ở Trung Quốc và Việt Nam vào tuần trước. Toàn văn bài tham luận này được đăng trên trang web của hãng tin AsiaNews.it ngày 29/1.

Trong một bài tham luận đọc tại một cuộc hội thảo ở Los Angeles về nhân quyền và dân chủ ở Trung Quốc và Việt Nam vào tuần trước, nhà ly khai nổi tiếng Ngụy Kinh Sinh đã so sánh tình hình giữa hai quốc gia. Toàn văn bài tham luận này hôm qua (29/1) đã được đăng trên trang web của hãng tin AsiaNews.it.

Được coi là '' cha đẻ của phong trào dân chủ'' ở Trung Quốc, ông Ngụy Kinh Sinh, hiện sống lưu vong ở Hoa Kỳ, vẫn cực lực phản bác những người cho rằng có thể phát triển kinh tế mà không cần đến dân chủ, nhân quyền.

Trong bài tham luận, ông Ngụy Kinh Sinh nhận định : '' Mặc dầu cả hai nước đều đã chuyển hóa thành những quốc gia tư bản độc quyền, nhưng có những điểm khác với những nước Đông Âu và Nga. Khác biệt lớn nhất đó Trung Quốc và Việt Nam vẫn còn sống dưới chế độ độc đảng. Do không có sự tranh đua trong một thể chế đa đảng, cả hai nước đều không có một môi trường thông thoáng hơn cho ngôn luận và báo chí như ở Đông Âu và Nga''.

Theo ông Ngụy Kinh Sinh, '' Ở Việt Nam và Trung Quốc, phe đối lập rất khó tồn tại trong nước, còn phe đối lập ở hải ngoại thì càng khó mà tham gia vào chuyện chính trị quốc nội.''

Nhà ly khai Ngụy Sinh Sinh lưu ý rằng, các cơ quan an ninh của Đảng nay hoạt động rất hiệu quả, tức là gài người khắp nơi để làm chệch hướng đấu tranh, gây chia rẽ và thậm chí gài bẫy các lực lượng.

Cho nên, rất khó mà có một lực lượng đoàn kết, tổ chức chặt chẽ để thúc đẩy chuyển hóa hay cách mạng.

Hiện nay, theo nhà ly khai Trung Quốc, việc huy động nhân dân chỉ có thể thực hiện được nhờ những công cụ truyền thông đại chúng. Chính vì vậy mà chế độ cộng sản Trung Quốc vẫn nỗ lực ngăn chận thông tin cả trên báo chí lẫn trên mạng Internet.

Mặt khác, theo ông Ngụy Kinh Sinh, do thiếu tôn trọng nhân quyền, việc bóc lột, đàn áp từ các giới quan chức cấu kết với giới doanh nghiệp càng trắng trợn hơn và như vậy càng khiến sự phản kháng mạnh mẽ hơn.

Nhưng cũng do các quan chức cấu kết ngày càng chặt chẽ với giới doanh nghiệp, chính phủ nay không thể đóng vai trò trọng tài phân xử các tranh chấp kinh doanh. Cuộc đấu đá trong nội bộ giới lãnh đạo càng dữ dội hơn bao giờ hết.

Ông Ngụy Kinh Sinh nhắc lại : ''Trong những thập niên qua, môi trường quốc tế đã không thuận lợi cho các lực lượng đối lập ở Trung Quốc và Việt Nam''.

Trong khoảng thời gian đó, phương Tây đã hà hơi tiếp sức cho các nước cộng sản, thi hành những chính sách khoan dung và hoà hoãn đối với các đảng cộng sản, mà các đảng này đã biến thái thành một kiểu tư bản đỏ. Quan hệ giữa khối dân chủ phương Tây với các chế độ độc tài châu Âu, từ đối đầu đã chuyển thành hợp tác. Các lực lượng đối lập Trung Quốc và Việt Nam ở hải ngoại bỗng trở thành những cản ngại dưới con mắt các chính khách những nước dân chủ này.

Nay, theo nhà ly khai Ngụy Kinh Sinh, tình hình đang thay đổi.

Mặc dù chính sách hòa hoãn vẫn chiếm ưu thế, các nền kinh tế phương Tây đang rơi vào suy thoái do đã truyền máu cho các nước cộng sản trong hơn một thập kỷ. Ông Ngụy Kinh Sinh cho rằng các nước phương Tây nay phải từ bỏ chính sách hoà hoãn với chế độ cộng sản, phải trở lại chính sách đối đầu và cạnh tranh, mà trước hết là từ chính sách bảo vệ thị trường.

Nhà ly khai Trung Quốc nhận định, ''sự thay đổi này là yếu tố buộc hệ thống tư bản độc quyền của đảng Cộng sản phải cải tổ hoặc sẽ sụp đổ''. Lực lượng đối lập hải ngoại phải tiếp tục sử dụng truyền thông để thúc đẩy dân chủ và tự do trong nước. Đường lối đấu tranh này, đi kèm với chính sách bảo vệ thị trường của các nước dân chủ sẽ là đối trọng với chủ nghĩa dân tộc mà chắc chắn sẽ bị đảng cộng sản khai thác.

http://www.rfi.fr/actuvi/articles/121/article_6681.asp

THÂM CUNG BÍ SỬ

*

Một Hoàng Phi Buồn
Lệ Vân


http://www.nguyenphuoctoc..info/old/trieudai/Mot_hoang_hau.jpg


L.T.S.“Một Hoàng Phi Buồn”, nội dung câu chuyện thế hệ trước 1945, trong giới quan quyền triều đình Huế, nhiều người nghe nói. Cựu học sinh Đồng Khánh Lệ Vân nay nhắc lại nhân dịp Kỷ Niệm 80 năm mái trường xưa. Không những được nghe trong gia đình kể lại, Lệ Vân còn có dịp gặp bà Hoàng Phi ở Huế và Đà Lạt. Truyện “Một Hoàng Phi Buồn”, do Lệ Vân nhắc lại nhờ đó thêm phần sống động, cảm thương.

Ngày xưa, chuyện các bà trong nội cung, cố đô Huế nhiều lắm! Nhân dịp này, T.S.H. xin được ghi thêm vài chi tiết ngoài đề, không phải để điểm xuyết câu chuyện, mà để độc giả thế hệ trẻ hiểu rõ hơn bối cảnh, nội dung bài viết. Câu chuyện bắt đầu từ ngày 15-7-1917 khi vua Khải Định chủ tọa lễ đặt viên đá đầu tiên xây cất trường Đồng Khánh. Dự lễ có đủ quan chức Pháp – Nam như toàn quyền Albert Sarraut, khâm sứ Trung Kỳ J . E . Charles; trong số các vị thượng thơ Nam Triều, có quan Thượng Thơ Bộ Học kiêm Bộ Lễ Hồ Đắc Trung. Vị đại thần này có ba người con gái, người chị đầu Hồ Thị Huyên (pháp danh Diệu Huệ), sau này thân mẫu giáo sư Bửu Hội, người em thứ Hồ Thị Chỉ (bà Hoàng Phi Buồn), người thứ ba, cô Tám Hồ Thị Hạnh, sau này sư bà Diệu Không.


http://www.artstopllc.com/Graphics/PaulATaylor/01_ConeFlowers.jpg



Thời quân chủ, vua có nhiều vợ, vì vậy có nhiều thứ bậc phân biệt, từ nhất giai phi đến bậc thứ chín, cửu giai tài nhân. Triều đình còn áp dụng quy chế Cửu Giai gồm có, trên hết hai bà phi: Nhất giai phi, thường gọi bà Ân (phi), thứ nữ đại thần Hồ Đắc Trung, Nhị giai phi, bà Huệ phi, sau này (1933) được phong Đoan Huy Hoàng Thái Hậu (Đức Từ Cung).

Tiếp đến ba bà Tân: Tam giai tân, Diệu Tân (con gái cụ Phạm Hòe, tham tá Nội Các); tứ giai tân, bà Du tân (cô Tám, con gái cụ Võ Liêm, thượng thơ bộ Công); ngũ giai tân, bà Điềm tân (cháu nội cụ Thượng Nguyễn Đình Hòe) và một bà Tiếp, lục giai Tiếp dư.

Theo “truyền thống trong nội”, chỉ những bà vợ này mới được gọi bằng “bà”; những người tiếp sau, quý nhân, mỹ nhân, tài nhân, chỉ được gọi bằng “chị” .

Liên hệ đến chuyện “Một Bà Phi Buồn” (có lẽ nhà in đã in sai chữ “Hoàng” thành ”Bà”) , tại vùng ngoại ô Huế, gần Cầu Lim, có một ngôi chùa nhỏ do vua Khải Định lập nên, ngài đặt
tên chùa Khải-Ân, nơi bà Ân (phi) thỉnh thoảng đến tâm hương Ánh Đạo Vàng . . . (Trong gia đình vì cử Tên (cụ H. Đ.K.), nên gọi chùa “Khởi” Ân thay vì Khải-Ân) .

http://www.sallyrobertson.com/images/Autumn_Light_SH.jpg
Nhân ngày lễ 80 năm Đồng Khánh, nhiều chuyện vui đã được kể, còn sót lại một câu chuyện buồn, ngày nay ít người biết tới. Năm 1917, vua Khải Định ngự giá lễ đặt viên đá đầu tiên xây trường Đồng Khánh. Hoàng thượng thấy một nữ sinh xinh đẹp, khoan thai kính cẩn dâng lên ngài một chiếc kéo mới tinh đặt trên một cái khay phủ gấm điều. Hoàng thượng nhận chiếc kéo để cắt giải lụa hồng, buộc ngang cổng trường, trước khi tiến vào sân hành lễ. Thế rồi cô thiếu nữ sau này được đưa vào nội cung làm hoàng phi và nàng bắt đầu một cuộc đời vui ít buồn nhiều.

Khi vua Khải Định tuyển chọn nàng làm hoàng phi thì cả kinh thành đều tán phục ngài khéo chọn. Vị tiểu thơ xinh đẹp nhất, Hồ Thị Chỉ, là con quan Thượng Thơ Bộ Học kiêm Bộ Lễ Hồ Đắc Trung, quan đại thần có uy thế vào bực nhất trong triều đình từ thời vua Duy Tân còn tại vị.


Trước khi vua Khải Định lên ngôi hoàng đế, vua đã có một hoàng nam chừng ba tuổi tên Vĩnh Thụy (tức vua Bảo Đại sau này). Khi vua lên ngôi thì mẹ của hoàng tử được vua phong lên chức Tam giai Huệ Tần. Theo quyển Nguyễn Phúc tộc thế phả (in năm 1995) thì bà phi Huệ Tần “kiến thức học vấn không nhiều”. Có lẽ vì vậy một phần nên năm 1917, vua Khải Định quyết định tuyển chọn thêm một hoàng phi nữa. Vua muốn tìm một người có học vấn, dòng dõi thế gia vọng tộc và xinh đẹp. Thật là một việc khó khăn vào thời đại ít người theo tân học. Tiểu sử và hình ảnh nhiều tiểu thư con các quan đại thần được dâng lên và hoàng thượng đã không do dự chọn ngay tấm hình cô nữ sinh kiều diễm ngài đã có dịp gặp trong buổi lễ xây trường Đồng Khánh. Hồ tiểu thơ rất thông minh, học giỏi, đàn hay, thông thạo cả tiếng Pháp lẫn Hán Văn và Việt Ngữ. Nàng mới 15 tuổi mà đã đúng là một giai nhân quốc sắc thiên hương, xứng đáng được tuyển chọn làm hoàng phi của hoàng đế nước Đại Nam.



http://www.geitgey.com/blog/wp-content/uploads/mag3-logocrsmall.jpg



Việc vua chọn nàng có lẽ còn có thêm một nguyên do nữa là hoàng thượng đang muốn thu phục nhân tâm, nhất là đối với quan Thượng Thơ Hồ Đắc Trung. Vị đại thần này trước đó đã là cận thần của vua Duy Tân, nay vua Khải Định cũng muốn tỏ ra quý trọng tín nhiệm ông, “thêm người thân tín và bớt kẻ hiềm thù”. Lúc bấy giờ vua Khải Định mới lên ngôi chưa đầy một năm. Vẻ người mảnh khảnh, vua mới hơn 30 tuổi mà trông người đã suy nhược, ngài thường hay bị đau yếu.. Nhưng vua là người hiền lành, tính tình lại hoà nhã, hiếu thuận, ngài luôn muốn chiều lòng các hoàng thân quốc thích và tất cả các đại thần trong triều đình. Vua Khải Định lại rất ưa huộng mỹ thuật, yêu thích đủ vẻ đẹp trên đời. Ngài chọn vị tiểu thơ con quan thượng thơ bộ Học và bộ Lễ là một việc rất được hai bà Thánh cung và Tiên cung, là bà mẹ đích và mẹ sanh, vui mừng khen ngợi.

Nhưng than ôi “đứa con vô Nội” là những tiếng đứt lòng mẹ cha . Quan thượng thơ cam lòng vâng theo thánh ý, rồi được vinh thăng lên đến tước Quận Công uy nghi làm quốc trượng và thanh thế tăng lên đến tột bực trong triều đình . Nhưng lòng người cha vẫn buồn rầu vì biết con gái mình sẽ rất đau khổ . Nàng không ham muốn danh vị, nàng chỉ mong được gần gũi một ý trung nhân tâm đầu ý hợp mà thôi
.


http://www.orientaloutpost.com/usa/n9506.jpg



Ý chí của vua chân thành, nhưng đáng thương cho Hồ tiểu thơ chỉ vì chính trị của triều đình bắt buộc và nhất là vì chữ hiếu từ nay nàng phải vào chốn thâm cung nghiêm khắc cô đơn .
Mới 15 tuổi như Thúy Kiều của Nguyễn Du nhưng Hồ tiểu thơ được đón rước về hoàng cung, được tôn lên làm một vị hoàng phi thì sao đến nỗi buồn khổ, thảm thương như vậy ? Lý do chính là vì Hồ tiểu thơ đang tôn thờ một vi vua khác, nàng đang thần tượngvua Duy Tân .
Vua mới 17 tuổi, thế mà đã bị Pháp mang đi đày ra tận đảo Réunion, nghìn trùng xa cách kinh thành Huế và cả một nước Đại Nam đang đặt nhiều kỳ vọng nơi ngài .

Hình bóng vị quân vương anh hùng ái quốc đã khắc sâu trong tâm khảm nàng từ thuở mới 12 tuổi . Nguyên ngày ấy phụ thân nàng được giao phó trọng trách trông nom chăm sóc vị thiếu đế từ khi ngài lên ngôi lúc mới 8 tuổi . Năm 1914, vào mùa hè nóng nực, vua Duy Tân, vừa 14 tuổi, ra chơi cửa Tùng ở Quảng Trị . Các con trai, con gái của quan Thượng cũng được cho ra đấy để vua có thêm bạn trẻ cùng vui chơi . Lúc ấy Hồ tiểu thơ tuy mới 12 tuổi mà đã có nhiều nét xuân thì, vừa xinh xắn yểu điệu vừa hay thẹn thùng e lệ trông rất dễ thương, dễ mến . Ngay từ phút đầu, nàng đã cảm phục vị vua chỉ bằng lứa tuổi mấy anh nàng mà xem ra hơn hẳn, vì ngài oai nghiêm chững chạc lại rất thông thái, tuy mấy ông anh nàng cũng đã nức tiếng thông minh, học giỏi vào bậc nhất đế đô . Nàng càng giữ lễ, càng thẹn thùng e lệ lại càng làm cảm động vị vua trẻ . Đến khi hết hè, lúc phải chia tay thì những giọt lệ của nàng thánh thót rơi xuống làm cho vua thấy rõ tấm lòng chân thành tha thiết của nàng .




Kỳ hè năm sau, vua Duy Tân tưởng sẽ được gặp lại nàng . Nhưng cho rằng nàng đã lớn, mẫu thân nàng không cho phép nàng được cùng các anh ra chơi Cửa Tùng nữa . Nàng thương nhớ vua nên cứ giọt ngắn giọt dài, vậy mà vẫn không lay chuyển được quyết định của mẫu thân nàng . Vua Duy Tân có lẽ cũng rất buồn nhớ, luyến tiếc hè năm ngoái, nay không còn có dịp ngắm bóng dáng ngây thơ xinh đẹp của cô con gái mới lớn ấy . Một mối tình chớm nở đẹp như hoa và tuyệt vời cao thượng . Lòng nàng kính yêu vua Duy Tân, nồng nhiệt nguyện một đời sống chết vì vua . Vị hoàng đế chỉ hơn nàng có vài tuổi mà đã tỏ ra phi thường trong lối suy nghĩ thông minh và cách ăn nói chín chắn, oai nghiêm . Ngài lại thương nước, lo cho dân thật tận tình ... Lòng yêu nước của ngài nàng đã được nghe, được thấy tận mắt rõ ràng, nên hết lòng thần phục ngài .

Vừa hết hè 1915 thì tư dinh quan thượng thơ bỗng trở nên nhộn nhịp khác thường . Vua Duy Tân đã được hai bà Hoàng Thái Hậu cho phép nạp phi và ngài đã chọn Hồ tiểu thơ . Kiệu hoa mang thánh chỉ đến tư dinh, song thân nàng áo mũ chỉnh tề ra lạy tạ và nhận đồ vật sính lễ, tuy giản dị một đôi bông tai cánh phượng và đôi vòng vàng chạm trổ rồng phượng, nhưng vinh hạnh phước lộc cho gia đình nàng biết bao nhiêu . Còn nàng thì tâm hồn rạng rỡ như nắng sớm mùa xuân . Nàng cũng được gọi ra lạy tạ ân vua hạ cố và được mẫu thân cho mang các nữ trang ấy về phòng riêng để tha hồ ngắm nghía cho thỏa tình mong nhớ .



http://www.walterlynnmosley.com/ebay/auction_material/images/big/bonsai_orange_cup.jpg



Thế rồi cuộc hôn nhân đã định, lễ nạp phi sắp cử hành trong vài tháng tới thì bỗng nhiên xảy ra việc vua Duy Tân ra lệnh từ hôn . Vua tỏ ra rất xót thương nàng nên trong thánh chỉ, ngài dặn dò với song thân nàng: “Phải an ủi nàng và gả nàng cho người khác, đừng để nàng buồn tội nghiệp” . Vua giải thích với cha nàng: “Thầy nên hiểu, tôi thương gia đình thầy nên mới phải từ hôn với người mà tôi yêu mến từ hai năm nay .”

Vua sắp khởi nghĩa đánh Pháp, nhưng không phải vì sợ bận tâm đèo bồng vợ con mà ngài ra lệnh từ hôn . Ngài chỉ sợ gia đình nàng rất đông con đang ăn học, nếu liên can đến ngài, cả gia đình sẽ bị liên luỵ, nguy hại luôn đến chức tước, địa vị của thân sinh nàng mà cũng không bổ ích gì cho công cuộc chống Pháp của ngài . Riêng nàng thì vua tin rằng nàng có thể hăng say sống chết vì vua, nhưng vì vậy vua lại càng ái ngại không muốn nàng phải gian khổ vì mình . Theo thánh ý, gia đình nàng xếp đặt để gả nàng cho một bác sĩ tây học rất xứng đáng, nhưng kết quả
lại khác với dự định ấy . . .




http://www.brushpaintingcircle...com/shared/dbgallery.php?thumb=/galleries/Amy_Floral_Fauna/JustTwoofUs-2small.jpg



Phải chăng vì muốn che dấu công cuộc khởi nghĩa đang ở trong thời kỳ bí mật, nên sau khi từ hôn với người ngài thương mến, vua làm lễ nạp phi ngay với một tiểu thơ khác, con quan phụ đạo Mai Khắc Đôn . Thế là người Pháp nghĩ rằng vua đang bận ham mê bà hoàng phi, tất nhiên không còn bụng dạ nào để lo việc chống Pháp, trong lúc nước Pháp đang lâm vào cảnh bại trận . Bà hoàng phi Mai Thị Vàng được cưới hỏi vội vàng, nhưng cũng được vua rất yêu chiều . Lâu lâu bà được cùng vua đi chơi, dạo quanh thành nội, bà thường thấy có vài người nghèo, đội nón lụp xụp ngồi câu ở Hậu Hồ sau điện Kiến Trung . Bà không ngờ họ chính là mấy nhà cách mạng Thái Phiên và Trần Cao Vân . Bà cũng không thể tưởng tượng nổi họ chính là những người làm sụp đổ ngai vàng của vua Duy Tân sau đó ít tháng . (1)

Ngày 30 tháng 1 năm 1916, vua làm lễ nạp phi thì ngày 14 tháng 5 năm 1916 vua khởi nghĩa . Cùng với các nhà cách mạng, vua toan tính có thể dựa vào những lính khố xanh, khố đỏ ở các tỉnh, và đồn Mang Cá gần kinh thành, mấy ngàn lính Việt vừa được tuyển mộ để đưa qua Pháp . Ông Trần Cao Vân đã thuyết phục được họ theo vua Duy Tân đánh Pháp nhưng công việc bị bại lộ ngay từ đầu . Những người lính Việt bị tước hết cả súng ống và bị dồn giữ trong đồn trại, nên mọi liên lạc với những người chỉ huy công cuộc chống Pháp đều bị cắt đứt .



http://www.leesburgcenter4arts.com/images/2009ArtFest/Godwin_Kou.jpg




Cuộc khởi nghĩa thất bại, gia đình quan Thượng Thư Bộ Học mới thấy rõ tấm lòng tốt của vua Duy Tân, khi vua dứt khoát từ hôn với vị tiểu thơ mà vua đã yêu mến từ lâu . Thế mà cụ Hồ Đắc Trung vẫn bị Pháp bắt giam . May sao vua Duy Tân quả quyết rằng gia đình cụ không hay biết gì đến vụ khởi nghĩa cả . Hồ Tiểu Thơ chưa khô nước mắt vì vua từ hôn, thì lại được tin vua bị đày qua tận đảo Réunion . Nàng là người sẵn sàng sống chết với vua mà nay hoàn toàn bất lực, chỉ còn biết trăn trở khóc than trong tuyệt vọng . Trong lúc ấy thì các triều thần cũng ở trong tình trạng lo lắng hoang mang, rồi đây ai còn giữ được địa vị cũ, ai sẽ mất chức hay có thể bị bay đầu vì bị tình nghi theo vua Duy Tân .

