Friday, August 31, 2012

SƠN TRUNG * TUYÊN NGÔN CỘNG SẢN

ñ†c låi
‘Tuyên ngôn cûa Çäng C¶ng sän’
( COMMUNIST MANIFESTO )
SÖn Trung
Trܧc 1975, tôi không phäi là Çäng viên Ç‹ Çu®c ban phát tài liŒu và h†c tÆp vŠ Tuyên Ngôn cûa ñäng. Tôi là m¶t ngÜ©i di cÜ cho nên Çã hi‹u thÃu c¶ng sän, ch£ng cÀn phäi th¡c m¡c mÃy cái cûa n® Çó. Dù tôi muÓn cÛng ch£ng th‹ džc vì quÓc gia cÃm tàng tr» các tài liŒu này. Sau 1975, tôi mŒt mÕi vì suÓt mÃy tháng phäi nghe nh»ng tên cán ngÓ nói dài, nói dai, nói d«m. M¶t bu°i Çi phÓ thÃy có tài liŒu này bèn mua vŠ li‰c m¡t sÖ qua rÒi bÕ xó. Nay qua Çây, nh»ng lúc ränh rang dò tìm trên Internet, thÃy có Tuyên Ngôn cûa ñäng C¶ng sän b¢ng Anh Ng», bèn džc låi. Tôi xin trình bày cäm nghï cûa tôi v§i các bån džc.
Bän tuyên ngôn này là công trình cûa Karl Marx và F. Engels soån thäo næm 1848. Tuyên ngôn có 4 phÀn:
- TÜ bän và vô sän
- Vô sän và Çäng c¶ng sän
- Væn h†c c¶ng sän
- C¶ng sän và các Çäng phái ÇÓi lÆp.
I. TÜ bän và vô sän.
ñ‹ xúi vô sän Çánh tÜ bän, ngÜ©i nghèo Çánh ngÜ©i giàu, và khuy‰n khích dân chúng n°i loån, Marx nói r¢ng lÎch sº nhân loåi là lÎch sº Çãu tranh giai cÃp mà hai giai cÃp mâu thuÅn nhau là giai cÃp thÓng trÎ và giai cÃp bÎ trÎ (The history of all hitherto existing society is the history of class struggles ) . Marx ÇÖn giän quá Çáng cho nên quá sÖ sài và thi‰u sót. LÎch sº nhân loåi rÃt Ça dång. Nó là lÎch sº cûa s¿ ti‰n hóa cûa con ngÜ©i. LÎch sº trong Ça sÓ trÜ©ng h®p là lÎch sº Çãu tranh gi»a các dân t¶c, gi»a các th‰ l¿c, gi»a các vua chúa và tܧng lãnh. Nó không ÇÖn thuÀn là lÎch sº Çãu tranh giai cÃp nhÜ Marx nghï. Và trong xã hôi, có Çãu tranh thì cÛng có hòa h®p, chÙ không phäi là chÌ có Çãu tranh. CÛng nhÜ trái ÇÃt có sáng, có tÓi, Marx chÌ nói r¢ng ÇÎa cÀu m¶t màu Çen, hoàn toàn tÓi tæm, là m¶t nhÆn ÇÎnh vô càng sai lÀm và thi‰u sót.
Ông nói r¢ng tÜ bän Çã làm nên cu¶c cách mång kÏ nghŒ(The bourgeoisie, historically, has played a most revolutionary part). TÜ bän Çã xây d¿ng khoa h†c kÏ thuÆt, lÆp nên kÏ nghŒ, hãng xܪng,sän xuÃt hàng hóa, tÜ bän Çã mª r¶ng thÎ trÜ©ng kh¡p th‰ gi§i. TÜ bän Çã trª thành lj quÓc xâm lÜ®c MÏ châu và châu Phi, châu Á. Marx nói Çúng, dÅu sao, tÜ bän Çã Çem låi phÒn vinh cho th‰ gi§i, tåo nên khoa h†c, kÏ thuÆt ti‰n b¶, Çem låi tiŒn l®i cho loài ngÜ©i. Marx rÃt Çúng khi vi‰t giai cÃp tÜ sän trong quá trình thÓng trÎ chÜa ÇÀy træm næm Çã tåo ra nh»ng l¿c lÜ®ng sän xuÃtnhiŠu hÖn và ÇÒ s¶ hÖn l¿c lÜ®ng sän xuÃt cûa tÃt cä th‰ hŒ trܧc g¶p låi(The bourgeoisie, during its rule of scarce one hundred years, has created more massive and more colossal productive forces than have all preceding generations together). Còn non træm næm thÓng trÎ, c¶ng sän thì chÌ gây chi‰n tranh, Çem låi nghèo Çói. NÖi nào theo c¶ng sän lâu næm thì kinh t‰ càng løn båi, thi‰u hàng tiêu dùng khi‰n cho dân chúng phäi buôn bán ch® Çen, x‰p hàng cä ngày Ç‹ mua, gåo thÎt, nu§c m¡m. NhÜ vÆy là tÜ bän hÖn c¶ng sän. N‰u tÜ bän sinh ra th¿c dân, lj quÓc thì c¶ng sän cÛng th‰ thôi. Nga Xô chi‰m ñông Âu, chi‰m ÇÃt Trung quÓc, Trung quÓc chi‰m Tây Tång, ViŒt nam chi‰m Miên Lào. TÃt cä chÌ là m¶t tuÒng th¿c dân xâm lÜ®c.