Quan Thượng Thư Bộ Học đang ở trong tình thế khó khăn như thế, thì việc vua mới là Khải Định chọn Hồ Tiểu Thơ làm hoàng phi là một liều thuốc cứu nguy tài tình và hữu hiệu . Thế rồi cụ Thượng còn được vinh thăng lên tước quận công, địa vị cao tột đỉnh triều đình . Sau này sư bà Diệu Không, con gái út của cụ Thượng, kể lại trong tập hồi ký:

”Tuy được gả cho vua mới mà tình người con gái vẫn còn quyến luyến vua cũ không nguôi,
còn thầy tôi làm quốc trượng . . . mà lòng vẫn buồn nên thường lui tới chùa Trúc Lâm để tâm
sự với hòa thượng Giác Tiêu cho vơi bớt nỗi sầu thế sự”
.








Bà hoàng phi họ Hồ chỉ vì gia đình mà cúi đầu nhận ân vua Khải Định .... Ngày lễ vu qui bà được các bà mệnh phụ long trọng xúm quanh trang sức cho bà thật lộng lẫy . Họ đỡ bà lên bái lạy bàn thờ tổ tiên cùng song thân, rồi rước bà lên kiệu tứ mã về hoàng cung . Trong bộ
y phục đỏ tía, khăn áo và giày đều thêu long phượng chầu nguyệt lóng lánh, tai đeo đôi hưỡn có 9 con phượng, đôi vòng tay cũng chạm trổ đúng 9 con phượng, mặt hoa đau thương của bà hoàng phi che dấu sau chiếc quạt gấm điều, bà khóc mãi không nguôi . . .

Ngày lễ nạp phi, được rước vào Đại Nội, bà hoàng phi của vua Khải Định mới 15 tuổi xuân thì, đã phải chịu cảnh lạnh lẽo, nghiêm khắc trong thâm cung . Thỉnh thoảng bà được vào chầu hai bà Thánh cung và Tiên cung và được hai đức bà hỏi han an ủi phần nào . Vốn người suy yếu, hoàng thượng không lo được đường tử túc thêm nữa . Hiền lành, lại lịch sự, thỉnh thoảng ngài mời các bà phi cùng dạo chơi vườn ngự uyển hay ra hồ câu cá ! Bà Huệ Phi dắt hoàng tử nhỏ cùng đi vui vẻ . Duy có bà hoàng phi họ Hồ đi đứng ngượng ngùng, bà luôn cảm thấy lạc lõng, bẽ bàng . Tuy vậy bà vẫn phải nghiêm túc tuân theo đúng phép tắt trong cung đình và được trong ngoài đều kính nể .



http://lh6.ggpht.com/aprily/SP7Os81AmgI/AAAAAAAAHWQ/3PECWz6NIiA/s400/IMG_1310.JPG



Lúc bà mới hơn hai mươi tuổi thì vua băng hà, địa vị của bà kém hẳn đi . Bà Huệ Phi là mẹ vua mới (tức vua Bảo Đại, lên ngôi năm 1925, lúc đó chưa được 12 tuổi) được tôn phong Đoan Huy Hoàng Thái Hậu . Tuy không được học hành nhiều lúc nhỏ, bà hoàng thái hậu, giữ được đúng tư cách bà từ mẫu mẹ vua, nên thường được gọi là Đức Từ Cung . Riêng bà hoàng phi họ Hồ không con, lẻ loi chiếc bóng, dần dần càng thấy rõ dạng người thất chí thất tình, buồn bã cô đơn trong chốn thâm cung .

Khi song thân bà qua đời, các anh em đã có địa vị cao sang trong xã hội, riêng bà càng cảm thấy mình sống thừa, cô đơn, không mục đích, không lý tưởng .. Bà bắt đầu bỏ ăn bỏ ngủ, sống như chết . Đêm khuya hiu hắt bà một mình với chiếc đàn dương cầm, tiếng đàn ai oán thổn thức, chia không gian vắng vẻ với ve sầu mùa hạ, với ếch nhái trời đông, mưa dầm sùi sụt, chốn cung vì buồn đến đứt ruột. Ngày lại ngày nối tiếp nhau, cho đến khi bà lên cơn loạn trí . Áo quần xô lệch, mặc hàng tơ lụa đủ màu sắc, đỏ xanh sặc sỡ tua te, bà cười cười nói nói một mình, phấn son lòe loẹt trên khuôn mặt mỗi năm một già thêm . Nhiều khi bà có vẻ vô tư, nhiều khi lại khóc than rấm rức . Khổ tâm nhứt là sau này gần 50 tuổi, một đôi khi bà còn giữ cái vẻ bẻn lẻn của cô gái mới lớn, thẹn thùng mặt đỏ gay . Bà thầm thì những gì giữa không gian ? Phải chăng là những lời xưa kia bà chưa từng có dịp thỏ thẻ cùng vua Duy Tân ? Nay thừa dịp loạn trí, được tự do cởi mở, bà tha hồ tâu lên vua những lời mơ ước ? Vua Duy Tân cũng đã qua đời lúc bà hơn 40 tuổi . Nếu còn trên trần thế, chắc vua cũng đang lo việc sơn hà xã tắc, còn đâu phút rảnh rang để nghĩ đến mối tình riêng trong quá khứ xa xôi !



Nếu ngày xưa bà hoàng phi được sống với vị bác sĩ tây học, như gia đình bà đã vội vàng khôn ngoan lo xếp đặt, rồi có con cái, bao nhiêu tâm sức dồn cả cho gia đình, chắc bà chẳng có thì giờ nghĩ đến thân thế mình, đến nỗi loạn trí . Bà nhìn người này ra kẻ khác, tỉ tê những lời
không tưởng nổi . Một nghiệp chướng phải trả trong kiếp luân hồi khổ lụy !

Bóng dáng nữ sinh Đồng Khánh ngày xưa thảng thốt in lại trong ngày lễ kỷ niệm trường !
Một chiếc bóng mờ phai trong tâm trí nhiều người . ... .

Trong cõi có có không không, Huế có những điệu buồn miên man chảy trôi theo dòng sông Hương, nhưng cũng có những nét kiêu sa, duyên dáng, những tiếng cười của tuổi hồn nhiên
. Nhờ có những ngôi trường như trường Khải Định, trường Đồng Khánh . . . mà những mầm non được nẩy nở, vươn tràn trong chốn kinh kỳ và tản mát khắp năm châu bốn bể .

Chuyện vui nhất là chuyện các nữ sinh Đồng Khánh thường được khen làm con thảo, vợ hiền, mẹ giỏi .. Trong cơn tao loạn lại càng nổi bật vai trò của những phụ nữ có học vấn, đủ ý chí và óc sáng tạo để đương đầu với thế cuộc, mà vẫn bảo tồn được những phong cách, những lề lối, phép tắc cổ truyền .. Một số các cô, các bà còn chăm lo đắc lực cả các công việc xã hội từ thiện . Một số ít sống nhàn hạ, phần lớn là những người tuy gọi là nội tướng nhưng vẫn phải xông pha ra ngoài đời, lo no ấm cho gia đình . Không mấy ai dư thì giờ ngồi lạnh lẽo một mình, hay bị đặt vào một cuộc đời quá đắng cay, bị hoàn cảnh đẩy đưa vào thế kẹt cùng đến nỗi tự vò xé tâm can, rồi nhìn đời bằng cặp mắt vô vọng như bà hoàng phi thuở nọ
.


http://farm3.static.flickr.com/2372/1757131563_923bf07b88.jpg?v=0


*

Saturday, January 30, 2010

TƯ TƯỞNG CỔ NHÂN

*
GIẢI ĐÁP THẮC MẮC

Bà Phượng Ngô trong bài "Nhân Vô Thập Toàn”, có viết một câu như sau:

Những gì ngươi không muốn người khác làm cho ngươi, thì ngươi cũng đừng làm điều đó cho người khác"

Ông Tuấn Phan (Phan Anh Tuấn) đã tham-chiếu câu trên của Bà Phượng Ngô mà đặt câu hỏi như sau:

Câu nói của ai: Chúa Giêsu, Khổng Tử hay của nữ linh mục Phượng Ngô?”


*

Vì Ông Tuấn Phan “xin ý-kiến của quý vị làng Lưới” nên tôi đã dò một số tài-liệu, trong đó có cuốn “Familiar Quotations” (Những Lời Trích Dẫn Quen Thuộc) của John Bartlett, do Little, Brown and Company xuất-bản năm 1992, thì thấy:


1/ Lời của Khổng-Tử, giáo-chủ Khổng-Giáo (551 ‒ 479 BCE): “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (“What you do not want done to yourself, do not do to others”: “Những gì mình không muốn


2/ Lời của Aristolte, triết-gia Hy-Lạp (384 ‒ 322 BCE): “We should behave to our friends as we would wish our friends to behave to us.” (Chúng ta nên đối-xử với bạn-bè của chúng ta theo cách mà chúng ta mong họ đối-xử với chúng ta.) (Trang 77)


3/ Lời của Hillel, trưởng lão Do-Thái-Giáo (60 BCE ‒ 10 CE): “What is hateful to you do not do to your neighbor. That is the whole Torah. The rest is commentary.” hoặc “That which is hateful to you, do not do to your fellow. That is the whole Torah; the rest is the explanation.” (Điều gì mà mình ghét thì mình đừng làm cho người khác. Đó là tổng-thể của Kinh Torah. Phần còn lại lời bình-giảng.) (Trang 102) 4/ Lời của Jesus, giáo-chủ Cơ-Đốc-Giáo (4 BCE ‒ 30 CE): “All things, therefore, that you want men to do to you, you also must likewise do to them; this, in fact, is what the Law and the Prophets mean.” hoặc “Therefore all things whatsoever ye would that men should to to you, do ye even so to them: for this is the law and the prophets.” (Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì luật Mô-sẻ và lời các ngôn sứ là thế đó.”

*

Như thế thì lời bình của Ông Tuấn Phan là đúng sự thật: “Khổng Tử sinh ra trước Chúa Giêsu hàng mấy trăm năm, từng viết: Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Ý của câu nói dẫn trên đã được Đức Khổng Phu Tử viết ra gần năm trăm năm trước Đức Jesus. *


*



Bà Phượng Ngô cũng đã viết như sau: “Hình ảnh Chúa Giêsu được tiên tri Isaia mô tả trong chương 53 đã làm cho chúng ta cảm phục thái độ hiền lành nhịn nhục của Chúa Giêsu, đặc biệt trong cuộc khổ nạn của Ngài. Có lẽ Lão Tử đã áp dụng đúng giáo lý của Chúa Giêsu khi ông nói: Thắng nhân giả, hữu lực, tự thắng giả cường Nhu thắng cang, nhược thắng cường (Thắng người là có sức, thắng mình là mạnh nhu nhược thắng cương cường)...”

Ý-Kiến:
Đức Lão Tử, giáo-chủ Lão-Giáo, sinh trước Đức Jesus đến 600 năm, mà Bà Phượng Ngô bảo rằng Lão Tử đã áp dụng đúng giáo lý của Chúa Giêsu !

LÊ XUÂN NHUẬN


*

Friday, January 29, 2010

PHẬT GIÁO & CỘNG SẢN

*

CỘNG SẢN VÀ GHPGVNTN
những vấn nạn cần được giải bày



Châu Hùng Sơn, Thailand 2008-03-01 (phần1)


Hơn 30 năm (1975-2008) Biến cố pháp nạn XHCNVN đã đưa đến những hệ quả tang thương với dân tộc và tôn giáo, với Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất (GHPGVNTN), chung quanh những biến có nầy, có những vấn nạn cần được giải bày.



PHẦN I. GHPGVNTN không là cộng sản,
[Sự thật đã bị một vài cá nhân xuyên tạc, vấn nạn nầy cần được giải bày]


Lịch sử Việt nam cận đại, nền Đệ nhất Cộng hòa (1954-1963) đã sang trang, biến cố nầy không do từ một cá nhân, một tổ chức, một sắc tộc vùng miền hay một tôn giáo nào gây nên; nó cũng không thể qui trách nhiệm cho riêng ai mà là hệ quả đau thương chung của dân tộc Việt nam - một dân tộc “đang hồi sinh” sau gần cả 100 năm Pháp thuộc - phải gánh chịu trước trước chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ. Thế nhưng qua đó, một vài cá nhân do hằn sâu tâm chưa phai về thức biến cố 01-11-1963 đã cường điệu tư kiến chủ quan mình mà gán cho GHPGVNTN là chủ mưu gây nên. Mặt khác lại đánh đồng GHPGVNTN với cộng sản để đỗ trút những thù hiềm rồi ra sức đánh phá Phật giáo các tổ chức Phật giáo mà không chừa một nhóm nào cả.


Đây là nhận định lệch lạc, là vấn nạn phân hóa dân tộc, chia rẽ tôn giáo, là sự thật đã bị một vài cá nhân xuyên tạc, pháp nạn nầy cần được giải bày để qua đó khơi thông dòng chảy Đạo pháp trong lòng dân tộc để đi đến giải trừ quốc nạn với pháp nạn XHCN ngày nay. Điều dể hiểu là không thể đơn thuần do từ hiện tượng một vài cá nhân thành viên GHPGVNTN như Thích Trí Quang với hội chứng “bàn Phật xuống đường” (1966); như Thích Minh Châu với hội chứng “rước cộng sản vào thành” (30-04-1975; như Thích Mãn Giác với hội chứng huy động hằng trăm Tăng ni “mừng chiến thắng” ngày 15 tháng 05-1975 hay với hội chứng huy động hằng ngàn Tăng ni “mừng sinh nhật Hồ Chí Minh” ngày 19 tháng 05-1975; Hay như hội chứng Hoà thượng Thích Đôn Hậu 8 năm (1968-1975) bị áp chế phải sống trong lòng Hà Nội v.v… để đi đến phán quyết rằng GHPGVNTN là cộng sản.
Bởi lẽ, Giáo hội nầy cũng là nạn nhân cộng sản, đã bị đánh phá suốt hơn 30 năm qua.


I.1. GHPGVNTN với bối cảnh chính trị thời thế.

Học lịch sử để làm nên lịch sử; những gì góp phần làm sáng tỏ lịch sử dân tộc – đạo pháp cũng cần phải nói cho tuổi trẻ ngày nay. Sự thành hình GHPGVNTN, một Giáo hội truyền thống Dân lập là sự kế thừa dòng chảy 2000 năm Phật giáo Việt nam, là sự kết tinh liên luỹ một quá trình dài trải qua: 981 Nhà Đinh (Giáo hội Khuông Việt), đến Nhà Lê - Lý (Giáo hội Vạn Hạnh) đến Nhà Trần (Giáo hội Trúc Lâm) cho đến 1951(Tổng Hội Phật giáo Việt nam), đến 1964 (GHPGVNTN) là cả một dòng chảy xuyên suốt được tổ đạo tiếp nối truyền thừa; thế nhưng sự thật lịch sử nầy gần như xa lạ với tuổi trẻ hôm nay.

Qua bao biến cố lịch sử Việt nam và lịch sử Phật giáo Việt nam như Đạo dụ số 10 năm 1950 do Quốc trưởng Bảo Đại ký; Như Tổng hội Phật giáo Việt nam 1951; Như cuộc chiêm ngưỡng rước xá lợi Phật tại Sài Gòn 1952 của Tổng hội PGVN; Như sự ra đời của Mặt trận giải phóng miền Nam 1960; Như kế hoạch nước lũ của Nhu – Diệm tấn công chùa chiền toàn quốc 20-08-63; Như thành lập Uỷ ban liên phái Phật Giáo của Tổng hội Phật Giáo Việt Nam 1963, Như sự thành lập Uỷ ban liên bộ của chính phủ Diện 1963;

Như thành lập Giáo Hội Phật giáo Việt nam Thống nhất 1964; Như Hiến chương Vũng Tàu 1964 của Quốc trưởng Nguyễn Khánh; Như Hội chứng “bàn Phật xuống đường” chống chính phủ Thiệu-Kỳ của Thích Trí Quang 1966; Như hiện tượng tách dòng chãy GHPGVNTN với Việt Nam Quốc Tự của Thầy Thích Tâm Châu 1967; Như hiện tượng GHPGVNTN bỏ ngõ chính trị sau 1964; Như vấn nạn “một tổ chức trong một tổ chức” qua “lỗ đen” pháp lý cơ chế Gia đình Phật tử Việt nam 1964 do Thích Minh Châu thông qua Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm (Tống Anh Nghị) gây nên đã đặt sinh hoạt Gia đình Phật tử Việt nam vượt ngoài tầm kiểm soát của GHPGVNTN, cũng như những biến cố lịch sử có cùng thông số như thế, tất cả đã đưa đến hệ quả là GHPGVNTN đã bị các thế lực chính trị phe nhóm lợi dụng và khuynh đảo. Sự kiện Mặt trận giải phóng miền Nam nằm vùng trong Viện Hóa Đạo (VHĐ), giựt dây, khuynh đảo “Phật giáo Ấn Quang” suốt 10 năm (1964-75) là một trong những điển hình.


Những hệ quả chính trị như thế chẳng những tác hại lớn lao cho chính GHPGVNTN mà còn cho cả sự sống còn của nền chính trị miền Nam Việt nam nữa. Cơn lốc chính trị Nam Việt nam 64-75 đã cuốn hút nhiều thành viên GHPGVNTN dính dự vào chính trị, thực tế nầy khiến Viện Hoá Đạo nhiều lần lên tiếng can ngăn. Điển hình là Thông tư số 150 VHĐ/TT/VT, ngày 22-01-1975 yêu cầu các thành viên của GH không nên tham gia bất cứ tổ chức chính trị nào. Thông tư có đoạn: "Để tránh mọi ngộ nhận có thể có đối với lập trường và đường hướng cố hữu của GH, VHĐ kính yêu cầu quý vị hãy thận trọng, không nên tham gia bất cứ tổ chức nào ngoài tổ chức của GH, nhất là những tổ chức có tính cách chính trị.


Trong trường hợp vị nào đã tham gia những tổ chức như thế thì hãy tự nguyện chấp trì nghiêm chỉnh tinh thần Thông tư này”. Trong khi đó, đời sống xã hội Nam Việt Nam qua 2 thời kỳ: Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa, chiến tranh triền miên xãy ra khắp vùng nông thôn. Ở thành thị thì chính trị luôn bị chao đảo, việc “thay ngôi, đổi chủ” vào giai đoạn 64-66 diễn ra đến chóng mặt. Người dân nông thôn thì cần được sự bảo vệ của chính quyền Ông Diệm – Ông Thiệu để được “an cư lạc nghiệp” ra ngoài sự kiềm kẹp, dụ dỗ, mua chuộc, đe dọa của bọn cộng sản “nằm vùng” hoạt động ngày càn lan nhanh và lớn mạnh. Thế nhưng thật thảm hại thay! “lá chắn” bảo vệ người dân nông thôn đã bị rách nát, te tua, loang lỗ, việc bảo vệ dân an ổn bên ngoài lan ranh Quốc gia – Cộng sản, chính quyền Cộng hòa gần như “bỏ ngõ vùng nông thôn để mặt cho Việt cộng hoành hành.


Và thực tế là nơi vùng “xôi đậu” thì ban đêm là Việt cộng làm chủ hoàn toàn. Mười người chứa có lấy được 2 là “vui vẻ” đi theo Việt cộng, họ chỉ bị rơi vào thế phải đi theo mà thôi. Cái cảnh cứ hể ban đêm là Việt cộng ghé nhà nào giả vờ “xin nước uống, cơm ăn” mà năm ba lần như thế thì sáng ra, nhà đó đã khóm ấp nghi kỵ rồi. Không những tụi Việt cộng chỉ ghé nhà xin cơm nước mà nó còn cố tâm để lại vài trái lựu đạn, cây súng cũ rỉ sét vì … bị quốc gia hành quân ruồng bố không kịp mang theo.


Người dân sống trong cái cảnh như thế mà khi quốc gia bố ráp tràn đến thì chết mẹ cái thằng nông dân “lì lợm ngoan cố” không chịu theo cộng sản kia rồi. Cho nên khi việc cộng sản vu vạ xãy ra như thế thì nếu muốn sống trước mắt là phải ôm ba cái “đồ quốc cấm: súng lục, lựu đạn” kia mà … chạy theo Việt cộng để … lạy mấy ông, vang xin mấy đảng mà trả lại. Cái cảnh như thế cứ diễn ra, trong khi đó thì chính quyền quốc gia bất lực trong việc bảo vệ dân. Cho nên Việt cộng mọc lên như nấm sau cơn mưa; Đó cũng chính là nguyên nhân chủ yếu làm cộng sản phát triển nhanh chóng tại miền Nam Việt Nam. Trong khi đó vùng thành thị thì Việt cộng tràn ngập trong nhiều cơ sở tôn giáo (kể cả với Ki Tô giáo) mà không riêng gì Phật giáo Ấn Quang. Chính quyền Cộng hòa bất lực bảo vệ người dân trước làn sóng xâm nhập của cộng sản. Bên cạnh đó, Chính sách phiệt đạo Kitô giáo Việt Nam đã là nguyên nhân làm Việt cộng tăng trưởng nhanh chóng tại miền Nam Việt Nam.


Sự vụn về trong chính sách Tôn giáo của chính quyền Diệm-Thiệu qua chiến dịch “cải đạo” đã đưa đến hệ quả là người dân chỉ có hai con đường là ra bưng, vào chiến khu, hoặc là “nằm vùng” trong Phật giáo để được yên thân. Thứ nữa là cơ chế Hiến chương GHPGVNTN có điều còn lõng lẽo, nhất là điều khoảng “Trưởng Ban hướng dẫn TW Gia đình Phật tử đương nhiên là Vụ Trưởng”, một ngoại lệ “xé rào” mà các Tổng vụ khác không có; một khâu nhân sự Gia đình Phật tử đã bị “chọc thủn lổ đen” mà người cố tâm tạo ra sự và vun dưỡng “cơ chế tai họa” nầy tồn tại qua cả chục năm (1964-1975) đó là những tên tội đồ giáo gian Minh Châu với đặc tình cộng sản Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm mà di họa của nó còn truyền xuống đến Nguyên Tín – Nguyễn Châu, Bạch Hoa Mai (phải gọi cái tên nầy là Xích Hoa Mai thì đúng hơn)1.


Đó chính là “vùng đất tốt” cho Việt cộng nằm vùng trong Viện hóa đạo. Bên cạnh đó, sự “bỏ ngỏ” tán trợ chính trị của GHPGVNTN qua sinh hoạt chính trị của tín đồ Phật tử đã tạo nên “đất trống cỏ mọc thành hoang” và đưa đến vấn nạn chính “loài cỏ hoang” kia đã tạo nên vấn nạn “Phật giáo Ấn Quang” thân cộng. Trong bối cảnh dòng thát chính trị như thế, vấn đề đặt ra là Phật giáo quan niệm chính trị là như thế nào? và GHPGVNTN có làm chính trị hay không?


I. 2. Quan niệm chính trị theo pháp luật XHCNVN. “

Mỗi công dân đều có quyền bầu cử (bày tỏ thái độ chính trị, chọn người tốt, không chọn người xấu…) và ứng cử (tham dự chính quyền)” “Mỗi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, nghiêm cấm mọi hình thức phân biệt đối xử …” Như vậy theo pháp luật XHCNVN chính trị là quyền của mỗi công dân, quyền nầy được luật pháp công nhận và bảo hộ. Và về mặt từ ngữ, việc biểu hiện chính trị có 2 cách: Một là tham dự chính quyền và Hai là bày tỏ thái độ chính trị.

Quan niệm chính trị theo góc độ Phật giáo. Luật nhà Phật (luật tỳ kheo) chỉ ngăn cấm Tăng sĩ Phật giáo không được làm chính trị; còn với người Phật tử thì không bị ràng buộc bởi luật nầy. Như vậy, từ góc độ luật pháp với luật nhà Phật trong cách nhìn tham chiếu thì một Tăng sĩ Phật giáo chỉ được quyền bày tỏ thái độ chính trị (bao gồm quyền bầu cử v.v…) mà không được tham dự chính quyền (như ứng cử đại biểu chính phủ các cấp). Trong khi đó người Phật tử có quyền tham gia chính trị như mọi công dân khác.

I.3.. Quyền bày tỏ thái độ chính trị của công dân.

GHPGVNTN không ủng hộ riêng một đảng phái, cá nhân nào nhưng Giáo hội có quyền ca ngợi về một đường lối chính trị nhân bản, có quyền lên án về một đường lối chính trị phi nhân, hại nước, bán nước. Giáo hội không làm chính trị nhưng Giáo hội có quyền đề vạch, bảo hộ, tán trợ đường hướng chính trị dân chủ, nhân bản cho tín đồ, cho quần chúng. (Còn tiếp: phần 2



***

PHẦN II.

Thực trạng Phật giáo Ấn Quang trước “cơn lốc” chính biến thời thế Nhà nước với GHPGVNTN những vấn nạn cần được giải bày

Châu Hùng Sơn, Thailand 2008-03-01 (phần 2)


Thực trạng Phật giáo Ấn Quang trước “cơn lốc” chính biến thời thế

Là tổ chức quần chúng rộng lớn có truyền thống lâu đời, GHPGVNTN mặc nhiên đã là một thực lực quần chúng lớn mạnh có ảnh hưởng nhất định đến đường hướng chính trị trong xã hội đương thời. Mặt khác, GHPGVNTN hình thành vào năm 1964 trong bối cảnh giao lưu chính trị giữa các thế lực Quốc tế như: Hoa Kỳ, Liên xô, Trung cộng, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Việt nam Cộng hoà, Cộng sản Việt nam, Mặt trận giải phóng miền Nam Việt nam. Chính vì đứng trước “ngã bảy” giao lưu chính trị như thế, cho nên về một mặt nào đó, Viện hóa đạo đã trở nên “điểm hẹn” bởi “những nhà kinh doanh chính trị” và vì thế, họ luôn đặt “Phật Giáo Ấn Quang” lên “bàn cân” chính trường quốc tế để ngã giá.

Bên cạnh đó bằng nhiều cách, họ lôi kéo thành viên Viện Hoá Đạo cộng tác chính trị theo hướng có lợi cho tổ chức họ. Chính vì thế, có không ít thành viên Giáo hội đã nhập nhằng vai trò cá nhân với tổ chức trong quan hệ chính trị, một vài thành viên Giáo hội đã đơn phương dính dự các tổ chức chính trị mà hơn thế nữa họ đã “đi hàng hai” giữa thành viên Giáo hội với phe nhóm chính trị thời thế.

Trong số nầy không loại trừ nhóm cộng sản nằm vùng trong Viện Hoá Đạo, họ được “choàng lên” chiếc áo thành viên GHPGVNTN nhưng lại theo đuổi mục đích chính trị cho tổ chức họ. Từ đó tạo nên vấn nạn “Phật Giáo Ấn Quang thân Mỹ”; “Phật Giáo Ấn Quang thân cộng”; “Phật Giáo Ấn Quang rước cộng sản vào thành”. Với lập trường đạo pháp trong lòng dân tộc, GHPGVNTN đã vượt qua cơn lốc thời thế chính trị cuồng nộ và thực tế nầy đã đặt hàng lãnh đạo GHPGVNTN trước nhiều thử thách gian nan. Điều nầy càn rõ nét hơn qua lời Cố Hòa thượng Thích Huyền Quang, Phó Viện Hóa Đạo truy tán cố Hoà thượng Thích Thiện Minh, Cố vấn Viện Hoá Đạo, nhân dịp lễ kỷ niệm cúng tuần 100 ngày: tiểu tường (1989) của Ngài tại chính điện chùa Ấn Quang (Chợ Lớn): “Kề vai chung sức chung lòng cùng pháp lữ đồng liêu,
Đưa Giáo hội mười năm ròng qua cơn sóng gió”.

Do đó, thực trạng chính trị lúc bấy giờ, GHPGVNTN lại bị cuốn hút vào cơn lốc chính trị thời thế. Cho nên con thuyền GH muốn đứng vững giữa phong ba thời thế thì Giáo Hội cần có những khuông mặt Phật tử sáng giá trên chính trường do chính Giáo Hội đào tạo. Thế nhưng GH đào tạo Nhân Sự lấy từ nguồn nào? Gia đình Phật tử (GĐPT) vốn là “vùng đất tốt” cung cấp nguồn nhân sự “hộ trì chánh pháp” cho Giáo Hội. Thế nhưng do từ “lỗ đen” cơ chế Hiến chương GHPGVNTN (1964), nguồn đào tạo nhân sự nầy lại bỏ ngõ từ sau 1964. Trong các Tổng vụ thuộc GH chưa thấy có “đất đứng” cho việc đào tạo nhân sự theo nghĩa Phật tử tham chính; một sự “bỏ ngõ” đào tạo Phật tử tham chính hơn 10 năm (1964-1975) như thế đã gây nên biết bao tai vạ cho GH.


Thứ nhất, đường hướng vận động hoà bình của GHPGVNTN như những năm 1972 thì khâu nhân sự lại “vai mượn người ngoài” làm người mình. Việc Giáo Hội giới thiệu Bác sĩ Trương Đình Dzu ứng cử Tổng Thống 1967; việc dùng Bác Sĩ Phan Huy Quát là một điển hình. Thứ hai, Tổng vụ Thanh niên là “Nguồn” cung cấp nhân sự theo nghĩa hiền tài là nguyên khí quốc gia thì lại rơi vào sự khuynh đảo của cộng sản do Gian đạo sĩ Minh Châu cùng những cộng sự đắc lực như Võ Đình Cương – Tống Hồ Cầm (Tống Anh Nghị) trợ tâm giúp sức. Trong khi đó cha đẻ soạn ra Hiến chương GHPGVNTN (1964) có điều khoản “thả cửa thành nội” như thế lại là Hòa thượng Thích Trí Quang.


Việc thả cửa nhân sự nầy người soạn ra Hiến chương (Thích trí Quang) không phải không thấy – biết mà là có thấy biết nhưng lại lờ đi vì lý do chính trị có lợi cho phe nhóm của họ mà cũng là có lợi cho cộng sản nữa. Điển hình là cơ chế Gia đình Phật tử Việt nam (GĐPTVN) đã bị khuynh đảo hằng chục năm qua (1964-2008), đó cũng chính là “lá chắn” cơ chế nhân sự “bỏ ngõ” cho cộng sản chui vào tổ chức Giáo Hội như hệ qua tang thương còn di chứng đến nay mà nhóm virus Nguyễn Châu – Xích Hoa Mai (Bạch Hoa Mai) đang hoành hành toàn thân ngôi nhà Gia đình Phật tử Việt nam như đã thấy. Bên trên, bên dưới, bên trong, chung quanh Hoà thượng Thích Trí Quang là cả một “đội quân” hoạt động chính trị (kể cả sự có mặt của Mặt trận giải phóng miền Nam), Họ “mượn” chùa Ấn Quang làm “điểm hẹn”;


Chung quanh Giáo gian Minh Châu, Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh có hàng tá cộng sản nằm vùng mà Viện Đại học Vạn Hạnh là “vùng đất tốt” cho những con virus cộng sản vun thân; Chung quanh Hoà thượng Thích Thiện Minh, qua sự giới thiệu của giao gian Minh Châu, Trung tâm Quảng Đức, trụ sở Tổng vụ Thanh niên cũng là vùng đất “an toàn khu” cho cộng sản hoạt động nội thành “ẩn dương nương Phật” mà Hoàng Văn Giàu (Hoàng Nguyên Nhuận) là Trưởng nhóm Sinh viên Phật tử Sài gòn do là một điển hình. (Việc Giáo gian Minh Châu cài người vào Trung tâm Quảng Đức, việc nầy Hòa thượng Thích Thiện Minh cũng không phát hiện được); Chung quanh Hoà thượng Thích Trí Thủ, Tu viện Già Lam, Gò Vấp cũng không thiếu bóng dáng cộng sản trong đó,


Việc Hoà thượng Thích Trí Thủ giới thiệu Đỗ Trung Hiếu (Mười Anh) qua “tu học” tại Thanh Minh Thiền Viện (nơi Cụ Thích Quảng Độ cư ngụ) cũng cho thấy, thông qua Thầy Trí Thủ, cộng sản đã “cài eng ten” quanh Thầy Quảng Độ từ những năm 1966 mà chính Hòa thượng Thích Quảng Độ cũng không phát hiện ra (Mười Anh xuất thân thuộc truyền thống Phật tử thuần thành, bà mẹ Mười Anh là đệ tử cụ Trí Thủ. Mười Anh hoạt động ở Huế bị lộ, được Trí thủ đưa vào Sài gòn, giới thiệu qua Thanh Minh Thiền viện (là nơi an ổn nhất bấy giờ) nằm vùng nội thành, hoạt động trí vận. Từ uy tín Trí Thủ, được “dù lộng” ông Tổng vụ trưởng, Tổng vụ Tài chánh như Trí Thủ che chở thì cho dù Lê nin sống lại cũng không tài nào lần ra dấu vết đặc tình nội thành của Mười Anh được cả.


Ngay cả Hòa thượng Thích Quảng Độ cư ngụ Thanh Minh Thiền viện lúc đó cũng không phát hiện được việc nầy. Đến sau 1975, chính Mười Anh trở lại đấu tố Hòa thượng Thích Quảng Độ.); Chung quanh Hoà thượng Thích Trí Tịnh (chùa Vạn Đức, Thủ Đức, Sài gòn) cũng có hằng lố Việt cộng nằm vùng mà Cao đẳng Phật học viện Huê Nghiêm, (An dưỡng địa, Bình Chánh, Sài Gòn), nơi đây cũng có bóng dáng những tên đặc công Việt cộng nội thành đủ loại hạng. Đó là chưa nói đến những nhóm khác, cơ sở khác như chùa Phổ Quang (gần sân bay Tân Sơn Nhất) của Thầy Thích Trí Dũng, Chùa Khánh Hưng của “Gían điệp hai mang” Thích Pháp Lan , Tịnh xá Ngọc Phương của Ni sư Huỳnh Liên, Chùa Giác Lâm …



Tất cả đã một thời góp phần làm nên bản doanh an toàn cho nhóm cộng sản hoạt động nội thành làm mưa làm gió với chính quyền quốc gia, như điều Quán Như đã tự phơi trần qua bài “Hoàng Nguyên Nhuận, mối tình đoàn hữu hơn 30 năm”.. . đó là những vấn nạn thống hận với GHPGVNTN cần được giải bày. Bỏ ngõ chính trị sau 1964, Giáo Hội như con thuyền đi trong mưa bảo thời thế và do đó nó sẽ chao đảo vào tay những cá nhân, để cá nhân khuynh đảo Giáo hội và Viện Hoá Đạo cũng bị cuốn hút vào cơn lốc chính biến thời đại mà không cưỡng lại được. Điển hình là từ chính biến Hiến chương Vũng Tàu (1965) của quân đội; Hội chứng “bàn thờ Phật xuống đường” (1966) của Thích Trí Quang;


Hay thành lập Lực lượng Hoà giải Dân tộc, ủng hộ “thành phần thứ ba”: Mặt trận giải phóng miền Nam (1968) của Nhất Hạnh; Hay tuyên bố tách khỏi đường lối vận động Hoà bình của Giáo Hội (1972) của Giáo gian Minh Châu; Hay thái độ ly khai Giáo Hội (1974) của giáo gian Trí Tịnh hay Hội chứng “bên vua có chúa” trong cơ chế Gia Đình Phật tử Việt Nam (GĐPTVN); cơ chế Trưởng ban hướng dẫn TW GĐPTVN đương nhiên là vụ trưởng GĐPTVN mà không do Viện trưởng Viện Hoá Đạo bổ nhiệm (Đại hội Huyền Trang, Đà Lạt1969) của giáo gian Minh Châu thông qua Võ Đình Cường - Tống Hồ cầm (hiện tượng Võ Đình Cường rút tên vào giờ chót trong danh sách Thành viên phái đoàn Phật Giáo Việt Nam tham dự Hội nghị Phật Giáo thế giới 1950 tại Tích Lan do Thượng toạ Thích Tố Liên trưởng đoàn, điều nầy đã cho thấy ngay từ những năm 1950 Võ Đình Cường thuộc nhóm chính trị nào rồi).


Từ Hội chứng đó, GHPGVNTN trong giai đoạn1966-1975 bị khuynh đảo bởi những cá nhân mượn Viện hóa đạo “làm bệ phóng” để hoạt động cho phe nhóm của tổ chức mình. Điển hình là nhóm Trí Quang + Nhất Hạnh + Minh Châu + Trí Tịnh + Trí Thủ + Mãn Giác + đã thao túng “Phật giáo Ấn Quang” theo hướng có lợi cho cộng sản, từ đó tạo nên vấn nạn “Phật giáo Ấn Quang thân cộng” và vấn nạn nầy kéo dài cho đến 1975. Đến 30-04-75 khi cộng sản vào thành thì nhóm thân cộng Minh Châu, Trí Tịnh lại hồ hởi “rước cộng sản vào thành”.


Thế nhưng cũng cùng thời điểm đó, Nhóm Viện hóa đạo: Hòa thượng Thích Đôn Hậu +Thích Thiện Minh + Thích Huyền Quang + Thích Quảng Độ lại bị Ông Nguyễn Văn Hiếu, Bộ trưởng Bộ Văn hoá, CHXHCNVN gán cho bản án: “Phật giáo Ấn Quang phản động”. Như vậy GHPGVNTN 1964 (của Nhóm Hòa Thượng Thích Thiện Hoa , Thích Đôn Hậu, Thích Thiện Minh, Thích Huyền Quang , Thích Quảng Độ) không phải là GHPGVNTN 1966-75 của nhóm Trí Quang, thực trạng Phật giáo Ấn Quang như thế đã rõ ràng.

Thế nhưng do quan niệm chính trị, nhà nước cố tình gán cho GHPGVNTN là thân Mỹ để triệt hạ; rồi do “đánh bẩn ăn hôi”, Chu sa cố đánh đồng GHPGVNTN với cộng sản là một để đánh phá theo mưu đồ cá nhân (Chu Sa, Cộng sản âm mưu biến đảng thành đạo). Cũng chưa vội bàn đến việc thành viên GHPGVNTN tham gia chính trị theo phe nhóm nào, là có lợi hay có hại cho GH ra sao? Chỉ ngay việc một cá nhân Tăng sĩ - thành viên GHPGVNTN hoạt động chính trị mà đường hướng đó không do Giáo hội đề vạch là cá nhân đó đã khuynh đảo Giáo Hội rồi.


Một tổng hợp từ Vân Thanh, Lịch sử Phật Giáo Việt Nam 1974; Thích Đức Nhuận, Đạo Phật Việt, 1999; Quốc Tuệ, Công cuốc tranh đấu của GHPGVNTN; qua đó cho thấy giai đoạn 1964-1975 (10 năm) cơn lốc chính trị đã khuynh đảo GHPGVNTN bởi những cá nhân như loại hình nói trên. Sau 1975 những tên nằm vùng Phật giáo Ấn Quang lộ mặt như: Minh Châu, Trí Tịnh, Mãn Giác, Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm, Vũ Ngọc Nhạ, Minh Nguyệt, Thiện Hào, Hiển Pháp (Sáu Ngọc), Từ Hạnh, Pháp Lan, Hoàng Văn Giàu (Anh Giàu)…, bọn nầy đã hồ hởi “rước cộng sản vào thành”, “mừng sinh nhật HCM”, biến cố trên đưa đến vấn nạn “Phật giáo Ấn Quang” là cộng sản.

Chưa hết, Sau 30-04-75, Theo chiến lược đường dài, nhà nước mở ra chiến lược mới, phân công tác cho đám giáo gian để, một số tiếp tục “nằm vùng” lại trong tôn giáo qua nhiều vai diễn; số khác theo chân người vượt biên tỵ nạn cộng sản ra hải ngoại, họ cũng mặc chiếc áo Phật giáo với lôgo Phật Giáo vì dân tộc ... Sô Viết nhưng thực chất là đánh phá GHPGVNTN theo kế sách của Hà Nội. Giáo gian Thông Kinh (Thích Đồng Điển) xuất thân chùa Đông Hưng, Việt nam, Giáo gian Hạnh Đạo (Hoa Kỳ) là những điển hình. Việt gian cấu kết với Giáo gian thành hình nhóm Thân hữu Già Lam – Thân hữu già Hồ, lấy nhóm Tăng ni hải ngoại làm hậu thuẩn, dựng lên nhóm Về nguồn ly khai GHPGVNTN. Nhóm Về nguồn lại “đổi màu” thành Con tàu “mười lăm toa”: Cộng đồng Phật giáo Việt nam hải ngoại do giáo gian Giác Nhôm - Ất Cái Vồn (Giác Nhiên) làm ngựa kéo. Chóp bu trong nhóm đặc tình Tôn giáo vận cộng sản hải ngoại nói trên là Nhóm Hạnh - Phượng (Nhất – Hạnh, Cao Ngọc Phượng) làng Mai nước Pháp. Giáo chủ Hạnh – Phượng “thả vòi” khắp các châu lục trên thế giới; khắp trong ngoài nước. Chùa Pháp Vân Canada của Thích Tâm Hòa hiện nay là chi bộ của Làng Mai, giáo gian Bổn Đạt làm bí thư chi bộ. Làng Mai cũng tài trợ “thẳng cánh” cho Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát, Nhật Từ trong nước.


Rồi theo chỉ thị của Bí thư thứ nhất làng Mai, Cao Ngọc Phượng, Tuệ Sĩ “rao loa” xóa bỏ “bát kỉnh pháp” trên Paltalk diễn đàn Tăng Ni để Nhất Hạnh phu nhân mặc tình “tò te” Thiền ôm sát bên Giáo chủ Mai – Hồng theo kiểu “võng Anh lăn bánh [võng hiện đại có gắn bánh xe] võng Bà theo Bên” để mà lăn cao, lăn thấp, lăn ngắn, lăn dài, lăn trên, lăn dưới, lăn trên “xanh thẩm từng không”, lăn vào thôn - làng - bản – xóc – buông- truông mà không phải vướn bận thanh qui chi Mác Mao Hồ cộng. Giáo gian Nhật Từ cũng vảnh tai “đón gió” “chia phần sơ múi” với Tuệ Sĩ qua lãnh dịch vụ “bao thầu trọn gói” tuyên truyền Kinh Nhật Tụng theo làng Mai, nữa Nam nữa Bắc tông, thật quái vị vô cùng.