Thi‰t nghï nay tÜ bän Çã thay Ç°i nhiŠu. Chính quyŠn tÜ bän ª th‰ k› XX Çã ti‰n t§i viŒc Ç¥t ra mÙc lÜÖng tÓi thi‹u, luÆt lao Ƕng, quÏ an sinh xã h¶i, bäo Çäm quyŠn l®i cho dân lao Ƕng, trong khi tåi các nu§c c¶ng sän, ngÜ©i dân lao Ƕng bÎ bóc l¶t n¥ng nŠ hÖn, h† phäi làm viŒc quÀn quÆt suÓt ngày, suÓt tháng v§i ÇÒng lÜÖng ch‰t Çói, m‡i tháng trung bình 20 hay 30 Çô la, chÌ Çû sÓng trong m¶t tuÀn hay mÜ©i ngày. Marx tÓ cáo tÜ bän bóc l¶t nhân công, thì công nhân trong các nܧc c¶ng sän låi càng bÎ bóc l¶t hÖn. ñÒng š v§i Marx r¢ng ngÜ©i th® trong ch‰ Ƕ tÜ bän bÎ bóc l¶t nhÜng còn Çu®c trä tiŠn nhÜ Marx nói, dù là trä tiŠn ngay m¶t cách lånh lùng(naked self-interest, than callous "cash payment’), còn c¶ng sän thì coi nhÜ bóc l¶t, coi nhÜ không trä tiŠn vì chúng trä lÜÖng quá ít, låi b¡t làm thêm (Làm ngày không Çû, tranh thû làm Çêm, làm thêm ngày nghÌ) Ç‹ k› niŒm sinh nhÆt bác, Ç‹ chào mØng chi‰n th¡ng ñiŒn Biên, chi‰n th¡ng ƒp B¡c! Nói tóm låi, tÜ bän và c¶ng sän ÇŠu bÃt nhân, nhÜng m¶t bên còn cho th® æn no Ç‹ làm viŒc cho nó, còn m¶t nên bóc l¶t ljn ch‰t, b¡t nhÎn Çói, nhÎn khát mà còn Çánh ÇÆp, hành hå. Lë dï nhiên, tÜ bän khá hÖn c¶ng sän!
Marx sai lÀm khi so sánh quân chû, tÜ bän và c¶ng sän. TÜ bän thay th‰ phong ki‰n và Çåt ÇÜ®c nhiŠu thành công vŠ khoa h†c, kÏ thuÆt, kinh t‰, giao thông.. . nhÜng không th‹ vì th‰ mà nói r¢ng c¶ng sän thay tÜ bän và cÛng thành công nhÜ th‰. ñó chÌ là nh»ng giÃc mÖ ban ngày, nh»ng ÇiŠu võ Çoán, m¶t lÓi tuyên truyŠn huyênh hoang, khoác lác mà nay th¿c t‰ Çã chÙng minh r¢ng c¶ng sän là xÃu xa, tÒi tŒ, chÌ Çem nhân l†ai trª vŠ th©i Çåi ÇÒ Çá, v§i nh»ng ngÜ©i thú dã man, tàn båo!
Marx lš luÆn r¢ng tÜ bän th¡ng phong ki‰n, cho nên c¶ng sän cÛng së th¡ng tÜ bän vì xã h¶i và vÛ trø bao gi© cÛng Çi theo ÇÜ©ng th£ng, cái m§i phû ÇÎnh cái cÛ, cái m§i nhÃt ÇÎnh th¡ng cái cÛ. Ông nói giai cÃp tÜ bän sinh ra giai cÃp vô sän là kÈ Çào mÒ chôn mình, và phe vô sän së thành công còn phe tÜ bän së thÃt båi là ÇiŠu không tránh ÇÜ®c(What the bourgeoisie, therefore, produces, above all, is its own grave-diggers. Its fall and the victory of the proletariat are equally inevitable).
Trong th¿c t‰, khí hÆu có lúc tæng lúc giäm, xuân Çi thu låi, kinh t‰ có lúc suy lúc thÎnh, Ç©i ngÜ©i có lúc vinh lúc nhøc, nho gia g†i là thÎnh suy bï thái, làm sao mà Çi lên mãi h«i ông Marx? Giä nhÜ ông nói là Çúng, theo duy vÆt sº quan, m†i s¿ bi‰n chuy‹n, phong ki‰n suy tàn thì tÜ bän lên, tÜ bän suy tàn thì c¶ng sän lên, vÆy c¶ng sän suy tàn thì ch‰ Ƕ nào thay th‰? Ông bäo tÜ bän dÅy ch‰t nhÜng nay nó låi bành trܧng qua Nga, qua Trung quÓc, trong khi Liên Xô và ñông Âu tan tành và c¶ng sän các nܧc Trung quÓc, ViŒt Nam, B¡c Hàn ve vän giao thÜÖng v§i MÏ! Ôi hå tÀng xây b¢ng dô la và kinht‰ tÜ bän thì thÜ®ng tÀng ki‰n trúc có còn là c¶ng sän n»a không khi Marx Çã nói hå tÀng cÖ sª( kinh t‰ ) quy‰t ÇÎnh thÜ®ng tÀng ki‰n trúc?
II. Vô sän và Çäng c¶ng sän
Marx cho r¢ng giai cÃp vô sän phäi do Çäng c¶ng sän lãnh Çåo toàn b¶. ñäng c¶ng sän Ç¥t ra Çu©ng lÓi rÃt là kh¡t khe, nghiêm ng¥t, cÜÖng quy‰t tiêu diŒt giai câp tÜ bän.
ñi‹m quan tr†ng nhÃt hûy bÕ tÜ h»u ( the theory of the Communists may he summed up in the single sentence: Abolition of private property). Hai ch» c¶ng sän Çã nói rõ chû trÜÖng cûa h†. C¶ng sän là tܧc bÕ tÜ h»u, không có cûa riêng, mà chÌ có cûa chung. Nh»ng ngÜ©i nghèo chåy theo c¶ng sän là bÎ lØa b¢ng ch» nghïa. H† tܪng chåy theo c¶ng sän là Çu®c chia cûa theo hình thÙc cûa LÜÖng SÖn båc, lÃy cûa ngÜ©i giàu chia cho ngÜ©i nghèo! N‰u chia cûa tÙc là Çã theo chû trÜÖng h»u sän rÒi! Trong ch‰ Ƕ c¶ng sän, ngÜ©i nghèo trܧc sau vÅn nghèo, vÅn không có tÜ h»u. Tài sän trong nܧc vào tay m¶t sÓ ngÜ©i. HÒ Chí Minh không phäi nói Çùa khi ông thí dø vŠ dân chû tÆp trung. Dân chû tÆp trung là dân chúng góp tiŠn låi (tÆp trung) và ÇÜa cho ông HÒ bÕ túi!
Khi n¡m chính quyŠn,viŒc ÇÀu tiên là c¶ng sän hûy bÕ quyŠn tÜ h»u vŠ tÜ liŒu sän xuÃt cûa tÜ sän( cܧp hãng xܪng, máy móc, vÆt døng). NhÜng th¿c t‰, Çánh tÜ sän nhÜng tài sän tÜ bän låi vào tay Çäng viên g¶c, càng chû trÜÖng chÓng tÜ h»u, óc tÜ h»u càng bành trܧng, khi‰n cho tŒ nån æn c¡p và tham nhÛng l¶ng hành. Th©i Marx, các nhà tÜ tܪng Çã phê bình viêc hûy bÕ tÜ h»u së làm cho nÄy sinh bi‰ng nhác. Dân chúng Viêt Nam Çã có tøc ng»:
- Cha chung không ai khóc.
- L¡m sãi không ai Çóng cºa chùa.
- Xã h¶i chû nghïa, mÜ©i ngÜ©i khiêng m¶t c†ng rÖm!
ñi‹m thÙ hai là hûy bÕ gia Çình. C¶ng sän cho r¢ng gia Çình cÛng nhÜ vÓn li‰ng cûa cäi ÇŠu phäi hûy bÕ vì gia Çình, v® con cÛng là m¶t hình thÙc tÜ h»u . Do Çó, hôn nhân là không cÀn thi‰t. C¶ng sän chû trÜÖng vô gia Çình, c¶ng sän k‰t t¶i tÜ bän coi v® nhÜ m¶t công cø sän xuÃt (the bourgeois sees in his wife a mere instrument of production), và cho r¢ng tÜ bän chû trÜÖng’ c¶ng thê’, và chû trÜÖng c¶ng thê ÇÜa ljn nån mãi dâm bành trܧng. Marx nói hÖi quá. Nån mãi dâm Çã có tØ lâu ch§ Çâu phäi do tÜ bän ! Các ông c¶ng sän trong Çó có TÓ H»u Çã lên ti‰ng k‰t t¶i tÜ bän vŠ t¶i mãi dâm. H† mÖ Ü§c chû nghïa c¶ng sän cÖm no, áo Ãm, không còn bóc l¶t, không còn mãi dâm:
( Tr©i Öi bi‰t ljn khi mô?
Thân em h‰t nhøc dày vò næm canh?
Tình Öi gian dÓi là tình,
ThuyŠn em rách nát còn lành ÇÜ®c không ?
-Ræng không , cô gái bên sông,
Ngày mai cô së tØ trong t§i ngoài.
ThÖm nhÜ hÜÖng nhøy hoa nhài,
Såch nhÜ nܧc suÓi ban mai gi»a rØng.
Ngày mai gió t§i ngàn phÜÖng,
Tôi ÇÜa cô t§i m¶t vÜ©n ÇÀy xuân.
Ngày mai trong giá tr¡ng ngÀn,
Cô thôi k‰p sÓng dày thân giang hÒ.
Ngày mai bao l§p Ç©i dÖ,
Së tan nhu Çám mây m© Çêm nay. . .
(Ti‰ng hát sông HÜÖng )
NhÜng th¿c t‰ cho thÃy dܧi ch‰ Ƕ c¶ng sän nån mãi dâm càng bành trܧng! Nói thì dÍ, phê bình Çä kích thì dÍ, còn làm thì khó ÇÃy ! C¶ng sän Çä phá ch‰ Ƕ gia Çình, vÆy thì Marx chû trÜÖng thay th‰ b¢ng m¶t ch‰ Ƕ gia Çình nhÜ th‰ nào hay là bÕ luôn gia dình? Trong væn bän, Marx không nói rõ. NhÜng qua bän Tuyên ngôn này, chúng ta bi‰t các nhà tÜ tܪng ÇÜÖng th©i Çã chÌ trích c¶ng sän hûy bÕ gia Çình (Abolition of the family! Even the most radical flare up at this infamous proposal of the Communists ) , và chÌ trích c¶ng sän chû trÜÖng ‘c¶ng thê.( But you Communists would introduce community of women, screams the whole bourgeoisie in chorus)’. C¶ng sän (chung cûa cäi) rÒi tÃt phäi c¶ng thê ( chung v®) ! Nghe nói bên Trung quÓc, hÒi ÇÀu Mao trä lÜÖng m†i ngÜ©i giÓng nhau, ai ch‰t nhà nܧc chôn nhÜng sau thay Ç°i, ai ch‰t thì Çäng bÕ m¥c, gia Çình phäi theo lÓi xÜa, ÇÙng ra chôn cÃt. Và bu°i ÇÀu, nam n» sÓng m‡i tråi riêng biŒt, cuÓi tuÀn, nam công nhân nào công tác tÓt thì ÇÜ®c lïnh phi‰u sang tråi n» du hí. T° chÙc này giÓng nhÜ tråi gái cûa quân Ƕi Pháp! Không bi‰t viŒc này Çi ljn Çâu. NhÜng Lê Nin, Staline, Mao Tråch ñông, ñ¥ng Ti‹u Bình, Chu Ân Lai , Phåm Væn ñÒng, Võ Nguyên Giáp vÅn có v® con riêng. Lê DuÅn, Võ Væn KiŒt, Lê ñÙc Th† là nh»ng chúa dê... không bi‰t vŠ m¥t này, h† theo c¶ng sän hay tÜ h»u? Riêng ông HÒ là theo Çúng ‘ c¶ng sän nguyên thûy’, tÙc là theo Çúng th©i ÇÀu tiên cûa loài ngÜ©i, æn chung ª chå thành Çàn, nam n» bå Çâu vui Çó, ÇÈ con không bi‰t bÓ là ai!
ñiŠu thÙ ba là hu› bÕ biên gi§i các quÓc gia. Sau khi xóa bÕ gia Çình và hôn nhân, c¶ng sän së xóa bÕ biên gi§i quÓc gia( The working men have no country). ñây là m¶t ÇiŠu không tܪng. Ngay thuª ÇÀu tiên, Trung hoa Çã bÃt mãn Liên Xô vì Liên Xô không chÎu trä låi ÇÃt Trung quÓc mà Nga Çã chi‰m th©i bát quÓc liên quân . HÖn n»a, Trung quÓc thù ghét Nga vì cÓ vÃn Nga hách dÎch hÖn là cÓ vÃn MÏ! Chi‰n tranh Nga Hoa Çã xäy ra là vì Çó. Sau này Liên Xô chi‰m ñông Âu, Trung quÓc chi‰m Tây Tång, và ViŒt Nam chi‰m Miên Lào. NhÜ vÆy, làm sao mà nói xóa bÕ biên cÜÖng? Làm sao mà ÇŠ cao tình yêu quÓc t‰ vô sän, làm sao xây d¿ng th‰ gi§i Çåi ÇÒng?