Chưa hết Từ tất tám “rể Giác Nhôm” lại còn lãnh thầu hô hào “bỏ Bát kỉnh pháp” phun rãi nộc độc Mác - Lê - Hồ trên bụt giảng Học viện Vạn Hạnh, thành Hồ. Những hệ quả tang thương trên đều do từ giáo dục thuần túy XHCN mà ra. 16. Phật giáo Ấn Quang dưới cái nhìn của đảng cộng sản GHPGVNTN là một thực lực chính trị khiến nhiều tổ chức chính trị khác luôn “đặc biệt quan tâm”. Rõ nét hơn nữa qua nhận định của Ông Xuân Thuỷ, bí thư Trung ương Ðảng cộng sản, khi bàn về Thống nhất Phật Giáo, Xuân Thuỷ đã nói về GHPGVNTN như sau: “Quan trọng là Đảng không bao giờ lãnh đạo được GHPGVNTN, mà ngược lại GHPGVNTN trở thành một tổ chức tôn giáo rộng lớn có đông đảo quần chúng, là một tổ chức áp lực chính trị thường trực với Đảng và chính phủ Việt Nam” (Đỗ Trung Hiếu, Thống nhất Phật Giáo). Một khi cộng sản với cái nhìn GHPGVNTN bọn “Phật giáo phản động” và khi “quan tâm không được” mà mua chuộc cũng chẳng xong thì việc đánh phá GHPGVNTN là lẻ tất nhiên rồi.


Vào một dịp Hòa thượng Thích Đôn Hậu trưởng đoàn Viện hóa đạo, GHPGVNTN xin nhà nước XHCN để Thống nhất Phật giáo 2 miền Nam Bắc, thì cùng cách nhìn theo trường lớp Marxism như Ông Xuân Thủy, Ông Nguyễn Văn Hiếu, Bộ trưởng Bộ Văn hóa CHXHCNVN trả lời: “Thống nhất Phật giáo thì tốt, nhưng Thống nhất với Phật Giáo cách mạng chứ Thống nhất làm gì với bọn Phật Giáo phản động”. Như vậy, hơn ai hết, cộng sản vẫn biết rõ thành phần GHPGVNTN không phải là một nhóm mà theo cái nhìn của đảng cộng sản, Phật giáo có 2 nhóm: “Phật Giáo cách mạng” và “Phật giáo [Ấn Quang] phản động”.

Trước kia thời pháp nạn Nhu – Diệm 1963, chính quyền gán cho Viện Hoá Đạo là cộng sản để triệt hạ. Đến sau 1975 Nhà nước XHCNVN cho “Phật giáo Ấn Quang” là bọn “Phật giáo phản động” để xóa sổ. Như vậy, không thể nói rằng “Phật Giáo Ấn Quang thân Mỹ” hay “Phật Giáo Ấn Quang thân cộng” mà chỉ có một vài cá nhân thành viên VHĐ ngã theo lập trừơng chính trị bên nầy hay bên kia mà thôi. Thế nhưng, dưới cái nhìn của quần chúng, việc giáo gian Minh Châu kéo một nhóm sinh viên Đại Học Vạn Hạnh ra Ngã tư Bảy Hiền đón đám ăn cướp gọi là “quân giải phóng” vào chiếm Sài Gòn; hay Thích Mãn Giác huy động hằng trăm Tăng, Ni tụ tập tại địa điểm chùa Ấn Quang để diễn hành đến dinh Độc lập “mừng chiến thắng” 15-05-75; Hay kêu gọi hàng ngàn Tăng, Ni Phật tử, quần chúng tụ tập tại điểm chùa Ấn Quang để diễn hành đến dinh Độc lập “mừng sinh nhật HCM” 19-05-75 có sự tiếp tay của bọn cộng sản nằm vùng , những hiện tượng điển hình như trên đã vượt ngoài tầm kiểm soát của GHPGVNTN.


Thực trạng trên đây của nhóm giáo gian Minh Châu (của cá nhân), đó không còn là thái độ chính trị nữa mà đã là tham dự chính trị rồi. Chính từ đó, đưa đến ngộ nhận rằng “Phật Giáo Ấn Quang rước cộng sản vào thành”, đưa đến những hệ quả tác hại không lường chẳng những là với GHPGVNTN mà còn với cả đoàn thể chính trị Cộng hòa sau 1975 nữa. Cho nên GHPGVNTN bỏ ngõ chính trị là một sai lầm. Bỏ ngõ chính trị sau pháp nạn 1963, Giáo Hội mắc phải sai lầm là “dọn đất trống cho cỏ dại tràn lan”.


Để rồi chính “đám cỏ dại” kia trở lại đánh phá Giáo Hội. Do đó cơ chế Hiến Chương GHPGVNTN (1971) cần phải được tu chính. Qua đó Vụ nhân sự (trực thuộc Tổng vụ Thanh niên GH) cần phải được thiết lập. GHPGVNTN không theo khuynh hướng chính trị thời thế nào. Thế nhưng một khi nhập cuộc đấu tranh trong hoàn cảnh pháp nạn XHCNVN ngày nay là đã chấp nhận vấn thân giữa những làn tên mũi đạn bốn bề tám hướng rồi; đó là hệ quả pháp nạn XHCNVN với Giáo hội, một điều không tránh khỏi. Cho nên cần phải có cơ chế Hiến chương thích nghi với thời thế. Trong bối cảnh dòng thác chính trị cuồn nộ như thế, vấn đề đặt ra là GHPGVNTN có làm chính trị không? Còn tiếp: phần 3



PHẦN III.

Phật giáo Ấn Quang không là cộng sản) Nhà nước Việt cộng với GHPGVNTN, những vấn nạn cần được giải bày


Châu Hùng Sơn, Thailand 2008-03-01 (phần 3) 2. GHPGVNTN không là cộng sản,
(sự thật đã bị một vài cá nhân xuyên tạc, vấn nạn nầy cần được giải bày). Phải nói rằng, ngay từ những ngày đầu 30-04-75 vào thành, khi cộng sản “cờ thắng” trong tay cũng như suốt hơn 30 năm (1975-2008) pháp nạn XHCNVN đến nay, chưa bao giờ XHCNVN thừa nhận sự có mặt của GHPGVNTN cả[1], cho đến nay Pháp lý GHPGVNTN vẫn còn bị đặt ngoài vòng pháp luật, một loại luật pháp rừng rú XHCN xa lạ với Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Thế cho nên chưa bao giờ GHPGVNTN hay nói rõ là GHPGVNTN Huyền Quang – Quảng Độ thân cộng cả, bởi dễ hiểu là Hai Thầy Huyền Quang – Quảng Độ chính là nạn nhân cộng sản kia mà! Thực tế là, ngày 30-04-75, giáo gian Minh Châu cầm đầu một nhóm sinh viên Đại học Vạn Hạnh đón rước cộng sản vào thành; Thực tế là, 15-05-75 nhà nước tổ chức “mừng chiến thắng” có Tăng ni Sài gòn tham dự; Thực tế là, 19-05-75 nhà nước tổ chức “mừng sinh nhật HCM” có Tăng ni Sài gòn tham dự. Từ thực trạng trên, có nhận định cho rằng GHPGVNTN rước cộng sản vào thành; cho rằng Phật Giáo Ấn Quang thân cộng. Vậy, 1. Ngày 30-04-75 GHPGVNTN có rước cộng sản vào thành hay không? 2. Ngày 15-05-75 GHPGVNTN có tổ chức “mừng chiến thắng” cũng như 3. Ngày 19-05-75 GHPGVNTN có tổ chức “mừng sinh nhật HCM” hay không? Việc nầy thì xin minh định rõ ràng là chưa bao giờ GHPGVNTN rước cộng sản vào thành hay Phật giáo Ấn Quang thân cộng cả. Đó là việc làm cá nhân của một vài thành viên Viện Hoá Đạo thân cộng. Rồi do ý đồ không tốt, có người đánh đồng cá nhân với tổ chức để tạo nên cách nhìn sai lệch rằng GHPGVNTN rước cộng sản vào thành; rằng là GHPGVNTN thân cộng. Cầm cơ chạy hiệu, phát pháo đầu tiên tạo nên vấn nạn GHPGVNTN là cộng sản đó là Chu Sa, Cộng sản âm mưu “biến đảng thành đạo” (01-01-2003). Hệ quả nầy có mấy vấn nạn cần phải được giải bày:
8321. Vấn nạn GHPGVNTN rước cộng sản vào thành. Biến cố giáo gian Minh Châu kéo một nhóm sinh viên Đại Học Vạn Hạnh ra tận ngã tư Bảy Hiền đón đám ăn cướp gọi là “quân giải phóng” vào chiếm Sài Gòn, đó là việc cá nhân của giáo gian Minh Châu mà không là của GHPGVNTN, đây là vấn nạn cần phải được giải bày. Vấn nạn GHPGVNTN Mừng Chiến Thắng cũng như làm lễ sinh nhật Hồ Chí Minh. Liên hệ vấn nạn trên có 3 nguồn chính: Thầy Thích Mãn Giác, Chính Hạnh và Tú Gàn. Thích Mãn Giác, Bảo qua cổng chùa, 1993. Tác phẩm cho thông tin: 1-“Buổi lễ Mừng Chiến Thắng do chính phủ tổ chức ngày 15 tháng 5, 1975, Giáo Hội… đã động viên trên 900 Tăng Ni trong thành phố Hồ Chí Minh để tham dự cuộc meeting trên. 2-“lễ Mừng Chiến Thắng 15-05-75 do chính phủ tổ chức”.“Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không được mời tham dự buổi lễ” 3- “Ngày 19 tháng 5, 1975 hơn 20.000 Phật tử đã tề tựu tại chùa Ấn Quang để làm lễ sinh nhật Hồ Chủ Tịch”. 4-“Giáo Hội đã thành lập một Ủy Ban Tổ Chức lấy tên là Ủy Ban Tổ Chức Đón Mừng Hòa Bình và Kỹ Niệm ngày 19 tháng 5 , chúng tôi được cử làm Trưởng Ban”(Thích Mãn Giác, Bảo qua cổng chùa).


Giám định tư liệu Bốn đoạn tư liệu Bảo qua cổng chùa dẫn trên có 4 việc rõ nét là: 1. “Buổi lễ Mừng Chiến Thắng do chính phủ tổ chức ngày 15-05-75”. Giáo Hội… chỉ động viên người tham dự cuộc mitting; Và 2.“Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không được mời tham dự buổi lễ” 3. Giáo Hội đã thành lập một Ủy Ban Tổ Chức lấy tên là Ủy Ban Tổ Chức Đón Mừng Hòa Bình và Kỹ Niệm ngày 19 tháng 5 , chúng tôi được cử làm Trưởng Ban”. 4. “Hơn 20.000 Phật tử đã tề tựu tại chùa Ấn Quang để làm lễ sinh nhật Hồ Chủ Tịch”. Như vậy ngày 15-05-1975 “lễ Mừng Chiến Thắng 15-05-75 do chính phủ tổ chức” chứ không do GHPGVNTN tổ chức và “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không được mời tham dự buổi lễ”. Hiện tượng nầy cũng có nghĩa là nhà nước không thừa nhận sự có mặt của GHPGVNTN. Như thế đâu thể nói GHPGVNTN tổ chức mừng chiến thắng mà là “do chính phủ tổ chức”.


Như thế GHPGVNTN không là cộng sản được. Tiếp theo Thầy Mãn Giác nói lấp lững là: “Giáo Hội đã thành lập một Ủy Ban Tổ Chức lấy tên là Ủy Ban Tổ Chức Đón Mừng Hòa Bình và Kỹ Niệm ngày 19 tháng 5 và Thầy [chúng tôi] được cử làm Trưởng Ban”. Trong khi đoạn tư liệu trên thì nói“Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không được mời tham dự buổi lễ”. Thế đoàn văn tiếp theo sau đó Thầy lại nói: “Giáo Hội đã thành lập một Ủy Ban Tổ Chức … và chúng tôi được cử làm Trưởng Ban”.

Vậy thì GH nào không được [nhà nước] mời còn GH nào thì cử thầy làm trưởng ban? Từ đó cho thấy Thầy Mãn Giác đã tiếm danh GHPGVNTN và thầy tự cử mình làm Trưởng ban để bắt tay với nhà nước đưa đến vấn nạn GHPGVNTN là cộng sản như ngày nay. Việc nầy cũng như Thầy Thích Trí Thủ, giáo gian Trí Tịnh, giáo gian Minh Châu… đã tiếm danh GHPGVNTN bán đứng GH nầy cho cộng sản.


Như vậy sự thật đã rõ, Buổi lễ Mừng Chiến Thắng do chính phủ tổ chức”và Thầy Mãn Giác đã tiếm danh Giáo Hội để động viên người tham dự cuộc mitting”. Do đó rõ ràng là GHPGVNTN không dính dự gì vào 2 lễ nói trên, bởi “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không được mời tham dự buổi lễ” (Bảo qua cỗng chùa)



Về con số nói là “trên 900 Tăng Ni trong thành phố Hồ Chí Minh để tham dự cuộc meeting” Thầy Mãn Giác lấy thông tin từ đâu mà cho con số trên 900 Tăng Ni? hay mỗi người tham dự lễ đều có phiếu mời dự lễ rồi thông qua kiểm phiếu mà cho con số chắc nịch là 900 như thế. Như chúng ta biết Phật giáo miền Nam Việt Nam trước cũng như sau 1975 có nhiều Tổ chức Hệ phái Phật giáo mà GHPGVNTN là một tổ chức lớn trong số đó. Vậy trong số Tăng Ni trong thành phố Hồ Chí Minh (sau 30-04-75) đó, làm sao phân biệt được ai là Tăng ni hệ phái khác, còn Tăng ni GHPGVNTN thì được bao nhiêu phần trăm? trong số đó. Cho nên nói 900 Tăng Ni trong thành phố Hồ Chí Minh để tham dự cuộc meeting theo kiểu 900 Tăng ni đó đều là thuộc GHPGVNTN cả, thì đó là kiểu nói “đánh bùn sang ao”, là cách nói vu vạ, đánh đồng cộng sản với GHPGVNTN để bôi nhọ thanh danh, đánh phá GHPGVNTN.


Hơn nữa, như mọi người đều biết, sau 30-04-75 là thời XHCNVN đang cao ngạo, lúc bấy giờ sinh hoạt đoàn thể, quần chúng cũng như buổi lễ tôn giáo đều do MTTQ sẽ “gõ cửa” từng chùa viện, tịnh xá, tịnh thất, Niệm Phật đường các hệ phái Phật giáo để “mời” Tăng Ni tham dự. Vậy hỏi rằng trong số “trên 900 Tăng ni” tham dự nói trên, ban tổ chức đã có sự phân biệt xếp loại Tăng ni hệ phái chưa? Nhóm nào là là thành viên GHPGVNTN còn nhóm nào là Tăng Ni của các giáo phái khác do MTTQ “mượn tay” Thầy Mãn Giác “huy động” tham dự (chức vụ Tổng vụ Văn Hoá, Viện Hoá Đạo của Thích Mạn Giác không đủ tư cách đại diện GHPGVNTN, cũng không do GHPGVNTN ủy nhiệm), thì thật khó mà phân biệt được.


Còn như nói GHPGVNTN huy động hơn 900 Tăng Ni tham dự lại cũng là cách nói hồ đồ! bôi bẩn xuyên tạc sự thật. Sự thật phải nói là MTTQ huy động thì chính xác hơn bởi vì “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không được mời tham dự buổi lễ” thì lấy tư cách gì huy động. Trong khi đó Thầy Mãn Giác (Bảo qua cổng chùa) cho con số “trên 900 Tăng Ni” thì lấy từ sự kiểm chứng nào vậy? Hay là do từ các Tổ dân phố phường xã cung cấp. Nếu thế mà cũng tin được thì Thầy Mãn Giác tin cộng sản hơn tin sự thật rồi, bởi cộng sản từ lớn tới nhỏ từ trên xuống dưới đều là tập đoàn báo cáo láo muôn năm mà chú chệt Chợ Lớn cũng quá biết, chỉ có Ngài Mãn Giác là vô tư không biết mà thôi; Nếu thế thì quả thật kỳ tài “đáng phục” nếu không nói là quá cẩu thả! Không biết chính xác mà cung cấp thông tin thời sự, biến cố, đại biến cố Phật giáo để thông tin sai sự thật lịch sử đi vào lịch sử Phật giáo Việt nam; bôi nhọ thanh danh GHPGVNTN đưa đến hệ quả nghiêm trọng làm tiền đề cho báo chí, truyền thông, nhà nghiên cứu y cứ trích dẫn về một nguồn thông tin sai sự thật từ ông tiến sĩ Tổng vụ Văn hóa mà ăn nói vô văn hóa để di họa tai hại cho đời sau thì thật hết chỗ nói rồi. Như vậy, “Bảo qua cổng chùa” của Thầy Mãn Giác hay chùa Thầy Mãn Giác gây nên bảo lớn thổi sanh chùa khác vậy? (Hiện nay sách Thích Mãn Giác, Bảo qua cổng chùa đã nằm trong kho lưu trử Thư viện Mỹ. Mãn Giác, Thích, 1929- Bão qua cổng chùa : tài liệu Cọng Sản đàn áp Phật Giáo Việt Nam / Thích Mãn-Giác. Los Angeles, CA : Trung tâm văn hóa Phật Giáo Việt Nam, [1991] 227 p. : ill. ; 21 cm. OCLC:33412492 State Locations CA sfr NY COO
http://www.quangduc.com/Danhnhanvn/htmangiac/mangiac_publications.pdf

Thiết nghỉ hế hệ môn đồ, đệ tử Thầy Mãn Giác cần cải chính thông tin từ Bảo qua cổng chùa để trả sự thật lại cho sự thật lịch sử Phật giáo Việt nam. Trong khi đó Bảo qua cỗng cho con số “trên 900 Tăng ni”. Còn Chính Hạnh, Biên niên sử Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất từ sau 30-4-1975 thì cho thông tin vơi con số chắc nịch là “900 Tăng Ni” (“15-05-1975: GHPGVNTN huy động 900 Tăng Ni tham gia diễu hành "Mừng Chiến Thắng" do Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tổ chức trước dinh Ðộc Lập tại Sàigòn”).

http://www.phatgiaoucchau.com/daihoi/daihoi3/06bienniensu.html.


Hơn nữa, Sau 30-04-75 thì chỉ có Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt nam mà thôi chứ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã “ngồi chơi xơi nước rồi, còn đâu nữa mà … tổ chức: “… do Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tổ chức”. Thiết nghỉ, Chính Hạnh khi dẫn thông tin lịch sử thì cần nên kiểm chứng lại. Cũng thế, “lễ Mừng Chiến Thắng” tổ chức ngày 15-04-1975, lễ đài chính là trên đường Công Lý trước dinh Độc Lập (có truyền hình trực tiếp trên TV, qua đó người người đều thấy Thầy Trí Tịnh đang ngồi chểnh chệ trên hàng ghế danh dự lễ đài) và chùa Ấn Quang chỉ là điểm “tề tựu” tập trung để lên đường “diễu hành” mitting mà thôi. Cho nên không thể dựa vào sự kiện MTTQ mượn chùa Ấn Quang làm điểm tập trung quần chúng để diễn hành dự mít ting ra lễ đài tại Dinh độc lập mà nói GHPGVNTN là cộng sản được.
Về việc "Mừng Sinh nhật Hồ Chí Minh (có 2 việc cần bàn rõ) 1. Về con số “20 ngàn Phật tử tham dự” (Bảo qua cổng chùa):


“Ngày 19 tháng 5, 1975 hơn 20.000 Phật tử đã tề tựu tại chùa Ấn Quang để làm lễ sinh nhật Hồ Chủ Tịch”. Thông tin trên đây Thầy Mãn Giác chỉ nói “… hơn 20.000 Phật tử đã tề tựu tại chùa Ấn Quang để làm lễ…”. Nghĩa là Phật tử chỉ “tề tựu tại chùa Ấn Quang để làm lễ”thôi còn ai đứng tổ chức thì chưa nói. Trong khi đó Chính Hạnh (đd) lại cho thông tin đi viễn mộng hơn mà nói cả quyết: “GHPGVNTN tổ chức”; Còn với con số 20, 000.000 thì Thầy Mãn Giác nói “hơn 20. 000” còn Chính Hạnh thì lại nói chắc nịch là “có 20.000” (19-05-1975: GHPGVNTN tổ chức "Mừng Sinh nhật Hồ Chí Minh" tại chùa Ấn Quang có 20 ngàn Phật tử tham dự).


Con số “hơn 20 ngàn Phật tử tham dự” do thống kê nào mà có (theo Thầy Mãn Giác) ; cũng như con số “20 ngàn Phật tử tham dự” do từ nguồn nào mà có chẳng bon vậy (theo Chính Hạnh). Hay là Ban tổ chức có bán vé cho người đến dự như kiểu tổ chức lễ hội như bên Tây. Cho nên đây lại là con số thổi phồng đến xem thường người đọc. Điều mà ai cũng biết là sau 75, bấy giờ các đoàn thể quần chúng đều nằm trong sự điều động của Mặt trận Tổ quốc XHCN cả. Nhất là vào cái thời kỳ “thằng trời đứng sanh một bên, để cho thủy lợi đứng lên thay trời” thì có thể là cả tuần lễ trước ngày 15-05-75, nhà nước phát thanh rao loa kêu tuyên truyền, huy động toàn dân phố khóm, phường xuống đường tham dự lễ mít tinh.


Tổ trưởng dân phố, tổ quỷ, tổ ma, tổ đảng cha, đảng con, tổ đầu đường xó chợ, Nó xách xổ đến từng nhà, ghi tên từng hộ sẽ tham dự (kể cả điểm danh), hộ nào vắng mặt là hộ đó phản động đấy! Trong khi đó, Bao gồm các tổ chức đoàn thể nhà nước cùng trà trộn lẫn lộn vào buổi lễ như là: Đoàn Thanh niên cộng sản; Hội phụ nữ; Hội những người kháng chiếu cũ; Hội Lão thành cách mạng; Hội Bà mẹ Việt nam anh hùng; Tổ chức Thanh niên xung phong; kể cả Viện bảo tàng phụ nữ nam bộ kháng chiến; “Viện bảo tàng dép râu, nón tai bèo” nữa, Thử hỏi trong số người tham dự buổi lễ đó làm sao phân biệt được ai là Phật tử, ai là quần chúng không Phật tử; ngoài số “người của đảng” ra, số còn lại là Phật tử thì được bao nhiêu phần trăm trong số 20.000 kia.

Thế mà Thi sĩ Huyền Không (Thầy Mãn Giác) nhà mình lại đi gộp tất cả (theo cái kiểu cộng sản) đoàn thể chính quyền; đoàn thề quần chúng; đoàn thề Phật Giáo lại rồi thổi phồng lên theo giai điệu Đảng Hồ che chở hồn dân tộc (trước cách mạng thành công, trước 30-04-75 thì: “mái chùa che chở hồn dân tộc”) để tạo nên biến cố vu vạ, bôi bẩn thanh danh Phật giáo Ấn Quang khi cho thông tin:“Hơn 20.000 Phật tử đã tề tựu tại chùa Ấn Quang để làm lễ sinh nhật Hồ Chủ Tịch”. Trong khi đó số Phật tử Ấn Quang thật sự là bao nhiêu thì chỉ có Chủ tịt ông với Bí thư bà phường khóm thì mới biết mà thôi.


Thế mà từ cái Ông Tiến sĩ có học vị, có chức (xin đừng đọc láy lại) vụ Văn hóa như Thầy Mãn Giác lại “tung hỏa mù trên vòm trời Biến cố Phật giáo XHCNVN, tô màu sử Đỏ lên trang sử Phật giáo Việt nam như thế; cũng như Ông Chính Hạnh viết lịch sử mà dẫn thông tin một cách vô tội vạ đến không cần qua giám định nguồn văn bản, làm thế là “góp phần” tạo nên cái nhìn sai lệnh lịch sử Phật giáo Việt nam với thế hệ “Oanh Vũ” trong ngôi nhà Lam thương.



Việc đánh đồng “người do đảng điều động” với Phật tử Ấn Quang là một theo kiểu “cá mè một lứa” như thế thì chỉ có cộng sản đồng thuận với giáo gian mới làm thế mà thôi. Viết lịch sử mà lại bôi bẩn lịch sử thế kia, nếu không có ý đồ vu vạ cho GHPGVNTN thì cũng là loại Giáo gian âm mưu “biến đạo (GHPGVNTN) thành đảng” Mác Lê Hồ như đám “thập ngũ cô hồn” của “Cộng đồng Phật giáo Việt nam hải ngoại” đã từng gây nên hệ quả động loạn Phật giáo hải ngoại trong thời gian qua. Địa điểm tổ chức Mừng sinh Nhật Hồ Chí Minh có phải là tại chùa Ấn Quang không? Liên hệ lễ mừng sinh nhật Hồ Chí Minh, Thích Mãn Giác, Bảo qua cổng chùa cho thông tin: “19 tháng 5, 1975 lễ sinh nhật Hồ Chủ Tịch hơn 20.000 Phật tử đã tề tựu tại chùa Ấn Quang để làm lễ”.


Trong khi đó Tú Gàn, nhận diện sự thật lịch sử lại cho thông tin: “Chúng tôi còn giữ được một số hình ảnh các tăng ni thuộc Giáo Hội Ấn Quang hàng hàng lớp lớp cầm cờ đỏ sao vàng đi dự “lễ Mừng Chiến Thắng” 1975 [15-05-75] và mừng sinh nhật Hồ Chí Minh năm 1976 trên đường Công Lý trước dinh Độc Lập! [Lễ mừng sinh nhật Hồ Chí Minh không phải tổ chức 1976 mà là 19-05-75] Thói thường dưới chế độ xã nghĩa, cộng sản thường mượn đình, chùa, đền, miếu, nhà nguyện, nhà thờ làm điểm tập trung dân để hô hào chính trị, đó là quyền lực trong tay cộng sản; nhất là vào thời điểm bọn nó cờ thắng trong tay của thời kỳ tháng 05-75 thì cộng sản muốn là thằng trời [phải] đứng sang một bên, để cho xã nghĩa đứng lên thay trời. Do đó chùa Ấn Quang không muốn cho mượn chùa làm điểm tập trung dân để làm lễ cũng không được. Cho nên nhà nước mượn chùa làm điểm tập trung dân để [sau đó] làm lễ diễn hành trên đường Công Lý trước dinh Độc Lập là 2 việc khác nhau … như Việt cộng với Quốc gia.


Thế mà đánh đồng 2 việc (nhà nước mượn địa điểm chùa làm lễ với nhà chùa làm lễ) với nhau được sao hởi cái Ông Tú Gàn (Lữ Giang) kia ơi. Ví như có ai đó thỉnh ảnh Hồ Chí Minh về để thờ, trên đường về bổng gặp cơn mưa trút xuống, họ ghé để ảnh HCM trong chuồn Khỉ tránh mưa, rồi người đi đường thấy vậy lại hô hoán lên là chuồn khỉ kỷ niện HCM, nói thế mà nghe được ne! Cũng thế, khi cộng sản họp dân ở đình, làng để “rao hàng” cho đảng thì không có nghĩa là ông thần đình đó theo Việt cộng à.


Cũng thế việc ngày 19-05-1975 Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam tập trung dân đông đảo tại chùa Ấn Quang để mừng sinh nhật HCM thì không có nghĩa là GHPGVNTN theo cộng sản. Sự thật là thế đấy. Chùa Ấn Quang chỉ là điểm nhà nước mượn để “bày tiệc” cúng tên Già Hồ của họ mà thôi. Những ai đã từng một lần nghe giảng pháp ở giảng đường Thích Thiện Hoa, chùa Ấn Quang thì đều có thể hình dung được là giảng đường Thích Thiện Hoa kể cả sân chùa Ấn Quang cũng không thể dung chứa quá hai ngàn người. Ấy vậy mà sách Bảo qua cổng chùa lại nói “Ngày 19 tháng 5, 1975 lễ sinh nhật Hồ Chủ Tịch hơn 20.000 Phật tử đã tề tựu tại chùa Ấn Quang để làm lễ ; nói thế thì thuộc loại đại ngôn cũng không hợp mà là bố láo thượng thừa thì đúng hơn.


Thế mà từ Thầy Mãn giác đến Tú Gàn lại nối đuôi nhau “mẹ hát con khen” mà gợp chung xuồng các đoàn thể nhà nước với Phật tử Ấn Quang rồi rao loa lên rằng là “có 20 ngàn Phật tử tham dự”. Cái kiểu xuyên tạc lịch sử như trên, đó là ý đồ thâm độc của đám lao nô XHCN, đánh đồng GHPGVNTN với cộng sản để đánh phá; đó là bọn “lưu manh văn hóa” và “đao phủ văn chương”. Rồi nhóm “bút máu” Giao Điểm như Trần Chung Ngọc, Tí tèo teo Nhật Từ theo lệnh xã nghĩa thực hiện kế sách ly gián tôn giáo, giả danh Phật tử đánh Kitô giáo qua loại hình “đánh phá nhà thờ, cầm cờ Phật Giáo”.


Âm mưu nầy của nhóm Trần Chung Ngọc đã bị Nguyễn Sĩ Tiến, Theo lệnh ai Tổng Đàn, Giới Tử, Hồng Quang từ lò Giao Điểm... ba mặt một lời đánh phá Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất?, bài viết nầy vạch mặt từ lâu rồi. Hoàng Nguyên Nhuận (Hoàng Văn Giàu; Giới Tử) là đứa cò mồi, là tên lính đánh thuê cho Giao Điểm, là kẻ nhận nhiệm vụ của Tôn giáo vận đánh đồng GHPGVNTN với cộng sản để thực hiện đánh phá, triệt hạ (Vụ án Hoà thượng Thích Thiện Minh, mục; Hoàng Văn Giàu). http://messageboards.aol.com/aol/en_us/articles.php?boardId=89539&articleId=65250&func=5&channel=People+Connection


Sau khi Thầy Mãn Giác về chầu Bác đảng Hoàng Nguyên Nhuận ở hải ngoại từ lâu lân la chùa Phật giáo Việt Nam ca ngợi thầy Thích Mãn Giác thì nay như lao nô mất chủ, Nhuận bèn “trở quẻ” quay sang kêu gọi mọi người hãy chuyển hướng tay chèo ủng hộ “gánh hát bội” Hạnh – Phượng (Nhất – Hạnh, Cao Ngọc Phượng) về Việt Nam 2007. Điều nầy cho thấy Nguyên Nhuận đã tự tố cáo Thầy Mãn Giác là cùng thuyền với Nhất Hạnh theo hướng con bài Tôn giáo vận cộng sản rồi. Nhuận ơi, Thầy Mãn Giác đã “về bên nước Mác” rồi thì sao lại nở công bố “lý lịch Đỏ” của Ngài cho mọi người làm chi, hay Nhuận muốn nói rằng việc ngày “19-05-1975 GHPGVNTN tổ chức "Mừng Sinh nhật Hồ Chí Minh" tại chùa Ấn Quang có 20 ngàn Phật tử tham dự” đó là việc cá nhân của Thầy Mãn Giác chứ không là chủ trương của GHPGVNTN. Nói thế để bạch hoá vấn nạn vu vạ cho GHPGVNTN là cộng sản thì cũng là cách “rửa tội” phần nào cho thi sĩ Huyền Không (bút hiệu của Mãn Giác) đó mà, Mô Phật.

Đến đây, vấn đề được đặt ra là Thông tin Bảo qua cổng chùa, Thích Mãn Giác nói“chúng tôi được cử làm Trưởng Ban”vậy thì ai cử, việc nầy thầy Mãn Giác lại lập lờ không nói rõ. Trong khi“Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không được mời tham dự buổi lễ”, vậy Giáo Hội nào cử thầy Mãn Giác làm trưởng ban? Chỉ có thể trả lời Một là nhà nước chỉ định Thầy Mản Giác làm Trưởng ban đại diện cho một nhóm xó xỉn nào đó tiếm danh GHPGVNTN để tổ chức lễ “cúng cơm” Già Hồ. Thầy Mãn Giác cũng không là đại diện cho GH quốc doanh, bởi Giáo Hội quốc doanh mãi đến 1981 mới có tên kia mà. Còn cách giải thích Hai là Thầy Mãn Giác tự lên làm Trưởng Ban theo chỉ đạo của Thích Trí Quang, Thái thượng hoàng (sau “bức rèm” mà đầy quyền lực, “con bài câm – lặng” suốt 30 năm pháp nạn Xã nghĩa) như “Đỗ Trung Hiếu, Thống nhất Phật giáo” đã đã hé cho thấy một phần sự thật nầy.


Thế đủ biết giữa Thầy Thích Trí Quang, Nhất Hạnh, giáo gian Minh Châu, Lê Mạnh Thát, Thầy Mãn Giác, Hoàng Nguyên Nhuận, Tí tèo teo Nhật Từ là “đồng hội, đồng thuyền” và thuộc khuynh hướng nào thì cũng đã rõ quá rồi. Chỉ có Chu Sa, Tú Gàn, Tâm Đạt, Phạm Hiền, Hoàng Nguyên Nhuận, v.v… là giả đò ngộ nhận đánh đồng cá nhân Thích Mãn Giác với tổ chức GHPGVNTN để đánh phá Phật giáo Ấn Quang như bài: Chu sa, cộng sản âm mưu biến đảng thành đạo; (đánh đồng cá nhân giáo gian Minh Châu với GHPGVNTN để đánh phá); Như bài: Tú Gàn, nhận diện sự thật lịch sử; Như bài: Tâm Đạt, nhũng lần về thăm quí Thầy 2002; Như bài: Một công dân Việt nam, quê hương của những con người biết chia sẻ; Như bài: Hoàng Nguyên Nhuận[2], Giỗ Thầy; Như bài Hoàng Nguyên Nhuận, Hạnh nguyện của một nhà sư… Cũng cần nói thêm là việc Thầy Thích Trí Thủ bỏ GHPGVNTN “bước sang thuyền khác” nhận chức vụ Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN; hay như giáo gian Trí Tịnh, giáo gian Minh Châu ca ngợi bác - Đảng, đó là việc làm cá nhân của họ.

Không thể đem việc cá nhân đánh đồng với Giáo Hội theo kiểu vu vạ của phường bồi bút mạc hạng kiểu “côn đồ văn hóa” như thế. Cũng ví như cá nhân Ông Tổng bí thư cộng sản Việt nam nhân đi Hoa Kỳ rồi phải lòng bà Mỹ nào đó, Ông bí thư được đi định cư Hoa Kỳ theo diện Hôn nhân và nhập tịch Mỹ. Vậy có phải là cả 03 triệu đảng viên cộng sản Việt nam cũng đều theo Mỹ hết hay sao? Cá nhân với tổ chức là 2 tự thể khác nhau, người có chút kiến thức pháp luật ai cũng hiểu rõ cả. Chỉ có Tú Gàn, Chu Sa là những tên “đao phủ văn chương” do “chạy gạo kiếm cơm” nên làm ra vẻ không hiểu để đánh phá GHPGVNTN.

Tú Gàn là Tú Gàn, Chu Sa là Chu Sa, Thích Siêu Phương, Thích Viên Giáo là Thích Siêu Phương, Thích Viên Giáo mà Tôn giáo vận cộng sản là Tôn giáo vận cộng sản; cho nên đừng ai đem việc Tú Gàn, Chu Sa, Thích Siêu Phương, Thích Viên Giáo đánh phá GHPGVNTN rồi nói đó là chủ trương của đảng nhé. Đánh đồng như thế là “âm mưu lật đỗ chính quyền” đấy; là “ăn phân” NET đấy Tú Gàn ơi! Lữ Giang là ai? Dạ là em. Alias Nguyễn Cần là ai? Dạ cũng em. Để hiểu biết hơn về những hạng người “đánh thuê, chạy gạo”, “múa bút kiếm cơm” “gắp lửa bỏ tay người” như Chu Sa, Tú Gàn, Tâm Đạt, Thích Siêu Phương, Thích Viên Giáo thì chỉ cần tra cứu bách khoa tự điển, mục Tôn giáo vận cộng sản là có tên ngay hè. Có ai đó đã tặng cho Tú Gàn mỹ hiệu “Côn Đồ Văn Hóa” và “Đao Phủ Văn Chương” thì thật cũng xứng với gã nầy lắm đó. Cho nên, thật không thể hồ đồ mà đánh đồng việc cá nhân với tổ chức để ác ý xuyên tạc rằng GHPGVNTN rước cộng sản vào thành; cũng không thể âu trĩ ngây ngô để đánh đồng một Cá nhân thành viên với Tổ chức Giáo Hội để nói rằng GHPGVNTN là cộng sản.


Từ những trình bày trên cho thấy, Tôn giáo, GHPGVNTN đang bị triệt hạ bởi nhà nước xã nghĩa, đây là căn nguyên pháp nạn. Nhà nước XHCN đã can thiệp sâu vào nội bộ tôn giáo, đánh phân hoá, đánh xâm nhập, đánh ly gián, đánh xoá sổ GHPGVNTN. Do đó còn XHCNVN là GHPGVNTN còn đấu tranh, không phải để giành quyền lực thế gian mà là để giành lại sống còn cho dân tộc và tôn giáo. Suốt cuộc đấu tranh giải trừ pháp nạn XHCNVN hơn 30 năm qua (1975-2008), GHPGVNTN phản kháng chính trị XHCNVN xâm thực tôn giáo rằng: Giáo hội chúng tôi chỉ đặt vấn đề tôn giáo với chính trị chứ chưa đặt vấn đề chính trị với chính trị. Nếu Nhà nước không đưa chính trị vào tôn giáo thì GHPGVNTN cũng không nhân danh tôn giáo biểu tỏ chính trị phản kháng chính quyền.


Chúng tôi không làm chính trị theo nghĩa tranh giành quyền lực thế gian mà GHPGVNTN chỉ tỏ thái độ chính trị để sống còn. Giáo Hội kêu gọi quần chúng, Phật giáo đồ hãy đòi lại những gì vốn có đã bị nhà nước cướp đoạt phi pháp và vi hiến; đòi Quyền Dân sự và Quyền Chính trị cho toàn dân theo Công ước Liên Hiệp Quốc; cùng với Vận động cho dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo Việt nam. Bao giờ còn quốc nạn với pháp nạn là GHPGVNTN còn đấu tranh. “đàn áp là nguồn gốc đấu tranh” đó là bài học mà Lênin rao giảng nhưng nhà nước XHCNVN chưa thuộc khi ứng xử với tôn giáo hơn 60 năm qua (1945-2008).


Muốn giải trừ pháp nạn thì cốt lõi là phải thay đổi cơ chế nhà nước theo hình thức đa đảng, tất cả thành phần dân tộc, Các tổ chức quần chúng đền bình đẳng trước luật pháp. Theo 3 bước: 1. Tách đảng phái ra khỏi chính quyền, 2. đưa tôn giáo ra khỏi chính quyền, 3. Trả Tôn giáo về với Tôn giáo thuần tuý. Cơ chế mà không thay đổi thì mọi hình thái cải tổ Pháp lệnh tôn giáo chỉ là hoang tưởng: là lừa đảo quốc tế nhân quyền và mị dân về tự do tôn giáo mà thôi. Trong bối cảnh chính trị độc đảng làm phân hoá xã hội cho nên tôn giáo, GHPGVNTN ít nhiều cũng lấm lem màu sắc chính trị.


Để khơi thông dòng chảy , mở lối phục hoạt Giáo hội thì những vấn nạn như loại: GHPGVNTN không là cộng sản, sự thật đã bị một vài cá nhân xuyên tạc, nay vấn nạn nầy cần được giải bày. 30-04-75, Nhóm Thích Minh Châu kéo bè cánh tôn hữu ác đảng ra ngã tư Phú Nhuận đón đám ăn cướp cộng sản vào thành đó là việc riêng tư của giáo gian Minh Châu, GHPGVNTN không dính dự gì vào việc nầy cả, đây là vấn nạn cần được giải bày. 15-05-1975, Nhóm cộng sản “nằm vùng” trong Phật Giáo Ấn Quang kết hợp với nhà nước Việt cộng, áp lực hằng trăm Tăng Ni, phật tử, quần chúng tham gia diễu hành "Mừng Chiến Thắng" do Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tổ chức trước dinh Ðộc Lập tại Sàigòn, GHPGVNTN không dính dự gì vào việc nầy cả, đây là vấn nạn cần được giải bày. 19-05-1975, Nhóm cộng sản “nằm vùng” trong Phật Giáo Ấn Quang kết hợp với nhà nước Việt cộng, tổ chức "Mừng Sinh nhật Hồ Chí Minh" mượn điểm chùa Ấn Quang làm chỗ “bày tiệc” áp lực hàng ngàn Tăng Ni, phật tử, các đoàn thể quần chúng tham dự , GHPGVNTN không dính dự gì vào việc nầy cả, đây là vấn nạn cần được giải bày.


Nhóm cộng sản nằm vùng Ấn Quang đã rước cộng sản vào thành, tổ chức mừng lễ chiến thắng, mừng lễ sinh nhật Hồ Chủ Tịt chứ GHPGVNTN, “Phật Giáo Ấn Quang không bao giờ đón rước hay tâng bốc kẻ lên án mình: “bọn Phật Giáo [Ấn Quang] phản động”.
Hơn 30 năm (1975-2007) pháp nạn XHCNVN tang thương máu lệ, GHPGVNTN: Huyền Quang, Quảng Độ không là cộng sản, bởi vì GH nầy cũng là nạn nhân cộng sản. Do đó, GHPGVNTN không là cộng sản, sự thật đã bị xuyên tạc hơn 30 năm qua, nay vấn nạn nầy đã được giải bày.