CuÓi cùng, Marx ÇÜa ra nh»ng Çi‹m chính y‰u cho ÇÜ©ng lÓi c¶ng sän quÓc t‰ mà m‡i quÓc gia phäi theo Çó mà thi hành:
- Hu› bÕ tÜ h»u ru¶ng ÇÃt.
- ñánh thu‰ lÛy ti‰n thÆt n¥ng.
- Hûy bÕ m†i quyŠn thØa k‰.
- TÎch thu tài sän b†n di dân và b†n phän loån.
- Sung công tài sän trong ngân hàng.
- TÆp trung các phÜÖng tiŒn giao thông và vÆn täi trong tay nhà nܧc.
- ñÓi xº công b¢ng v§i tÃt cä lao Ƕng. Thi‰t lÆp kÏ nghŒ quân Ƕi, Ç¥c biŒt chú tr†ng vŠ nông nghiŒp.
- K‰t h®p nông nghiŒp v§i kÏ nghŒ, dÀn dÀn ti‰n t§i viŒc hûy bÕ s¿ phân biŒt quê và tÌnh.
- Giáo døc t¿ do cho các trÈ trong trÜ©ng công.
TÃt cä nh»ng biŒn pháp ghê r®n này nh»ng ai sau 1975 Çã sÓng tåi ViŒt nam ÇŠu träi qua kinh nghiŒp này.VŠ giáo døc, nay thì ngÜ©i ta làm trái l©i Marx h‰t rÒi! Ban ÇÀu Çäng giành Ƕc quyŠn giáo døc, nay vÅn Ƕc quyŠn giáo døc nhÜng låi chia ra công, tÜ và bán công.Và nay trÜ©ng công cÛng Çóng h†c phí, h†c sinh phäi Çóng tiŠn xây trÜ©ng, tiŠn xây l§p, cha mË h†c sinh phäi kš s° vàng, h†c sinh phäi t¥ng quà thÀy giáo , cô giáo trong ngày Hi‰n chÜÖng nhà giáo 20-11 hàng næm.
VŠ kinh t‰, nay c¶ng sän Çã h»u sän hóa cán b¶, Çã tôn tr†ng tÜ h»u tuy r¢ng ru¶ng ÇÃt vÅn n¢m trong tay Çäng, Çäng có quyŠn chi‰m ÇÃt làm nhà, bán ÇÃt cho ngoåi quÓc mà lÃy tiŠn bÕ túi trong khi dân chúng không có ÇÃt làm nhà, không có ÇÃt canh tác! Và nay các cÖ sª quÓc doanh Çã vào tay các Çäng viên b¿, vào tay các tÜ bän ÇÕ. Ông Marx có bi‰t không? Ngay nay h† vÅn treo búa liŠm nhÜng th¿c t‰ h† Çã Çem tuyên ngôn cûa ông bÕ thùng rác rÒi !
III. Væn h†c c¶ng sän
Marx nói ljn nhiŠu loåi chû nghïa xã h¶i: chû nghïa xã h¶i phong ki‰n, chû nghïa xã h¶i tÜ sän , chû nghïa xã h¶i ñÙc. Marx chÌ trích các chû nghïa xã h¶i không thu¶c c¶ng sän là phän Ƕng mà khen chû nghïa xã h¶i ñÙc. Quan tr†ng nhÃt là ông Çã chÌ trích chû nghïa xã h¶i không tܪng phê phán và chû nghïa c¶ng sän không tܪng phê phán. Ông chê h† là không tham gia hoåt Ƕng chính trÎ, nhÃt là tham gia cách mång, h† muÓn tranh Çãu b¢ng con ÇÜ©ng hòa bình. Ông chê h† không tܪng nhÜng th¿c t‰ h† cÛng nhÜ ông là viÍn vông, không tܪng. Tuy nhiên ông Çã khen h† là bi‰t tranh Çãu cho vô sän, Çä kích m†i trÆt t¿ , khuôn mÅu cÛ Çang tÒn tåi, ca tøng giai cÃp vô sän, ca tøng viŒc bãi bÕ s¿ phân biŒt thôn quê, thành thÎ, ûng h¶ viŒc hûy bÕ gia Çình, chÓng ÇÓi viŒc duy trì làm æn cá th‹ và tÜ nhân. ( They attack every principle of exisflng society. Hence they are full of the most valuable materials for the enlightenment of the working class. The practical measures proposed in them - such as the abolition of the distinction between town and country, of the family, of the carrying on of industries for the account of private, individuals).
VŠ møc này, Marx nói rÃt mÖ hÒ, không ÇÜa ra m¶t phÜÖng châm , ÇÜ©ng hܧng nào cä, mà chÌ là nh»ng l©i chÌ trích vu vÖ. Sau này, Çám ÇŒ tº cûa ông Ç¥t ra Çu©ng lÓi hiŒn th¿c xã h¶i chû nghïa. H† b¡t m†i nhà væn, nhà thÖ phäi ca tøng ch‰ Ƕ, ca tøng giai cÃp vô sän và ca tøng Çäng C¶ng Sän, h† Çã coi væn h†c nghŒ thuÆt nhÜ là vÛ khí cûa Çäng, là tay sai cûa chính trÎ. TØ Liên Xô, Trung quÓc cho ljn ViŒt Nam, gi§i væn nghŒ luôn bÎ kìm kËp, khûng bÓ.
IV. C¶ng sän và các Çäng phái ÇÓi lÆp
Marx cho bi‰t Çäng c¶ng sän c¶ng tác v§i các Çäng cûa nhân dân lao Ƕng, nhÜ là nhóm Hi‰n chÜÖng ª Anh quÓc và nhóm Cäi cách ru¶ng ÇÃt ª B¡c MÏ .Và Çäng c¶ng sän tranh Çãu cho quyŠn l®i giai cÃp vô sän nên Çã h®p tác v§i các Çäng phái khác nhÜ ª Pháp C¶ng Çäng Çã h®p tác v§i Çäng Xã H¶i Dân chû Ç‹ chÓng tÜ bän và CÃp Ti‰n. Ÿ Thøy Sï, Çäng c¶ng sän ûng h¶ Çäng CÃp Ti‰n.