Những hệ quả như trên, có điều là từ Thầy Thích Mãn Giác qua tác phẩm “Bảo qua cổng chùa” (bản thảo, lưu hành nội bộ) đã xuyên tạc sự thật lịch sử Việt nam và Phật giáo Việt nam qua đó làm “bệ phóng” cho đứa “đánh hội ăn bẩn” như loại Chu Sa,Tú Gàn, “đánh đồng cộng sản với Phật giáo Ấn Quang rồi tung chiêu “đao phủ văn chương” ra đánh phá GHPGVNTN; cũng như nhóm Giao Điểm Trần Chung Ngọc là loại hạng “đồ tể tôn giáo” chuyên xuất chiêu: “đánh phá Nhà Thờ cầm cờ Phật giáo” gây chia rẽ Tôn giáo hòng đem lợi lạc cho nhà nước xã nghĩa theo kiểu “Ngao cò tương tranh, ngư ông đắc lợi”;


Cũng như, Thầy Thích Tâm Châu qua những loại Thư Ngõ (mà phổ biến khắp trên internet gởi Viện hóa đạo trong nước); Qua Tâm Thư Đạo Tình (15-02-2008) đã phát ngôn bừa bãi vun vãi “tên độc” vu vạ cho GHPGVNTN là “nhân danh chống cộng…”; Hay như mới đây ngày 22-11-2008 tại “bãi đáp giáo gian” Thông Kinh lại Giả danh Tổ chức “kỷ niệm Ngày hiệp kỵ (giổ chung) Tuyên Úy Phật giáo để vun túng cho cái đám Về Nguồn xã nghĩa “mượn sân chùa” “làm pháo đài bay” khủng bố Cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản ngay trên “quê hương chống cộng”. Thật là một cách “khủng bố” hương linh người đã mất, bôi bẩn danh dự Đoàn thể Tuyên úy Phật giáo. Thầy Thích Tâm Giác, nguyên Giám đốc Nha Tuyên úy GHPGVNTN có linh thiêng xin mách cho người đưa đơn kiện cái “tiệm nhang Phổ Đà” dùm cho bá tánh Santa Ana được nhờ Hồng phúc của Ngài, thật là đội ơn lắm lắm! Nay đã 89 tuổi rồi mà lại quá hàm hồ vô độ, chưa đầy 10 tháng mà hết tuyên bố “lui về an tỉnh” thì kế lại “cáo phó” mọi người là: “dần lui về an tỉnh”.



Thế hệ con em kế thừa Thầy Thích Mãn Giác (Chùa Phật Giáo Việt Nam, Los Angeles, California, Hoa Kỳ) hãy cải chính thông tin từ sách “Bảo qua cổng chùa” có nội dung xuyên tạc lịch sử để trang sử Phật – Việt khỏi phải ghi câu: “Thầy Mãn Giác: “cầm cờ chạy hiệu” mong nhà nước xã nghĩa ban cho chỗ ngồi: ghế Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh tại Việt nam và được Bác Bò phở hứa … khả; Thế mà cho đến khi Thi sĩ Huyền Không đã “về bên nước Liên bang [một nữa] Quốc doanh – [một nữa] xã nghĩa” đã tròn kỵ giổ rồi (mất 13-10- 2006) mà đít Thầy vẫn chưa được một lần chạm ghế Viện trưởng, thật là tiếc hận đáng thương hết bến vô bờ mà. (còn tiếp: phần 4) Nhà nước Việt gian cộng sản với GHPGVNTN, những vấn nạn cần được giải bày

Châu Hùng Sơn, Thailand 2008-03-01


Phần IV.
Vấn nạn Hòa thượng Thích Ðôn Hậu GHPGVNTN không là cộng sản.

Sau 30-04-75, thoát khỏi gọng kềm cộng sản, Ðại lão Hòa thượng Thích Ðôn Hậu từ miền Bắc trở về Nam thấy tình hình đàn áp nhân quyền nói chung và khủng bố Phật giáo nói riêng, đã phải thán lên trong băng cassette hồi niệm mà ngài cho ghi âm, hiện chúng tôi [môn đồ Linh Mụ] còn giữ, rằng: “Tình đoàn kết, thương yêu, kính trọng của nhân dân miền Nam chỉ được 10 ngày. Sau 10 ngày ("giải phóng"): tình đoàn kết tan rã, lòng yêu thương đổi thành ghét cay ghét đắng, sự kính trọng bây giờ người dân trở lại khinh đáo để”. Hòa thượng Thích Ðôn Hậu người làm sống lại GHPGVNTN thì Ngài không là cộng sản Hơn một nữa phần đời của Hoà thượng Thích Đôn Hậu đã gắn bó mật thiết với nhà nước, có lúc Ngài lại bị gán cho những chức vụ cao cấp trong nhà nước việt gian cộng sản như Đại biểu Quốc Hội v.v… cho nên có nhận định cho rằng Hoà thượng Thích Đôn Hậu là cộng sản, đó là những nhận định chưa chân xác.


Việc Ngài bị bắt theo cộng sản vào tết Mậu Thân 1968 rồi áp tải lên Trường Sơn, ra Bắc; Việc Ngài giữ những chức vụ trong nhà nước Hà Nội, đó chẳng qua là bị áp đặt mà thôi, Ngay chức vụ “Phó Pháp chủ GHPGVN kiêm Giám luật” cũng là do nhà nước thông qua Giáo hội quốc doanh gán ép mà chính Ngài đã có 2 bức Thư gởi Pháp chủ Thích Đức Nhuận và Ông Trí Tịnh thuộc giáo hội quốc doanh để khước từ. Cộng sản bắt cóc người theo đảng để tuyên truyền chính nghĩa cho mình, Hòa thượng Thích Đôn Hậu nói KHÔNG với XHCN.

Sau tết Mậu Thân 1968, Huế xảy ra nhiều biến cố lớn như cộng sản vào thành Huế, khi rút lui đi, họ đã gây nên những thảm nạn giết người với những mồ chôn tập thể nhiều nơi như: “Nơi đầu tiên tìm thấy các nạn nhân Cộng sản là sân trường Trung Học Gia Hội vào sáng ngày 26 tháng Hai; tổng cộng có 170 xác người đã được tìm thấy ở đây. Mấy tháng sau, người ta tìm thấy thêm 18 nơi chôn tập thể, lớn nhất là khu ở gần chùa Tăng Quang (67 thi thể), Bãi dâu (77), khu Chợ Thông (khoảng 100), khu lăng tẩm (201), Thiên Hàm (khoảng 200), Ðồng Gi (khoảng 100). Nhìn chung, khoảng 1.200 thi thể tìm thấy trong những hầm hố đào lấp vội vã” http://www.thienlybuutoa.org/Misc/TetMauThan.htm.


Nỗi tang thương ấy, ngày nay một khi nhắc đến là người dân xứ Huế còn chưa hết nỗi kinh hoàng màu tang tóc còn in vết hằn sâu trong tâm thức với nhiều người qua ngày cúng giỗ chung cho người thân cả làng, cả xóm, nó không thua gì nỗi đau ngút trời của dân Quảng Trị trên “đại lộ kinh hoàng” (1972) do đạn pháo cộng sản nã xuống đầu người dân di tản. Phật giáo Huế chung chịu biến cố Sông Hương - núi Ngự tang thương đó, cộng sản đã bắc cóc Hòa thượng Thích Đôn Hậu, Viện chủ chùa Linh Mụ đưa lên dãy Trường Sơn rồi ra Bắc; cũng từ đó, Phật Giáo Đế kinh (Huế) phải vắng bóng một vị Chánh Đại Diện GHPGVNTN miền Vạn Hạnh suốt 8 năm ròng. Hòa thượng ở Trường sơn hơn 3 tháng,

(Trích: Giáo hội Minh Hạnh tập) Đến ngày 10-06, dương lịch, Ngài lại được “lệnh mời” ra Hà Nội, lại được lên cáng khiêng đi, lặn lội trong rừng núi suốt 25 ngày mới ra đến Hà Nội. Ngày 04-07 dương lịch, Hòa thượng ra đến Hà Nội, được bố trí cho trú tại số nhà 71 đường Nguyễn Du. Tại đây, Chính phủ lại giao thêm cho Hòa thượng chức vụ Ủy viên Hội đồng Cố vấn Chánh phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Tại Hà nội, Hòa thượng bị nhà nước gán cho những chức danh cao trên để hòng lôi kéo, mua chuộc Ngài. Nhưng đó chỉ là những chức vụ “dư danh, rổng ruột”; Cũng như “trang điểm” cho Ngài như một chính khách để lợi dụng. Như sắp đặt cho Ngài tiếp chuyện với HCM hay với những nhân vật cao cấp trong nhà nước TW; cho đi các nước: tham quan thủ đô Mạc Tư Khoa (Moscow), Bắc Kinh (Trung Quốc), Mông Cổ” v.v…

Sau 75, Ngài trở về với Viện hóa đạo, tiếp tục cùng quí Hòa thượng: Thích Thiện Minh, Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thượng tọa Thích Quảng Độ lãnh đạo Giáo Hội chống đở pháp nạn cộng sản. Thế nhưng cộng sản vẫn không buông tha cho Ngài, họ ép buộc Hòa thượng ra ứng cử: Bính Thìn 1976, “Ông Trưởng ban bầu cử Quốc hội, đơn vị thành phố Huế, lên mời Hòa thượng ra ứng cử Đại biểu Quốc hội khóa VI. Hòa thượng nêu nhiều lý do để xin từ chối, nhưng cuối cùng cũng phải ra ứng cử vì “lệnh của Trung ương”.

Đắc cử đại biểu Quốc hội khóa VI, đơn vị thành phố Huế với số phiếu bầu thấp nhất 60%. Thực tế, Hòa thượng đắc cử là do lệnh từ Trung ương điện vào: “không được làm cho Ông Đôn Hậu thất cử”. Rồi đến khi ra Hà Nội có dịp tiếp kiến với Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Hòa thượng phàn nàn về vụ “đảng cử - Dân bầu” trong quốc hội khóa 6 vừa qua, Hòa thượng phát biểu: “Trên bảy mươi tuổi tôi chưa thấy có cái nền Dân chủ nào trên thế giới mà lạ lùng như vậy! Ra lệnh cho nhân dân đừng bỏ người này, đừng bỏ người kia, không có cái nền dân chủ nào lạ lùng như vậy!” Lúc ấy ông Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngồi họp một Tiểu ban bên cạnh nói chen vào: “Nầy, Đôn Hậu nầy, tôn giáo mà họ bầu như vậy là cao lắm rồi đó nghe không?”

Nghe ông Giáp nói thế, sự bất bình ở Hòa thượng nổi lên cực độ, nhưng là vị thầy tu nên Hòa thượng đã dằn được cơn phẫn nô, nếu không thì “cái ghế tôi ngồi sẽ phang ông Võ Nguyên Giáp một cái!”(Hết trích)

Sau 75 cộng sản đàn áp GHPGVNTN lan rộng khắp miền Nam với cường độ ngày càng gia tăng, nhất là sau cái chết của HT Thích Thiện Minh (17-10-1978), Ngài đã mạnh dạng nói KHÔNG với cộng sản qua việc đưa đơn từ bỏ mọi chức vụ do cộng sản áp đặt cho ngài. Hòa thượng Thích Ðôn Hậu cực lực chống đối mô hình Thống nhất Phật giáo theo hướng : « tôn giáo là cánh tay nối dài của đảng » lập trường của Ngài được biểu tỏ qua bản Kiến nghị gửi các ông Lê Duẩn, Tôn Ðức Thắng, Trường Chinh và Phạm Văn Ðồng.

Theo Ông Đỗ Trung Hiếu cho biết : "Ðảng từ chối đề án thống nhất Phật giáo của Hòa thượng Thích Ðôn Hậu và gán cho Hòa thượng có ý đồ xấu, chống Ðảng và Nhà nước Việt Nam cộng sản"(Đỗ Trung Hiếu, Thống nhất Phật giáo) Dưới vòm trời XHCN, áp lực nhà nước Việt gian cộng sản luôn đè nặng hành trang con người qua từng bước chân đi. Tuy nhiên, không vì thế mà ý chí phụng đạo của người con Phật trung kiên bị phai nhòa, Hòa thượng vẫn một lòng kiên trì theo con đường Phật giáo truyền thống: GHPGVNTN. Điều nầy đã được Ông Đỗ trung Hiếu nhắc đến: Cố Ðại lão Ngài "giữ vững lập trường này cho đến ngày viên tịch (23.4.92 ». (Thông cáo báo chí của Phòng thông tin pg Quốc tế, bản tin ngày 24-11-2003).



Sau 1975 Hòa thượng lại trở về với ngôi nhà GHPGVNTN sau 8 năm (1968-1975) “giả dạng qua ải” dưới gọng kềm sắt máu tham tàn bạo ác của chế độ chính trị hà khắc (hà chính mãnh ư thú1) của cộng sản. Việc cộng sản bắt cóc Hòa thượng Thích Đôn Hậu tham gia tổ chức mình, đây là mục đích tuyên trưyền chính nghĩa cho XHCN mà thôi. Hòa thượng Thích Đôn Hậu nói KHÔNG với XHCN. Một lần nọ, lãnh đạo Hà Nội thông qua cán bộ ban tôn giáo áp đặt sẳn bài Thông Bạch Phật Đản 1972? rồi vận động Hòa thượng Thích Đôn Hậu ký tên vào để Nhà nước “rao hàng” chính nghĩa Đạo Pháp - Dân tộc, Ngài đã từ chối và “nói Không” với XHCN (Tôn Nữ Ngự Bình, Hòa thượng Thích Đôn Hậu). 1992-04.


Y theo tinh thần Chúc Thư của Ðại lão Hòa thượng Thích Ðôn Hậu, xử lý viện Tăng Thống, đối trước linh cửu Ngài được quàng lại tại chùa Linh Mụ (Huế), Chư Tôn giáo phẩm suy cử Hòa thượng Thích Huyền Quang làm Quyền Viện trưởng Viện Hóa Ðạo để cùng với nhị vị Hòa thượng Thích Quảng Ðộ, Hòa thượng Thích Pháp Tri lãnh đạo Giáo hội, vận động phục hồi quyền sinh hoạt GHPGVNTN, và tổ chức Ðại hội VIII để bổ sung nhân sự cho hoằng pháp giáo hoá. Chính Hòa thượng Thích Ðôn Hậu, người làm sống lại GHPGVNTN vào năm 1992; bởi nếu Ngài thật sự là cộng sản thì Ngài không dành hết tâm lực vào việc phục hoạt GHPGVNTN và như thế thì GHPGVNTN nầy đã chết từ thời điểm ấy mà không còn sống đến ngày nay. Nhà nước giành quyền tổ chức Tang lễ Hoà thượng Thích Đôn Hậu Nhà nước tỉnh Thừa Thiên-Huế dành quyền tổ chức Tang lễ Hoà thượng Thích Đôn Hậu, xử lý Viện Tăng thống với thành phần gồm toàn cán bộ Ban tôn giáo, MTTQ, Ban Dân Vận, … qua đó họ dự định sẽ đưa vào chương trình tang lễ nào là ai điếu, tiểu sử, với ý đồ biến tướng tang lễ Ngài thành buổi lễ truy điệu dành cho cán bộ cộng sản.

Đây là ý đồ thâm độc nhằm đánh phá niềm tin tín đồ cũng như triệt tiêu GHPGVNTN. Hà Nội Phủ nhận Chúc thư Hoà thượng Thích Đôn Hậu, xử lý Viện Tăng thống. Hà Nội áp lực Hoà thượng Thích Nhật Liên, trưởng tử Hoà thượng Thích Đôn Hậu để buộc Ngài lên tiếng là Chúc Thư do Hòa thượng Thích Đôn Hậu để lại cho Giáo hội củng môn đồ là Chúc Thư giả để nhà nước lấy cớ đó phủ nhận Chúc Thư. Nhưng trước sự quyết tâm bảo vệ Giáo hội của môn đồ bằng sự phản kháng nhà nước XHCN mạnh mẽ cho nên âm mưu cộng sản phủ nhận Chúc Thư không thành.

Áp đặt huân chương kháng chiến Hồ Chí Minh lên linh cửu Hoà thượng Thích Đôn Hậu. Ngay khi linh cửu Hoà thượng Thích Đôn Hậu còn đang quàng lại, Tang lễ dang diễn ra thì với ý đồ nhuộm đỏ GHPGVNTN hầu đánh phá niềm tin Phật tử, nhà nước Việt gian cộng sản đã áp đặt Huân chương kháng chiến Hồ Chí Minh lên linh cửu Hoà thượng Thích Đôn Hậu, xử lý Viện Tăng thống bằng cách cho người đem huân chương HCM để trước linh cửu Ngài.Việc nầy đã bị Giáo hội phản kháng quyết liệt, tố cáo đến dư luận trong và ngoài nước, cho nên nhà nước ngưng lại ý đồ nầy. Trước đó lúc cuối đời, nhà nước cho người ngỏ ý tặng Huân chương HCM cho Ngài, nhưng Hoà thượng đã khéo từ chối. Ngài cùng với môn đồ, đệ tử với GHPGVNTN đã biểu tỏ thái độ, hành động rằng: “ta chẳng chịu phong”; Chính từ Thông Điệp “ta chẳng chịu phong” của Hoà thượng Thích Đôn Hậu, xử lý Viện Tăng thống GHPGVNTN đã phá vỡ âm mưu nhuộm đỏ GHPGVNTN của cộng sản (Giáo hội Minh Hạnh Tập).

Phản kháng của GHPGVNTN. việc nhà nước Việt gian cộng sản can thiệp sâu vào nội bộ Tôn giáo qua tang lễ Hòa thượng Thích Đôn Hậu đưa đến những đợt biến động phản kháng của Tăng ni, Phật tử, tín đồ mà đỉnh cao là “Biến cố Phật giáo Huế 1992”: thành phố Huế biểu tình phàn kháng nhà nước can thiệp thô bạo vào nội bộ Tôn giáo đàn áp GHPGVNTN; Cả thành phố Huế cùng vài tỉnh lân cận lao vào cuộc biểu tình đường phố với hơn 40 ngàn Tăng Ni, tín đồ Phật Giáo Thừa Thiên - Huế tham dự, nội dung phản kháng:

1. Chúng tôi (GHPGVNTN) đòi Nhân quyền cho người sống, phản kháng việc ngăn cấm tự do tín ngưỡng qua việc giành quyền tổ chức tang lễ Hòa thượng Thích Đôn Hậu, Chánh thư ký xử lý Viện Tăng thống GHPGVNTN.
2. Chúng tôi (GHPGVNTN) đòi Linh quyền cho người chết, phản kháng việc áp đặt Huân chương HCM lên Linh cửu Kim quan Hòa thượng Thích Đôn Hậu.
3. Áp lực lên Hòa thượng Thích Nhật Liên cùng môn đồ Pháp quyến chùa Linh Mụ để buộc môn đồ phủ nhận Chúc Thư của Hòa thượng Thích Đôn Hậu là giả.
4. Ngăn chận phái đoàn các tỉnh về dự tang lễ Hòa thượng Thích Đôn Hậu như Phái đoàn Phật giáo Huế, Quảng Trị, Nha Trang, Đà Nẵng, Saigon v.v….
5. Yêu cầuTôn giáo, GHPGVNTN phải được sinh hoạt độc lập ra ngoài sự khống chế của nhà nước Việt gian cộng sản; Chúng tôi (GHPGVNTN) có quyền nói Không (không nằm trong MTTQ) với nhà nước XHCN Biến cố Phật giáo Huế 1992 làm cho cả bộ phận tỉnh Ủy Thừa thiên - Huế kết hợp với nhiều cán bộ chuyên ngành tôn giáo TW từ Hà Nội (tốc hành bay vào Huế) cùng lao vào kế hoạch “làm hòa” với Tang lễ, xoa dịu biến độn tôn giáo bởi “đám cháy” đang lan khắp thành phố Huế và có hiện tượng “bắt lửa” sang các tỉnh thành khác.

Thói thường, “chiếc mão già Hồ” mà đám giáo gian xã nghĩa kính cẩn gọi là huân chương HCM mà ban tặng cho ai thì với bọn lao nô xả nghĩa, đó là niềm vinh hạnh trong đời mà với đám giáo gian có mơ “chín kiếp” cũng chưa thành hiện thực. Như trong hàng những người “trải thân làm giường ghế”, “đi bằng đầu gối” trọn đời thờ Bác, phụng… đảng mà công trạng đặc tình sáng giá như cở: giáo gian Trí Tịnh (Đại gia 250 triệu dollar), giáo gian Minh Châu(rước cộng sản vào thành) , giáo gian Thanh Tứ (công an trọc), giáo gian Phạm A (Thống soái trường phái “bỏ ca sa khoát chiến bào”), giáo gian Minh Nguyệt (Thủ đầu lĩnh Tân Tăng), giáo gian Thiện Hào (Phó đầu lĩnh Tân Tăng), giáo gian Pháp Lan (Sải cả đặc tình Nam bộ), giáo gian Trí Dũng (Bải đáp đặc tình), giáo gian Hiển Pháp (Cai thầu Sư quốc doanh kháng chiến Nam bộ), giáo gian Từ Hạnh (tướng cướp mặt áo thầy tu), giáo gian Quảng Liên (Giám đốc Cty hòa hợp xã nghĩa), giáo gian Thông Bửu (Huề thượng lưỡi gỗ), giáo gian Trí Quảng, giáo gian Nhất Hạnh (Giáo chủ Thiền ôm), giáo gian Thiện Châu, chùa Trúc Lâm, Pháp (lao nô xã nghĩa), giáo gian Mạn đà La, chùa Trúc Lâm, Pháp (kinh doanh tôn giáo), giáo gian Huyền Diệu, Nepal (kinh tài xã nghĩa quốc tế), giáo gian Cao Chân Không làng Mai (Phu nhân Thiền đi đường phố, khách sạn), giáo gian Sư Nữ Như Từ, Phó ban Từ thiện Xã hội thành hội thành Hồ (Tổng hậu cần “bò sửa XHCN”) chưa hết. Ở đây danh sách kê lên đến chừng ấy con người, thế mà có mấy ai lại được nhóm Việt gian“Khỉ già hang bác pó” kia ban cho ân sủn, trao cho huân chương HCM đâu?

Trong khi đó người bị áp đặt cho cái “Mão Cụ Hồ” nầy lại là người thẳng thừng từ chối “ân sủng”, đó là Hòa thượng Thích Đôn Hậu. Biến cố áp đặt huân chương HCM của nhà nước với GHPGVNTN, nó chẳng những không xóa nhòa một dòng sông GHPGVNTN khô cạn do bị đánh phá, bức hại suốt 18 năm (1975-1992) mà trái lại nhân đó GH bức phá sang dòng chảy mới, hồi sinh phục hoạt. Thật vậy, Hòa thượng Thích Đôn Hậu: “Hoa Đàm tuy rụng vẫn còn hương” Thầy đã về Tây (Kính niệm Thầy Thích Đôn Hậu) Giáo đạo ca câu Giải thoát hương Hội Đào kinh Bắc hương ngát hương Phật Thiên thành Huế Nam Hải hương Giáo khắp Chín Rồng* “phục hoạt” Hương Việt quốc mở dòng Tăng Hội hương Nam thiên đệ nhất Cao Tăng hương Thống tâm pháp nạn xú uế hương Nhất nguyện Phật - Việt Pháp vân hương Kính thưa Linh Mụ bây giờ, Đôn Hậu sống mãi bên bờ sông Hương Chú thích: *Chín Rồng (Sông Chín Rồng, Mekong, Nam Việt Nam) Chung quanh vụ 2 văn thư Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, chánh thư ký, xử lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN gởi Hòa thượng Thích Đức Nhuận, Pháp chủ GHPGVN và một gởi Hòa thượng Thích trí Tịnh, Chủ tịch Hội đồng trị sự GHPGVN để từ chối việc nhà nước thông qua GHPGVN áp đặt Ngài vào Giáo Hội [nhà nước] này.


Qua đó cho thấy con thuyền GHPGVNTN trên dòng đại dương chưa bao giờ tự đặt mình đi vào con lạch cạn GHPGVN và Hạnh giải của bậc Phật Hạnh cao Tăng Thích Đôn Hậu qua Hai văn thư, Ngài đã nói KHÔNG với nhà nước XHCN đồng thời cũng là một Thái Độ Chính Trị để tách tôn giáo ra khỏi chính quyền, tạo tiền đề cho tổ chức dân sự thành hình, tiến đến vận động toàn dân xóa bỏ điều 4 hiến pháp XHCN mở rộng Dân chủ Đa nguyên cho Việt nam (nội dung 2 Văn thư: xem ở chương 3, mục 343).


Thừa hành theo tinh thần Chúc Thư Hoà thượng Thích Đôn Hậu, xử lý Viện Tăng thống: “… không đọc ai điếu, tiểu sử, miễm nhận thành tích, huân chương”, Ban tổ chức tang lễ đã từ chối việc áp đặt huân chương kháng chiến Hồ Chí Minh lên linh cửu Hoà thượng Thích Đôn Hậu, xử lý Viện Tăng thống, qua đó Giáo Hội phá vở âm mưu cộng sản muốn biến GHPGVNTN thành Giáo Hội nhà nước. Chính thức công bố phục hoạt GHPGVNTN. Sau 17 năm (1975-1992) chìm trong biến cố pháp nạn, nay 25-04-1992, trước Linh cửu Hoà thượng Thích Đôn Hậu, xử lý Viện Tăng thống, có mặt đông đủ Chư tôn giáo phẩm, Tăng Ni, môn đồ, tín đồ cả nước, Giáo Hội chính thức công bố phục hoạt GHPGVNTN trước sự chứng kiến của nhà nước tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Nhân danh Giáo Hội, Hoà thượng Thích Nhật Liên, Trưởng tử Hoà thượng Thích Đôn Hậu, chính thức trao Ấn tín, Chúc Thư cho Hoà thượng Thích Huyền Quang để Ngài Huyền Quang lãnh đạo 2 viện, Viện Tăng thống và Viện Hoá Đạo tiếp tục phục hoạt Giáo Hội. Như vậy Thông Điệp “ta chẳng chịu phong” của Hoà thượng Thích Đôn Hậu, xử lý Viện Tăng thống GHPGVNTN phá vỡ âm mưu nhuộm đỏ GHPGVNTN của cộng sản và sự ra đi của Hoà thượng Thích Đôn Hậu, xử lý Viện Tăng thống cũng có giá trị như là làm sống lại dòng chãy GHPGVNTN. Những trình bày trên cho thấy, Sự thật lịch sử đã được vén màn, trả lại sự trong sáng cho vấn nạn nêu trên, từ nay trang sử Phật-Việt ghi nét son sáng ngời: Hòa thượng Thích Ðôn Hậu GHPGVNTN không là người cộng sản. Nhân đây cũng xin nói lời chia sẻ cùng Bà Tôn Nữ Ngự Bình đã cho đọc giả bài: “ Tôn Nữ Ngự Bình. 2008, Hòa thượng Thích Đôn Hậu” http://thongtin.brinkster.net/diendan/9sukiennhandinhhoathuongthichdonhau.htm

qua đó góp phần “vén bức màn” lịch sử Phật giáo Việt Nam cận đại làm sáng tỏ sự thật Hòa thượng Thích Đôn Hậu không là cộng sản, vấn nạn từ lâu bị xuyên tạc nay đã được giải bày. (còn tiếp 5: Vấn nạn Hòa thượng Thích Thiện Siêu “điếm đàn tôn giáo” qua mạo nhận con dấu VHĐ, mạo xưng Trưởng Phái đoàn đại biểu tham dự Đại Hội Thống nhất Phật Giáo 1981 tại chùa Quán Sứ Hà Nội). ==============================================

Thầy đã về Tây (Kính niệm Thầy Thích Đôn Hậu) Kính Tặng người con Phật ĐỨC TÂM (lo việc GH quên mình) Giáo đạo ca câu Giải thoát hương Hội Đào kinh Bắc hương ngát hương Phật Thiên thành Huế Nam Hải hương Giáo khắp Chín Rồng* “phục hoạt” Hương Việt quốc mở dòng Tăng Hội hương Nam thiên đệ nhất Cao Tăng hương Thống tâm pháp nạn xú uế hương Nhất nguyện Phật - Việt Pháp vân hương Kính thưa Linh Mụ bây giờ, Đôn Hậu sống mãi bên bờ sông Hương Chú thích: *Chín Rồng (Sông Chín Rồng, Mekong, Nam Việt Nam) Châu Hùng Sơn __._,_.___ Attachment(s) from Pham hoaiviet 1 of 1 File(s) [CHAU HUNG SON -][PHAN -4 - Nha nuoc Viet gian cong san voi GHPGVNTN, nhung van nan can duoc giai bay.].doc Reply to sender | Reply to group Nhà nước Việt gian cộng sản với GHPGVNTN, những vấn nạn cần được giải bày


Châu Hùng Sơn, Thailand 2008-03-01


PHẦN V
Vấn nạn GHPGVNTN chưa bao giờ “tự nguyện” tham gia Giáo Hội Phật giáo quốc doanh (GHPGVN) cả.


Vấn nạn GHPGVNTN chưa bao giờ “tự nguyện” tham gia Giáo Hội PG quốc doanh (GHPGVN), sự thật đã bị xuyên tạc nay cần được giải bày. Để giải bày vấn nạn trên đây, có 2 việc cần làm rõ đó là: 1. Vấn nạn Hòa Thượng Thích Thiện Siêu “điếm đàn tôn giáo” tiếm danh GHPGVNTN; 2. Hòa thượng Thích Đôn Hậu phản kháng việc nhà nước Việt gian cộng sản thông qua GHPG quốc doanh áp đặt Ngài vào Giáo hội nầy với chức vụ Phó pháp chủ kiêm Giám luật TW GH. 1. Vấn nạn Hòa Thượng Thích Thiện Siêu “điếm đàn tôn giáo” tiếm danh GHPGVNTN. GHPGVNTN chưa bao giờ uỷ nhiệm hay có văn bản chính thức nào uỷ quyền cho một ai nhân danh Viện hóa đạo (VHĐ) tham gia GHPGVN cả. Thế nhưng Hòa thượng Thích Thiện Siêu (chùa Từ Đàm, Huế) thuộc loại “điếm đàn tôn giáo” lập ra danh sách Phái đoàn GHPGVNTN (mạo nhận con dấu VHĐ, đóng dấu vào văn bản) do Thầy làm Trưởng Phái đoàn đại biểu tham dự Đại Hội Thống nhất Phật Giáo Việt nam 1981 tại chùa Quán Sứ Hà Nội. Đây là hình thức mạo nhận, mạo xưng, tiếm danh GHPGVNTN, nguyên do nào đưa đến việc “động trời” nầy của một nhà giáo dục Thượng toạ Thích Quảng Độ, Tổng thư ký (1981) VHĐ, GHPGVNTN nói lại về biến cố nầy: “1981, đến cuối năm, Đại hội Thống nhất phật giáo chính thức được mở ra tại Hà Nội.

Tôi được biết, Thượng toạ Thích thiện siêu cầm đầu một phái đoàn mười người1 nói là đại diện cho GHPGVNTN, có Văn thư đề cử đóng khuôn dấu Viện Hóa Đạo đường hoàng, tôi rất ngạc nhiên. Bởi vì Thượng toạ Thiện siêu có chức vụ gì trong Viện Hóa Đạo đâu, mà Viện Hóa Đạo cử Thượng toạ Thiện siêu làm đại biểu của Viện đi dự họp, còn khuôn dấu Viện Hóa Đạo do tôi cất giữ, khi đến văn phòng thì tôi mang đến, hết giờ làm việc thì tôi mang về, vậy khuôn dấu ở đâu ra? Lúc đầu tôi không tin, bởi lẽ tôi biết Thượng toạ Thiện siêu là bậc học thức, có đức hạnh, tôi rất kính trọng Thượng tọa và tuyệt đại đa số Tăng Ni miền Nam cũng thế, không tin Thượng tọa lại có thể làm một việc như vậy. Nhưng sau tôi mới biết rõ đó là sự thật, Thích Thiện Siêu đã làm con dấu giả Viện Hóa Đạo để đi dự đại hội Phật giáo ở chùa Quán Sứ, Hà Nội 04-01-1981. Thế mới biết danh lợi dễ làm cho con người hư hỏng là vậy” (Thích Quảng Độ, Nhân định đd) Có điều là khi Thầy Thích Trí Thủ tự mặc cảm và thấy mình lạc lõng trên đường Vận động Thống nhất Phật Giáo nhất là trong dip ra mắt Ban vận động Thống nhất Phật Giáo tại Huế (24-05-1980).

Tâm trạng nầy Thầy có bày tỏ với Đỗ Trung Hiếu (Trưởng Ban Dân vận, phụ trách tôn giáo). Ông Hiếu vốn xem Hòa thượng như Người Thầy và luôn kính trọng), nhân đó ông Hiếu “mách nước” với Thầy Thích Trí Thủ rằng: muốn nắm được trái tim Phật Giáo Huế thì trước phải nắm cho được Ôn Từ Đàm Tức Hòa thượng Thiện Siêu, (chùa Trúc Lâm, Huế). Chính vì thế cho nên khi chuyến du hành ra bắc, Hòa thượng Trí Thủ có ghé tạc vào Huế gặp Hòa thượng Thiện Siêu và cả hai cùng nhau bàn việc “đánh cướp” ngôi nhà Thống nhất Phật Giáo.

Thầy Thiện Siêu đã vì tình cảm riêng với Thầy Trí Thủ mà đồng thuận cộng tác việc Thống nhất Phật giáo. Sau đó Thầy Thiện Siêu lại thành hình một phái đoàn lấy danh nghĩa GHPGVNTN (tạo con dấu Viện hóa đạo giả) để đi dự Đại hội Thống nhất Phật giáo Việt nam 81 tại Hà Nội như đã nói trên. Trong khi đó phái đoàn giáo gian Thiện Siêu (giáo gian Thiện Siêu trưởng phái đoàn; Thích Minh Thành, Thích Trí Quảng chùa Ấn Quang là thành viên, v.v…) họ không đủ tư cách để đại diện cho GHPGVNTN, ấy thế mà nhóm giáo gian kia cũng xuênh xoanh áo mão cân đai phó hội … ra mắt cái tôn giáo định hướng “đuôi chồn” XHCN đi dự Đại hội “xóa sổ GHPGVNTN”. “Điếm đàn tôn giáo” như thế để được “ngồi ghế” Trưởng Ban giáo dục Tăng ni TW GHPGVN; sau đó lại được lên ghế Đại biểu Quốc hội nhà nước Việt cộng (Đại biểu gật) nữa, đây là một sự đổi chác để được … hư danh do thế quyền ban cho, đặt để lên cái ghế Trưởng Ban giáo dục Tăng ni chứ không do đức độ phẩm hạnh mà được.


Một việc làm vô giáo dục như thế thì lấy gì để giáo dục Tăng ni. Hay là cơ chế Phật giáo quốc doanh thì cóc cần cái nhân cách phẩm hạnh gì cả, chỉ cần … điếm đàn, gian manh, lừa đảo… là cũng có “vé” lên Ngai như thường. Miệng đời thường nói “Hồng hơn chuyên”, Tăng ni cứ nghỉ rằng đó là chuyện của thế gian; thế nhưng qua việc Thầy Thiện Siêu để cá nhân lấn áp tổ chức; tình cảm (cá nhân) với nguyên tắc (Giáo hội) nhập nhằng; mạo danh Viện hóa đạo, làm con dấu giả nhảy lên chức Trưởng phái đoàn đại biểu tham dự Đại hội Thống nhất Phật Giáo 1981 tại chùa Quán Sứ Hà Nội; Thống nhất Phật Giáo hay thực chất đó là xóa sổ GHPGVNTN.


Việc nầy Ông Đỗ Trung Hiếu, đã cảnh báo từ trước đó, ngay như việc soạn thảo Hiến chương Giáo hội Phật giáo quốc doanh do các Giáo gian Trí Tịnh, Mật Hiển, Minh Châu, Từ Hạnh diễn ra tại chùa Vạn Đức (Thủ Đức, Sài gòn). “Đỗ Trung Hiếu, Thống Nhất Phật giáo” (trang 20) cho biết: “Ôn Già Lam bàn bạc với HT Thích Trí Tịnh tiến hành soạn thảo Hiến chương GHPGVN tại chùa Vạn Đức huyện Thủ Đức. Buổi khai bút trang trọng tại thiền viện lầu 3. Hòa thượng Trí Tịnh, HT. Mật Hiển, TT. Minh Châu, TT. Từ Hạnh tắm gội tinh khiết. Toàn thiền viện xông trầm thơm nức, ngập phòng trầm hương nghi ngút, bay quyện linh thiêng. Tất cả quì trước Đức Phật nguyện cầu và khai bút.

Hòa thượng Trí Tịnh trịnh trọng viết dàn bài chi tiết bản Hiến Chương và lời nói đầu. Trong lời nói đầu hôm đó không có những câu: “Cũng như trong sự nghiệp giải phóng dân tộc ngày nay do Hồ Chủ Tịch và Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.” “Cả nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội” “Phật giáo Việt Nam là một tổ chức Phật giáo duy thất đại diện cho Phật giáo Việt Nam về mọi mặt quan hệ ở trong và ngoài nước”. “Phật giáo Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và luật pháp của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.”

Những phần này do Ban Tôn Giáo chính phủ thuyết phục các Hòa thượng thêm vào cho đúng với khẩu vị của Đảng và chính phủ cộng sản” (Hết trích) Như thế nội dung Hiến chương GHPG quốc doanh đã “bị nhuộm đỏ” đến “nguyên con” khiến ngay cả người dự phần soạn ra nó là Thầy Trí Thủ cũng phải phẩn nộ vì bị tên Giáo gian cộng sản Từ Hạnh nó lừa, tráo chữ Có ra chữ Là trong nguyên câu: “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Có thành viên trong MTTQ” (Đến khi đưa Từ Hạnh đem trình lên Ban tôn giáo, lúc đem về trình lên Thầy Trí Thủ ký thì chữ Có trong câu đã bị đổi ra chữ Là để nguyên câu [mới] thành ra là: “Giáo hội Phật giáo Việt Nam là thành viên trong MTTQ”, từ đó đưa đến hệ quả như ngày nay.

Việc nầy ai cũng biết, đầu trên xóm dưới, đầu phố cuối phường, đầu đường xóa chợ, … “đầu trộm đuôi cướp”, đầu gà đít vịt gì cũng biết cái màn lừa đảo XHCNVN thế mà chỉ có một mình Thầy Thiện Siêu là không biết răng chừ. GHPGVN thực chất là bình phong cho chiến lược nhà nước Việt gian cộng sản lừa đảo tôn giáo, lừa đảo dư luận trong và ngoài nước, chà đạp lên niền tin Phật của Phật giáo đồ.


Với điều “chư ác mạc tác” xin hãy nói sau, còn cái giáo nghĩa “chỉ trì tác phạm” (việc không đáng làm mà làm; việc đáng làm mà không làm), cương lĩnh đạo Bồ Tát như thế, Thầy Thiện Siêu đễ ở đâu mô. GHPG quốc doanh, nó không phải là một Giáo hội đúng nghĩa mà là một tổ chức chính trị ngoại vi trá hình của đảng mà ai cũng biết. Với một Tăng ni sinh ít học cũng biết. Thế chả lẽ Thầy Thiện Siêu, một bậc Thầy giáo dục của Tăng ni sinh mà không biết. Thất học như Giáo gian Phạm Thế Long, Bưng biền như Giáo gian Minh Nguyệt, Giáo gian Thiện Hào, Võ biền như Giáo gian Từ Hạnh… thì không nói, còn như Thầy Thiện Siêu sở học trong thiên hạ có “bố bồ văn chương”, phần Thầy đã chiếm hết “ba bồ văn chương” rồi thế mà “cái danh lợi nó làm hư con người” đến thế.


Đã biết đó là một Tổ chức ngoại vi của đảng lập ra để xóa sổ GHPGVNTN mà Thầy còn đồng thuận với kẻ ác, làm cái việc “đốt nhà” GHPGVNTN như vậy, biết ác mà cố phạm thì “chết không nhắm mắt” là “nhân quả đáng sợ” phải không thưa thầy Trưởng ban Giáo dục Tăng ni. Học hết Ba tạng kinh điển mà một chữ Nhân, chữ Nghĩa, chữ Trí, chữ Dũng cũng ứng xử không ra trò, gặp “uy dũng [không] bất năng khuất” mà còn hồ hởi xuôi tay đồng thuận theo kẻ cướp tôn giáo thì thử hỏi thật đáng tiếc hận dường nào. “Biết mà cố phạm” là quả báo 500 kiếp làm chồn hoang (công án Vô Môn Quan) há Thầy không để lòng kinh điển hay sao? “kinh điển chưa từng để lòng, đạo mầu do đâu tỏ được” (kinh luật vị thường thố hoài, Huyền đạo vô nhân khế ngộ), lời Cảnh sách của Tổ Qui Sơn cũng bị gió Việt cổng thổi bay ra biển mất rồi hay sao?


Từ vấn nạn “điếm đàn tôn giáo” nầy tạo tiền đề cho nhà nước Việt gian cộng sản “rao hàng” bố láo trên truyền thông trong – ngoài nước (kể cả phát ngôn Lê Dũng “lưỡi gỗ” Bộ ngoại giao XHCNVN) rằng GHPGVNTN đã “tự nguyện” xác nhập vào GHPGVN và đã giải thể. Biến cố nầy tạo nên “bệ phóng” cho nhà nước Việt gian cộng sản ra tay xóa sổ GHPGVNTN. Đó cũng là loại hình “thầy tu đồng thuận với kẻ cướp” mở cửa “kho báu nhà mình” cho bọn cướp ngày, cướp có giấy hành nghề vào cướp ngôi nhà GHPGVNTN. Trong khi sự thật thì GHPGVNTN chưa bao giờ tự nguyện gia nhập GHPGVN – Giáo hội nhà nước cả.

Việc Thầy Thiện Siêu làm con dấu giả Viện Hoá Đạo mạo nhận Phái đoàn GHPGVNTN khi dự Đại Hội Thống nhất Phật Giáo 1981 tại chùa Quán Sứ Hà Nội, cách hành xử như thế thì có còn xứng đáng là một vị Thầy nữa hay không chứ khoan nói đến là cấp hàm Huề thương, Đại Tăng hay TW Giáo dục chi mô mà phải nói là giáo gian Thiện Siêu, “điếm đàn tôn giáo”, “gian manh lừa đạo” như rứa thì rất xứng. Ngày nhắm mắt mà mắt Thầy chẳng nhắm,
Thiện Siêu than “nhân quả đáng sợ”… tránh đường mô?
Đường răng chừ đường Mác - Mao - Hồ


Bia mộ chấm bút ca câu “gian manh lừa đạo” hỉ! Nhà nước Việt gian cộng sản cũng vô cùng kính tiếc, có vòng hoa ai điếu lâm ly lai láng …hạ: Hòa thượng Thiện Siêu: Đại biểu Quốc Hội, Phó chủ tịch Thường Trực TWGH Nhà Nước đã đóng góp “nguyên con” cuộc đời sự nghiệp cho việc xóa sổ GHPGVNTN”. Nay kính ghi vào danh mục Giáo gian phá đạo hại đời, truyền dựng bia ghi công trạng khắp “đầu đường xó chợ”. Khâm thử 2. Qua Văn thư Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, chánh thư ký, kiêm xử lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN gởi Hòa thượng Thích Đức Nhuận, Pháp chủ từ chối việc chính quyền thông qua GHPGVN áp đặt Ngài vào chức Phó pháp chủ kiêm Giám luật Giáo Hội [nhà nước] này.
____

TÀI LIỆU

THƯ GỞI HÒA THƯỢNG ÐỨC NHUẬN (1897-1993)
Pháp chủ Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Phật lịch 2525

Bệnh viện Thống nhất, ngày 08.02.1982

Kính gởi:
Hòa Thượng THÍCH ĐỨC NHUẬN, Pháp chủ Giáo hội Phật Giáo Việt Nam.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính bạch Hòa Thượng,

Vào những ngày cuối cùng của năm Tân Dậu, vì bệnh tình bức bách, nên ngày 21. 01.1982, tôi đành phải rời Huế, vào thành phố Hồ Chí Minh để chữa bệnh, giữa lúc mọi người đang hoan lạc đón xuân sang, và cho đến hiện nay tôi vẫn đang còn được điều trị tại bệnh viện Thống nhất, thành phố Hồ Chí Minh.