ñÃy là l©i ba hoa cûa Marx. Th¿c t‰ cho thÃy Çäng c¶ng sän muÓn n¡m Ƕc quyŠn cho nên Çã phá hoåi các Çäng phái khác trong khi h† còn hoåt Ƕng bí mÆt, ho¥c khi còn y‰u th‰. NhÃt là khi Çã n¡m chính quyŠn , c¶ng sän không bao gi© chia chác cho Çäng khác, trái låi ra sÙc tÆn diŒt các l¿c lÜ®ng chính trÎ, tôn giáo khác. Tåi ViŒt nam, HÒ chí Minh Çã b¡t tay v§i th¿c dân Pháp Ç‹ ränh tay tiêu diŒt QuÓc dân Çäng và ñåi ViŒt. H† không có tinh thÀn hòa h®p, Çòan k‰t dân t¶c bªi và tØ cæn bän h† là Ƕc tài.
*
Có hai Çi‹m quan tr†ng nhÃt trong Tuyên ngôn này, Çó là vÃn ÇŠ triŒt Ç‹ hûy bÕ tÜ hÛu và triŒt Ç‹ chÓng låi các tÜ tܪng c° truyŠn.( The Communist revolution is the most radical rupture with traditional property relations; no wonder that its development involves the most radical rupture with traditional ideas). Hång bình dân có th‹ bÎ lØa Çäo vì không bi‰t gì vŠ Marx, h† chåy theo c¶ng sän vì nghï mình là dân nghèo, ÇÜ®c c¶ng sän Çem låi nhiŠu quyŠn l®i. NhÜng nh»ng bÆc trí thÙc nhÜ luÆt gia NguyÍn Månh TÜ©ng, tri‰t gia TrÀn ñÙc Thäo låi không džc Marx, Engels sao? Ch¡c h† džc Marx và Engels nên m§i mê mà theo c¶ng sän cho tàn m¶t Ç©i xuân. H† Çã nghe ít nhiŠu vŠ viŒc tàn sát Thanh NghŒ Tïnh 1931. H† Çã džc Tuyên Ngôn cûa Çäng c¶ng sän, h† nghï gì vŠ viŒc c¶ng sän triŒt Ç‹ hûy bÕ tÜ h»u, và hûy bÕ m†i tÜ tܪng c° truyŠn?
Con ngÜ©i bÎ hûy bÕ tÜ h»u thì làm sao mà sÓng? H† có nghï h†c vÃn cûa h† cÛng là m¶t thÙ tÜ h»u mà c¶ng sän ghét bÕ hay không ? Tri‰t gia và luÆt gia phäi suy nghï vŠ viŒc này. M¶t ngÜ©i lÜ®m ÇÜ®c trái táo, trái °i, cÃt låi Ç‹ chiŠu æn. H† có phåm t¶i tÜ h»u không, và có Çáng bÎ t¶i không? M¶t ngÜ©i làm viŒc siêng næng, tåo ra cûa cäi, không tr¶m c¡p, gi‰t ngÜ©i Çoåt cûa, tåi sao h† bÎ tܧc Çoåt tài sän, bÎ tù, và bÎ gi‰t ? NgÜ©i ta gi‰t ngÜ©i, b¡t b§ ÇÒng loåt, không phân biŒt ai có t¶i hay không có t¶i chính là do quan Çi‹m cûa Marx, m¶t kÈ sát nhân ghê tªm, mà sau này TrÜ©ng Chinh cÛng chû trÜÖng gi‰t lÀm hÖn bÕ sót, và Pol Pot gi‰t hàng triŒu ngÜ©i cÛng do Tuyên Ngôn này, chû trÜÖng Çãu tranh quy‰t liŒt v§i kÈ thù!
Vô lš nhÃt, Çiên cuÒng nhÃt khi Marx chû trÜÖng triŒt Ç‹ thû tiêu m†i tÜ tÜÕng c°
truyŠn. C¶ng sän giÓng nhÜ Tây ñ¶c Âu DÜÖng Phong mông ch‡ng lên tr©i, ÇÀu Çi xuÓng ÇÃt, và coi Çó là cách mång! Khoa h†c thuÀn túy và khoa h†c xã h¶i ÇŠu là kho tàng cûa nhân loåi, ÇÜ®c truyŠn låi tØ lâu Ç©i. Trong Çó có nh»ng cái còn giá trÎ, và nh»ng cái l‡i th©i. Chúng ta phäi k‰ thØa và phát huy cái tÓt. Chi‰c xe ô tô ngày nay là k‰t quä cûa cái xe th©i Chi‰n quÓc, Xuân Thu. Y khoa ngày nay khác xa y h†c c° truyŠn nhÜng phÀn l§n ki‰n thÙc là do thØa k‰ và phát huy y h†c c° truyŠn. Marx là m¶t trí thÙc sao laÎ quá khích và nông n°i nhÜ vÆy? N‰u c¶ng sän chû trÜÖng coi m†i giá trÎ tÜ tܪng ÇŠu vô giá trÎ thì ki‰n thÙc cûa các ông trí thÙc theo c¶ng có Çu®c c¶ng sän tôn tr†ng không, và các ông chåy theo c¶ng sän Ç‹ làm gì? RÃt ti‰c cho TrÀn ñÙc Thäo, NguyÍn Månh TÜ©ng Çã theo c¶ng sän, Çã không dùng ki‰n thÙc mình mà áp døng trong cu¶c Ç©i. Lë nào hai ông không džc tuyên ngôn này? N‰u džc mà hai ông không thÃy rùng r®n sao? DÅu sao, hai ông còn có chút khí ti‰t, còn hÖn Tôn ThÃt Tùng , NguyÍn Kh¡c ViŒn và Çám sï phu ‘ gà phäi cáo’! Marx có änh hܪng rÃt l§n ª th‰ gi§i này. ña sÓ dân lao Ƕng và trí thÙc tin Marx. NhÜng sau m¶t th©i gian, ngÜ©i ta Çã thÃy rõ b¶ m¥t thÆt cûa c¶ng sän cho nên n‡i thÃt v†ng càng l§n lao. NgÜòi ta lÀm vì Marx Çã tô vë m¶t thiên ÇÜ©ng hå gi§i quá hay. Nào là t¿ do, bình Çäng, xã h¶i không giai cÃp, không có vua quan, không ai cai trÎ ai( hûy bÕ nhà nܧc), dân muÓn làm gì thì làm, muÓn hܪng gì thÌ hÜÕng, c¶ng sän giàu månh gÃp næm gÃp mÜ©i tÜ bän, tÜ bän së ch‰t, vô sän Çåi th¡ng, nܧc ñÙc là nܧc c¶ng sän ÇÀu tiên cûa nhân loåi! NhÜ tåi ViŒt nam, cu¶c n°i dÆy cûa Xô ViŒt NghŒ Tïnh næm 1931 Çã gây ra bao máu xÜÖng tang tóc nhÜng cÛng Ç‹ låi nh»ng huyŠn thoåi vŠ m¶t thiên ÇÜ©ng Liên Xô hånh phúc, trong Çó công nhân là chû nhân ông cûa ÇÃt nu§c:
Có Çâu nhÜ ª bên Nga,
Ngày làm, ngày nghÌ ÇŠu là có lÜÖng.
(Væn h†c Xô VI‰t NghŒ Tïnh)
Nay thì m†i ngÜ©i Çã thÃy thiên ÇÜ©ng c¶ng sän tåi Liên Xô, Trung quÓc và ViŒt Nam. ñó là m¶t kinh nghiŒm hãi hùng cûa th‰ k› XX. Tuyên ngôn cûa Marx là nh»ng ti‰ng cÜ©i man r® cûa ngÜ©i m¶ng du hòa v§i ti‰ng tru ghê r®n cûa loài sói trong Çêm khuya. SÖn Trung

TAP CHÍ VĂN HÓA VIỆT NAM 39







SƠN TRUNG
 chủ biên





số  39
tháng 12 năm 2001
Updated Aug, 2012




TRẦN BÌNH NAM * NGƯỜI CHỊ DÂU

NGườI CHị DÂU
Trần Bình Nam

Bà Linh trở mình thức giấc, ánh nắng chiếu qua màn cừa sổ đã lâu, bà cảm thấy ấm trên má. Ngoài vườn tiếng chim sẻ kêu ríu rít; trong nhà yên tînh, các
cháu đã đi học.
Về thăm quê lặn này bà ở chơi lâu nên không vội vàng giờ giấc như những lần trước. Hôm nào bà cũng dậy trễ, nằm trên giường mơ màng đủ thứ chuyện trước khi dậy, chải chuốt đôi chút, rồi ra nhà bếp nói chuyện với người em gái. Em bà, cô Thúy nhỏ hơn bà mừơi tuổi cùng chổng là chủ ngôi nhà bố mẹ bà để lại.

Bà Linh rời khỏi ngôi nhà này năm 26 tuổi, khi bà tái giá. Bà lấy chổng lặn đầu năm 17 tuổi. Chồng trước, ông Bình, thương yêu bà rất mực, nhưng chỉ sống hạnh phúc với nhau một năm thì ông Bình từ nạn. Phong ba bão táp dổn dập đổ xuống cuộc đời con gái của bà. Tám nạm sau bà mới có một đời sống ổn định với Hùng,người chổng sau.
Sau năm 1975 bà Linh cùng Hùng và ba người con sang định cư tại Thụy Sî. Hai vợ chổng mua một căn nhà rộng rãi ở Geneve cạnh bờ hồ Leman.
Bà Linh có ba anh chị em. Một người anh, một em trai và Thúy. Song thân bà qua đời đã lâu, ngôi nhà quen thuộc, nơi bà sinh ra và lớn lên để cho người em
gái ở. Anh bà đi kháng chiến, sau đó tập kết ra Bắc, năm 1975 trở về, có quyền thế và một đời sống ổn định, nhưng ít quan hệ với các anh chị em khác. Người
em trai, sî quan quân đội Cộng Hòa bỏ mình trong chiến tranh. Căn nhà bằng gỗ, làm đã lâu năm vẫn còn chắc chắn, chĩ có mái tranh hai năm phải lợp lại
một lặn, nằm trong một khu vừơn hai mẫu đất có nhiều cây ạn trái, nhiều nhất là thơm, cau, mít và nhãn. Nạm ngoái trong chuyến trở về thăm nhà, bà Linh giúp em lợp lại mái tranh, nay còn tốt.
Trước năm 1986 người em gái và chồng làm việc cho một hợp tác xã đóng giày của thị xã Huế. Bà Linh về thăm mấy lần thấy đời sống em chật vật, vợ chồng đi làm cả ngày, con cái ở nhà lêu lỏng, khu vườn cây ạn trái không ai chạm sóc, bà Linh bỏ tiền giúp em thuê người xới đất, làm cỏ, đào giếng đặt bơm nước,chăm bón lại khu vườn. Sau một năm thấy hoa lợi đủ chi tiêu, hai vợ chồng xin nghĩ việc hợp tác xã dùng toàn thì giờ săn sóc khu vườn cây ạn trái và trổng rau. Hoa lợi chẳng những đủ chi tiêu còn dành dụm được chút ít trả
dần vốn cho bà Linh. Có em ở nhà vừa coi vườn vừa bầu bạn, năm nay bà Linh về ở chơi lâu.
Thường ngày bà Linh dậy trễ, hôm nay bà dậy trễ hơn. Đêm hôm qua bà ngủ không yên giấc. Trằn trọc với ý định, nhưng chưa quyết, đến thăm ngôi nhà bà mẹ chồng cũ, nơi đó Linh đã sống với Bình một tuần lễ trươc khi theo chổng vào Nam.
Năm 17 tuổi Linh là thiếu nữ đẹp nhất làng, nhiều thanh niên trong xóm ngăm nghé, nhưng để mơ ước nhiều hơn hy vọng. Gia đình Linh sung túc,thân phụ là một y tá lành nghề của bệnh viện Huế, được làng xóm vị nễ.
Thanh niên trong làng con nhà nghèo sống bằng nghề làm rẫy, thợ mộc hay thợ hồ. Họ thích ngắm Linh, hát những câu ca dao trữ tình trêu chọc, nhưng họ biết Linh không thuộc về họ.
Bình quê Kim Long, làm việc ở Sài Gòn sau khi đỗ bằng Thành Chung. Mẹ Bình quen với mẹ Linh. Thấy Linh đẹp, nết na bà ngõ ý cho con trai. Sau khi xem tấm hình vận âu phục khôi ngô tuấn tú với chiếc răng cời có duyên ẩn dưới đôi môi nghiêm trang của Bình, mẹ Linh rất ưng ý. Bà khéo léo cầm tấm hình cho Linh xem,gián tiêp cho biết bà đã chọn được rể.