Trong thời gian ấy, ngày 07- 02-1982, tôi lại nhận được lá thư của Hòa thượng gởi cho tôi với danh nghĩa Phó Pháp chủ kiêm Giám Luật Giáo hội Phật Giáo Việt Nam. Nội dung bức thư ấy, Hòa thượng báo tin cho tôi biết là Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật Giáo Việt đã thành tựu viên mãn, cũng như Hội đồng Bộ trưởng đã ra quyết định công nhận Bản Hiến chương, danh sách Ban Lãnh đạo và cho phép Giáo hội Phật Giáo Việt Nam hoạt động. Đồng thời Hòa thượng đã có lời khuyên tôi cố gắng cộng tác với Giáo hội trong chức vụ nói trên.

Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn lòng thạnh tình của Hòa thượng đối với tôi, đồng thời, tôi rất lấy làm vinh dự và tri ân quý Hòa thượng đã dành cho tôi một chức vụ quan trọng như thế. Nhưng, thưa Hòa thượng, như Hòa thượng đã biết, vào đầu mùa xuân năm 1980, cũng chính là lúc tôi đang nằm điều trị ở bệnh viện Thống nhất này, thì hay tin Ban vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam được thành lập, trong đó tôi được có tên với danh nghĩa Cố vấn. Thế nhưng bệnh duyên chướng ngại, nên tôi đã không tham gia được một Phật sự nào đáng kể, ngay cả cuộc Hội nghị Đại biểu vừa qua tôi cũng phải vắng mặt. Cho nên, tôi xét thấy mình tuổi đã già, sức đã yếu lại bệnh hoạn liên miên và mỗi ngày càng thêm trầm trọng. Do đó, tôi viết thư này để kính báo với Hòa thượng để Hòa thượng rõ là tôi không thể đảm nhận được chức vụ quan trọng "Phó Pháp chủ kiêm Giám Luật" Giáo hội Phật Giáo Việt Nam mà hội nghị đã đề cử.

Tuy vậy, riêng cá nhân, tôi vẫn luôn luôn tâm nguyện sẽ tiếp tục đem tất cả sức tàn ra phụng sự chánh pháp trong khả năng còn lại của mình và trong điều kiện sức khỏe cho phép.

Rất mong Hòa thượng thông cảm và nhận nơi đây lòng chân thành của tôi. Kính chúc Hòa thượng phước trí nhị nghiêm, chúng sanh dị độ.

Kính thư
Tỳ kheo ĐÔN HẬU
(ấn ký)

Qua Văn thư Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, chánh thư ký, xử lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN gởi Hòa thượng Thích trí Tịnh, Chủ tịch Hội đồng trị sự GHPGVN để từ chối việc chính quyền thông qua GHPGVN áp đặt Ngài vào chức Phó pháp chủ kiêm Giám luật Giáo Hội [nhà nước] này.


Thư Hòa thượng Thích Đôn Hậu gời Hòa thượng Thích trí Thủ

Phật lịch 2525
Linh Mụ, ngày 24 tháng 11 năm1981. Kính gởi: - Hòa Thượng THÍCH TRÍ THỦ
Trưởng ban vận động Thống nhất Phật Giáo Việt nam.
Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Đại hội Đại biểu Thống nhất Phật Giáo Việt Nam.
(tổ chức tại Hà Nội từ ngày 4 đến 7. 11. 1981) Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật Thưa Hòa thượng, Như Hòa thượng đã biết, từ mùa xuân năm 1980, khi Ban vận động Thống nhất Phật Giáo Việt Nam ra đời, tuy quí vị có ghi tên tôi vào Ban vận động, với danh nghĩa Cố vấn, nhưng tôi đã không có sự cộng tác gì với Ban vận động cả, kể cả cuộc Đại hội Thống nhất Phật Giáo Việt Nam vừa qua tôi đã vắng mặt. Thế nhưng, qua báo chí và các văn kiện Đại hội phổ biến, lại thấy có tên tôi trong Ban Thường trực Hội đồng chứng minh với chức vụ Phó Pháp chủ kiêm Giám Luật. Tôi xin chân thành cảm ơn Hòa thượng và Đại hội đã dành cho tôi vinh dự đó. Tuy nhiên vì lý do sức khỏe nên tôi không thể đảm nhận thêm chức vụ này được nữa, trong khi tôi vẫn còn một trách nhiệm lớn đối với Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất trong cương vị Chánh Thư ký kiêm Xử lý Viện Tăng Thống. Do đó, nay tôi viết thư này kính tin Hòa thượng rõ, và nhờ Hòa thượng hoan hỷ chuyển đạt tinh thần bức thư này đến quý vị trong Đoàn Chủ tịch cuộc Đại hội vừa qua. Kính chúc Hòa thượng pháp thể khinh an, chúng sanh di độ. Và mong Hòa thượng nhận nơi đây lòng chân thành của chúng tôi. Nay thư,
Tỳ kheo THÍCH ĐÔN HẬU
(ấn ký)



Hai Văn Thư trên đây đã vạch trần sự lừa đảo, dối trá chẳng những là của một cá nhân, một tổ chức tôn giáo vận nhà nước mà còn hơn thế nữa, đây chính là Hội chứng “gian manh tôn giáo” của nhà nước Viêt gian cộng. Nó cũng cho thấy dòng chảy đại dương GHPGVNTN chưa bao giờ tự đặt mình đi vào “con lạch cạn” (theo cơ chế hiệp hội) Phật Giáo Việt Nam cả. Nó cũng thương xót cho thân phận những “chiếc bè mong manh” (PGVN) đang lao vào con lạch can mà cứ vênh vang là mình đang đi trên đại dương bao la: “Đau xót biết bao khi Phật Giáo Việt Nam từ con lạch nhỏ đã vùng thoát ra được đại dương thì nay quý Hòa thượng lại tự bước vào một vũng ao tù….


Từ Thương Xót các Tăng, Ni và Phật tử trong cơn tán loạn mà quý Hòa thượng đã nhận chịu mọi lời lên án nặng nề để làm công việc chẳng ai muốn làm đó. Nếu đúng là như vậy thì đã đến lúc quý Hòa thượng nên thực hành pháp để quay về rồi. Quý Hoà thượng có thể an tâm buông bỏ mà chẳng lo Phật giáo bị xóa tên trên quê hương của chúng ta. Vì hiện nay tinh thần của Phật tử đã bình ổn, Giáo Hội đã phục hồi sinh lực, tại khắp nơi trên thế giới, những người Việt Nam theo Phật đang cùng với tín hữu của các tôn giáo khác và toàn thể loài người đang hướng về Việt Nam để vận động cho công cuộc Tự do Tôn giáo tại Việt Nam. Đấy là ý lực của thời đại và cũng là bước phải tới của lịch sử. (Thư HT Thích Đức Nhuận, nguyên Cố Vấn Viện Hoá Đạo GHPGVNTN gởi HT Thích Trí Tịnh, Chủ Tịch GHPG Nhà Nước, nhân mùa Phật Đản 2537)


Xem đây để biết, áp đặt luôn là “mặc hàng đa năng” nó được Việt gian cộng sản luôn vận dụng trong âm mưu đánh phá tôn giáo, GHPGVNTN. Một khi 3 sự kiện (Hai văn thư và một danh sách phái đoàn mạo danh VHĐ tham dự Đại hội Thống nhất Phật Giáo 81) được vạch trần như đã dẫn trên, từ đó cho thấy hơn 30 năm qua (1975-2008) GHPGVNTN vẫn sinh hoạt độc lập mà không tự xác nhập vào Giáo Hội quốc doanh như điều nhà nước Việt cộng tuyên truyền xấc láo theo kiểu “đánh lận con đen” trong âm mưu triệt hạ GHPGVNTN. Bố láo XHCNVN đã trở thành mãn tính, từ phường xã đến chop bu Bắc bộ phủ, đến phát ngôn ngoại giao cũng bố láo Hãy nghe Vẹm cái Phan thúy Thanh, phát ngôn nhân bô ngoại giao nước CHXHCNVN phản bác lại quan niệm Nhận quyền, Tự do tôn giáo của Tổ chức Human Rights Watch, Vẹm Ninh phát biểu: “Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng, dĩ nhiên trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh là hàng xóm đừng có gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của của gia đình chúng tôi”.

Thật quả là “chuyện dạy con trong nhà” hết sức rừng rú, mô hình “ăn lông ở lỗ”, cái cảnh hang động, bầy đàn thời tiền sử con di chứng lại. Mần răng mà bố láo “hết thuốc chữa” đến rứa.

Vấn nạn
“Nhân gian gọi Bụt bằng anh”, cộng sản vào thành, chỉ mặt Phật gọi: “thằng kia”.


Sau ngày Việt gian cộng sản vào thành, “vào vơ vét về”, hội chứng hoang dã của bọn cộng sản với tôn giáo đã diễn ra trên cả nước qua cách ứng xử võ biền của hầu hết cán bộ Việt gian cộng sản. Điển hình là một cán bộ nhà nước nọ, vào chùa đến cửa Phật, tay chỉ vào Phật tượng hống hách hỏi Thầy trú trì chủ chùa: “thằng kia [tượng Phật trên bàn] là ai?! (Thích Thiện Minh, Hồi ký 26 năm lưu đày) Trong xã hội nhân văn, văn hóa dân tộc Rồng Tiên, trong giao tế xã hội con người thường lấy tương thân, tướng ái, tương trợ, tương kính theo tinh thần câu ca dao “Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy răng khác giống nhưng chung một giàn” để ứng xứ qua lại với nhau. Đó là câu ca dao nằm lòng với từ trẻ 7 tuổi cho đến già 70 đều sống, ứng xử tinh thần “đồng bào” qua bao thế hệ và đã trở thành nét văn hóa của dân Việt xưa nay.


Nói khác hơn, Thân và Kính là hai yếu tố được ca ngợi trong giao tiếp. Tuy nhiên có lúc vì quá thân mà yếu tố kính bị nhòa đi. Tuy nhòa mà không mất vì Thân với Kính được quyện lẫn vào nhau. Ca dao Việt Nam có câu “Gần chùa gọi Bụt bằng anh” cũng là hàm ý Thân-Kính cùng có đủ (thân - kính cụ túc) qua giao tiếp trong cuộc sống xã hội. Cho nên dù dân gian có gọi Bụt bằng anh đi chăng nữa thì qua đó cũng cho thấy sự gần gũi, bình dị, mộc mạc trong cuộc sống đời thường mà gam màu Thân-Kính không hề vơi đi trong chân dung toàn cảnh văn hóa Phật-Việt. Trái lại, Sau ngày quốc hận 30 tháng 04-1975 cộng sản vào thành, cao ngạo màu cờ chiến thắng trong tay, chúng xử sự nhiều điều kém nhã, thất học, bưng biền với dân chúng nhất là biểu tỏ sự xúc phạm thô bạo đến tín ngưỡng, tôn giáo, đến tu sĩ các tôn giáo nữa. Những hiện tượng như thế lan tràn phổ biến khắp nông thôn, thành thị không thể nào kể hết. Nào là: “Thằng Trời nép sang một bên, để cho thủy lợi đứng lên thay Trời”.


Nhiều nơi thi đua nhau làm lễ Thắng Thiên (thắng ông Trời) sau mùa vụ Thu – Đông. Một điển hình rõ nét hơn nữa là về Vụ án “26 năm lưu đày” của Thượng tọa Thích Thiện Minh. Có lần, Ông Phạm Minh Chánh, biệt danh là Ba Lát Gừng, trưởng ban chấp pháp vừa là một thành viên của Ban chỉ huy ty công an tỉnh Minh Hải khi hỏi cung Thầy Thích Thiện Minh, ông Chánh nỗi máu du côn thất học hỏi Thầy: “Này chú Thiện Minh ! Tôi hỏi chú cách mạng từ trước đến giờ có đào mồ cuốc mả cha chú không? Cách mạng có hãm hiếp mẹ, chị gái, em gái của chú không? Mà chú tham gia vào tổ chức phản động để chống lại cách mạng vậy chú?” 2

Rứa, lạ chưa. Chả lẽ những nhà yêu nước chống giặc ngoại xâm phải đợi kẻ địch “đào mồ cuốc mả cha chú không? Cách mạng có hãm hiếp mẹ, chị gái, em gái của họ thì họ mới làm cách mạng ư? (Hồi ký Thích Thiện Minh, đd) Qua đó cho thấy tính côn đồ, vô học của bọn Việt gian cộng sản là đến độ nào. Phàm một cá nhân nếu vô học thì cũng còn nhân cách biểu hiện trong ứng xử tình người, trong giao tiếp xã hội. Đàng nầy với bọn Việt gian cộng sản đã thất học lại còn mất nhân cách như cái tên Việt gian cộng sản “Ba Lát Gừng” như trên. Chả lẽ XHCNVN không có trường lớp giáo huấn nhân cách tình người chăng? Xin thưa là có trường lớp đàng hoàng nhưng không phải để dạy điều tương thân tương ái mà chỉ có dạy “kích động hận thù, đấu tranh giai cấp, đấu tố, phân hóa (5 thành phần dân tộc: Trí, Phú, Địa, Hào, Tôn giáo lưu manh) và đỉnh cao “hoang dã khỉ vượn” là giết sạch, xóa - diệt những gì khác với màu cờ “Búa đập đầu; Liềm cắt cổ” của XHCN.

Với loại người mang bản chất Mác – Lê – Hồ, bản năng hoang dã của loài khỉ - vượn như thế, chúng nó chỉ biết “chăm chút bộ lông mình mà chẳng màng đến đồng loại” (Karl Marx). Loại nầy, nó chưa hòa nhập thật sự trong cộng đồng người trên hành tinh nầy. Hiện tượng vô văn hóa của đám Việt gian cộng sản sau 30-04-75 trải khắp diện rộng trong xã hội và nền văn minh Việt nam đã bị đè bẹp bởi chế độ man rợ nực mùi thú tính. Vấn nạn: “nhân gian gọi Bụt bằng anh”, cộng sản vào thành [chỉ mặt Phật] gọi Phật: thằng kia, đó có phải là đỉnh cao chế độ bưng biền hay chăng?


Nhà văn Dương Thu Hương đã có lần nói ““Tôi khóc ngày 30 tháng Tư năm 75 vì thấy nền văn minh đã thua chế độ man rợ". Vấn nạn nhà nước Việt gian cộng sản với dân tộc và tôn giáo, GHPGVNTN như loại hình trên đây cần được giải bày. 2000 năm Phật Giáo Vịêt Nam, XHCNVN là chế độ đầu tiên xử tử hình Tăng Sĩ Phật Giáo. Trang sử pháp nạn XHCNVN ghi dấu tang thương máu lệ vô bờ bến; cộng sản là chế độ đầu tiên trong lịch sử 2000 năm Phật Giáo Vịêt Nam ra bản án tử hình Tăng Sỉ Phật giáo. 1978, Ðại đức Thích Viên Thông, thế danh Nguyễn Ngọc Thanh, sinh năm 1949, chùa Phổ Tịnh, An nhơn, tỉnh Bình định, Ðại đức bị xử tử hình tại tỉnh Gia Lai vì đòi hỏi tự do tôn giáo, nhân quyền và dân chủ Việt nam, đây là vết nhơ trong lịch sử Việt gian XHCN. Sau hơn 30 năm (1975-2008) pháp nạn XHCNVN, danh sách Thánh tử đạo GHPGVNTN đã lên đến hơn 22 vị. Đại lễ kỷ niệm 30 năm GHPGVNTN vận động cho tự do tôn giáo, nhân quyền và dân chủ tại chùa Diệu Pháp ở miền Nam California

(http://www.ahvinhnghiem.org/kyniem30nam.html) đã cho thấy, đó là một điều hết sức xĩ nhục của Việt gian cộng sản với thế giới. Ấy vậy mà nhóm giáo gian XHCNVN lại vỡ giong “kẻ cướp ra vẻ từ bi”, khi bọn nầy nói rằng đàn áp GHPGVNTN mà chưa chết tiệt, để bọn nó còn sống gượng được, đó là chánh sách “độ lượng khoan hồng” của đảng ta. Thực ra thì cộng sản họ chưa bao giờ buông tha triệt hạ, đàn áp tôn giáo. Sự “nới lõng của chúng, đó là chiến lược “một lùi ba tiến”, là bị áp lực quốc tế đè lên nồi gạo của họ mà thôi. Chứ một khi “rảnh việc nước là cộng sản tính sổ việc nhà” với dân tộc và tôn giáo ngay; rảnh việc biên giới là chúng lại quay sang “tính sổ” với tôn giáo mà không khoan nhượng hay nhẹ tay gì cả. Vào những năm 1978 -80, XHCNVN lên kế hoạch xóa sổ tôn giáo.


Thế nhưng do 2 lần chiến tranh biên giới Tây Nam (1978) và chiến tranh biên giới Việt – Trung nên bọn công sản đã “độ lượng khoan hồng” hạ con dao đồ tể với Dân tộc và tôn giáo, đó là một điển hình. Thế nhưng cơ trời không cho bọn vô thần cộng sản đi mãi trên sa mạc hoang tưởng, trên cõi “thiên đường mù” XHCN; do vậy mà tôn giáo còn gượng sống đến ngày nay. Nhìn lại, Nhà nước Việt gian cộng sản với tôn giáo, GHPGVNTN có 6 vấn nạn điển hình nêu trên:
1. GHPGVNTN không là cộng sản, sự thật đã bị xuyên tạc, vấn nạn nầy cần được giải bày;
2. Vấn nạn Hòa thượng Thích Ðôn Hậu GHPGVNTN không là người cộng sản, sự thật đã bị xuyên tạc, vấn nạn nầy cần được giải bày;

3. Vấn nạn Thầy Thích thiện Siêu “gian manh lừa đạo đồng thuận với nhà nước xóa sổ GHPGVNTN, vấn nạn nầy cần được giải bày;
4. Vấn nạn GHPGVNTN chưa bao giờ tự nguyện tham gia Giáo hội quốc doanh xã hội chủ nghĩa (GHPGVN), sự thật đã bị xuyên tạc, vấn nạn nầy cần được giải bày;
5. Vấn nạn “nhân gian gọi Bụt bằng anh”, cộng sản vào thành, gọi Phật: “thằng kia”, vấn nạn nầy cần được giải bày; 6. 2000 năm Phật Giáo Việt nam, cộng sản là chế độ đầu tiên xử tử hình Tăng sĩ Phật giáo, vấn nạn nầy cần được giải bày. Nhà nước Việt gian cộng sản với tôn giáo, GHPGVNTN những vấn nạn cần được giải bày thì mới có thể mở ra con đường “chúc sinh dân tộc” đưa đất nước vượt qua đói nghèo tụt hậu; tạo thế đoàn kết toàn dân vạch định hướng đi vượt qua đại họa “mở rộng Biển Đông” của Trung Quốc hiện nay.


Những vụ án tham nhũng như PMu18, vụ án Công ty PCI của Nhật Bản hiện nay đã là “cú sốc” mạnh đối với người dân “xứ Hoa Anh Đào” và “áp lực lá phiếu” của họ sẽ có thể làm “đóng băng” những công trình nầy. Mặt khác Hoa kỳ sẽ rút quân khỏi Irac vào năm 2011 do đó “hồ sơ” chiến tranh Hoa Kỳ - Trung Đông sẽ được “xếp lại” và chiến lược toàn cầu hiện nay đang xoay về Đông Nam Á. Trước sự bành trướng của Đại Hán Bắc triều thì thử hỏi với “vốn liếng” quân sự, quốc phòng XHCNVN như hiện nay thì có thể đối đầu lại “nanh vuốt con Rồng đen” Châu Á: Trung Quốc hay chăng? Không tạo được thế đoàn kết dân tộc trong chống họa ngoại xâm, vượt qua khủng hoảng kinh tế XHCNVN như hiện nay thì cái “ngai vàng” của đảng cũng chưa chắc giữ được huống là XHCNVN nói đến thăng hoa cùng những con rồng Châu Á (các nước ASEM).


Thực tế cho thấy, sau 20 năm (1988-2008) gọi là “đổi mới” thì ngày nay so với các nước trong khu vực ASEM, XHCNVN chỉ là “con rồng … đất (con trùng) chui rút chưa lên khỏi mặt đất. Cơ hội tốt trong đời không đến 2 lần; nhà lãnh đạo XHCNVN hiện nay hãy chủ động trước bảo lũ biến động kinh tế toàn cầu, biến động quân sự Biển Đông ngày nay để chọn cho mình một cách “hạ cánh an toàn” trong cộng đồng dân tộc. Không chủ động đối sách trước bảo lũ chính trị Dân chủ hóa toàn cầu hiện nay là … tự sát đấy người anh em XHCN ạ! Nhanh lên! Cố lên! Cố lên đi hè… (HẾT)

____
[1] Thích Huyền Quang, Bản tự thuật, Về các pháp nạn của Phật-giáo Việt-Nam từ năm 1945-1998 [2] Xem thêm Danh mục Hoàng Nguyên Nhuận

*