Tết năm đó mẹ Bình dẫn Bình đến thăm gia đình Linh. Đương ở phòng sau, Linh nhìn trộm Bình qua bức màn vải mỏng trong khi mẹ vừa uống trà vừa nói chuyện với mẹ Bình một cách tương đắc, thĩnh thoảng hỏi Bình những câu hỏi vô thưởng vô phạt. Linh thấy Bình ngồi yên nghe, nhỏ nhẹ vâng dạ, nhưng đôi mắt không dấu được sự bồn chồn nóng lòng chờ đợi. Linh cảm thẵy hài
lòng, lo lắng, nôn nao. Linh chưa từng yêu ai, yên tâm chấp nhận sư xếp đặt của mẹ. Nhưng Bình ngồi đó, đẹp trai, cao lớn với chiếc răng cời có duyên,Linh đã thẵy trên tẵm hình làm cho Linh thẵy lòng rào rạt, mơ tưởng chuyện yêu đương.
Bỗng tiếng mẹ gọi: "Linh! con dẹp giúp mẹ mấy tách trà và ra chào bác và anh Bình."
Linh vén vội mái tóc nhanh nhẹn bước ra cúi chào mẹ Bình, mắt liếc nhanh về phía Bình. Đôi mắt gặp nhau và hai người tìm thấy trong ánh mắt sự chấp nhận lẫn nhau.
Lễ cưới được tổ chưc sáu tháng sau, khi Bình về phép đặc biệt. Cưới xong Linh về nhà chổng một tuặn lễ trước khi theo chổng vào Nam. Hạnh phúc chưa được một nạm, chưa có con đầu lòng, biến cố tới, chồng Linh bị lính Pháp giết khi tái chiếm các tĩnh miền Nam năm 1946.
Giữa cảnh loạn li, Linh vượt gian lao trở về quê, định ở với bố mẹ chổng cho phải đạo dâu con. Linh cho bố mẹ Bình biết hoàn cảnh Bình bị lính Pháp giết
và tại sao Linh không tìm được xác chồng. Bố mẹ Bình quá đau khổ trước tin dữ, quên nỗi đau khổ riêng của Linh, thường trách Linh thiếu đạo vợ chồng, nỡ bỏ chồng bơ vơ không mổ mả. Phặn đau khổ vì chồng chết, phặn gia đình bố mẹ chổng thiếu thương yêu hẵt hủi, Linh đành gạt nước mắt trở về nhà bố mẹ.
Nhiều năm sau Linh gặp Hùng. Gia đình Hùng cùng làng. Thân phụ Hùng được bổ dạy học tại một tỉnh xa và mang cả gia đình theo. Ở làng ít ai còn biêt đến gia đình của Hùng, chĩ thĩnh thoảng cha Hùng đưa Hùng về thăm quê cho biết. Lặn cuối cùng vào nạm 1943. Hùng gặp Linh khi đó là một cô gái vừa đến tuổi dậy thì. Hùng ra đi mang theo hình ảnh của Linh, chờ dĨp trở về.Rổi Hùng đi biền biệt. Lấy bằng cừ nhân xong Hùng thi tham vụ ngoại giao, sau đó biệt phái làm việc cho ủy ban Văn hóa Liên hiệp quốc tại Sài gòn.
Hùng gặp lại Linh năm 1954 tại Huế khi về nghiên cứu kế hoạch trùng tu đại nội trong chương trình phục hổi di tích văn hóa thế giới của Liên hiợp quốc. Tình bạn, rổi tình yêu đến dễ dàng giữa hai người. Năm sau lễ cưới được tổ chưc đơn giản tại Huế. Hùng không biết Linh đã có một đời chổng. Linh không có ý định dấu. Linh dự tính cho Hùng biết trước khi cưới nhau nhưng cơ hội đó không bao giờ tới. Sau khi ổn định tại Thụy Sî Linh sống hạnh phúc với Hùng và các con. Linh dặn quên quá khứ, và ý muốn nói sự thật với chổng dần dần tan biến. Nhiều đêm trở mình thức giẵc, nằm bên chổng Linh có cảm tưởng như mình thiếu trong trắng, nhưng khi muốn nói với chổng Linh lại sợ làm mất cái yên tĩnh cüa gia đình.
* * *
Lần này về quê ở lâu, ý muốn nhìn lại ngôi nhà cũ nơi đó bà Linh đã sống với Bình và đã đau khổ buồn giận bố mẹ chồng bỏ đi trở lại thôi thúc bà mãnh liệt. Nhưng bà còn do dự. Bà tự hỏi: "thăm gì và còn gì để thăm?" Bà sợ khơi lại đống tro tàn dî vãng.
Nhưng bây giộ bà đã quyết. Chiều hôm qua ra vườn chơi với Thúy đang chăm mấy luống rau, vừa lúc mẳt trời đang xuống, bặu trời sáng rực, nắng vàng chiếu vắt lên qua một đám mây trắng lớn làm nổi bật giữa bầu trời một đàn chim đang đập cánh lơ lửng bay về hướng chân trời. Bức tranh gợi lại hình ảnh bà thường thấy
khi cùng sống với Bình. Mỗi chiều, cơm nước xong, bà và Bình thường mang ghế ra trước sân nhà nhìn mắt trời lặn và nhìn những đàn chim lạc lỏng bay vội về tổ. Mùa thu, Bình thích vừa nhìn chim bay vừa hát
đủ cho bà Linh nghe: "Đến nay thu tàn, phương xa kìa chiếc én bay về ...Khuất trong mây ngàn, riêng ta nhìn đâu thấy bóng quê ..." Tiếng hát của Bình như còn văng vãng đâu đây. Linh bỗng thấy nhớ Bình tha thiết, nhớ nơi bà đã hưởng mộng đẹp thuở ban đầu của người con gái.
Tắm xong, bà Linh chọn một chiếc áo mầu hoa cà là mầu Bình thích nhất,trang điểm vội vàng rổi ra đi. Băng qua mấy con đường làng quen thuộc dẫn về phía bờ sông Hương bà thấy khung cảnh lạ dần, cây cối không còn um tùm như trước, nhường chỗ cho nhiều nhà mới mọc chen chúc nhau, mái tranh xen lẫn mái ngói. Đến một cánh đồng nhỏ trồng lúa, bà Linh thấy con đường tỉnh lộ chạy sát bờ sông. Một kiệt nhỏ rẽ từ tỉnh lộ là đường dẫn đến nhà Bình. Bà Linh không chắc mình vào đúng lối nếu đầu kiệt nhỏ không có cái miếu thành hoàng nay đã bỏ hoang. Thời gian ngắn ngủi ở với Bình mỗi lần về nhà thăm mẹ trở lại bà Linh đã lấy miếu thành hoàng này làm chuẩn để nhận ra đường. Bà bồn chồn. Gần năm mươi năm bà mới trở lại con đường nhỏ này. Cũng gần 50 năm bà không giữ quan hệ nào với gia đình Bình. Bố mẹ Bình chắc không còn, nhưng còn mấy em của Bình? Hai người em, một trai một gái xê xích tuổi với bà, và một chú em út tên là Vạn hồi đó đã 12 tuổi
chưa biết gì và là người độc nhất trong gia đình có cảm tình với bà. Nhiều khi thấy bà khóc một mình, chú bé Vạn đến bên cạnh ngây thơ hỏi: "sao chị khóc?" rổi hôn lên má chị trước khi bẽn lẽn chạy đi.
Kiệt nhỏ đầy con nít, chỗ này mấy đứa đánh bi cãi nhau chí chóe, chỗ kia mấy đứa tụ lại bên cạnh một quán nhỏ mua bánh kẹo. Mấy đứa lớn ngẫng nhìn bà Linh như nhận ra người khách lạ. Bà nghe chúng thì thào: "Việt kiều tụi bây ơi!" Bà mĩm cười. Danh hiệu Việt kiều từng mang đến cho bà vui cũng như buồn. Vui khi được cưng chiều vì Việt kiều có nghĩa có khả năng tiêu rộng rãi, buồn khi bị đối đãi như một người khách lạ trên chính quê hương mình. Bà Linh cảm thấy lạc lỏng.
Mẳt trời lên đã khá cao. Ẩm độ làm khí trời thêm nóng bức. Làn gió nhờ thổitừ sông Hương im lìm không làm cho bà Linh cảm thấy mát. Bà bước vội để xua đuổi mấy ý nghĩ bực mình. Bà đã nhận ra ngôi nhà ngày xưa,hiện rõ dưới ánh nắng. Bà Linh lấy chiếc nón đang đội xuống cầm tay để quan sát ngôi nhà cho rõ hơn. Ngôi nhà mái ngói trông khô khan, quét vôi trắng, nằm gọn giữa chiếc vườn rộng không còn nhiều cây ăn trái như xưa, mấy luống khoai mì lá vàng thân thể khẳng khiu như thiếu nước.
Trong nhà văng vẳng tiếng một phụ nữ đang mắng con. Nghe giọng bà biết ngôi nhà đã đổi chủ. Lòng bà bỗng dưng tê lạnh. Quá khứ chôn chặt 50 năm muốn khơi lại một lần, một chút, cũng không còn . Tẵt cả đã trở thành dî vãng, ngay cả con đường này, ngôi nhà đó, nơi bà đã sung sướng sống với Bình. Tất cả đều xa lạ. Thời gian đã chết. Bà Linh thấy chơi vơi.
Dấu vội mấy giọt nước mắt dưới chiếc nón lá, bà Linh bước nhanh, rẽ vào lối khác trở về.
* * *
Ngổi trên máy bay trở về Thụy Sî, bà Linh thấy trong lòng bớt nặng nề. Lời chỉ dẫn an toàn của các nữ chiêu đãi viên, âm thanh của hoạt động máy bay khi
cất cánh không làm cho bà thấy lo lo như những chuyến bay trước. Bà tìm thấy sự bình an của tâm hồn sau giây phút xúc động mãnh liệt khi tìm về kỷ niệm xưa. Bà tìm cách lấp một khoảng trống để chỉ thấy một khoảng trống khác, nhưng ít nhẵt bà đã trở về thăm nơi đó.
Chiếc máy bay Jumbo 747 hạ thấp cao độ, bà Linh thấy cảnh vật quen thuộc bên dưới hiện dần ra. Bà thoải mái xem lại dây lưng an toàn, sửa thẳng lại lưng ghế, sung sướng sắp được gặp Hùng và các con.
Phi trường Geneve nhiều hành khách ngoại giao chỉ thua Nữu uớc, rộn rịp như thường lệ. Nhân viên quan thuế và di trú làm việc nhanh chóng và lễ độ.
Bà Linh theo đoàn hành khách thông qua thủ tục quan thuế và nhập cảnh xong, vội vàng bước ra ngoài. Nhận ra nét mặt rạng rỡ của mẹ, cô gái út vừa đỡ hành lý cho mẹ vừa ríu rít:
"Mẹ! Mẹ vỡ quê ngoại chuyến này lâu vui lắm hả mẹ?"
Hùng hôn nhẹ lên má vợ phụ họa:
" Con nói đúng, anh thấy em gầy di chút ít nhưng khuôn mặt thật bình an như người vừa đắc đạo. Mấy lần trước mỗi lần thăm nhà trở về anh thấy em buồn nhớ luyến tiếc một cái gì muốn mang theo chẳng đuợc. Em nghiên cứu giáo lý nhà Phật và tập thiền định đã có kết quả."
Bà Linh mĩm cười sung sướng.
* * *
Một buổi sáng đi chợ về, bà Linh thấy một phong thơ đóng dấu bưu điện Việt Nam gửi đi từ Đà Lạt. Linh tính báo cho bà một cái gì lại đến xáo trộn đời bà?
Vừa bóc thư bà vừa soát duyệt trí nhớ xem còn bạn bè nào ở Đà Lạt. Bà không còn ai thân thích ở Đà Lạt.
Bà Linh nín thở đọc lá thư, sắc mặt biến từ ngạc nhiên đến xúc động. Đọc xong, không kềm chế nổi bà đặt lá thư xuống bàn ôm mẳt khóc nức nở. Vừa lúc đó Hùng đi chơi quần vợt về. Thấy vợ khóc, phong thư còn mằm bên cạnh, Hùng thoạt nghî chắc có chuyện chẳng lành trong gia đình vợ ở Việt Nam. Nhưng Hùng không tin. Hùng biết vợ là người giỏi chịu đựng và quen kềm
Hùng thoạt nghî chắc có chuyện chậng lành trong gia đình vợ ở Việt Nam.
Nhưng Hùng không tin. Hùng biết vẼ là người giỏi chịu đựng và quen kềm chế cảm xúc. Xưa nay buồn khổ gì bà chĩ để thoáng lên nét mặt, chưa bao giờ khóc, ngay cả lặn đứa con trai thứ nhì năm đó mới 8 tuổi đị học về bị xe cán phải nằm phòng hổi sinh mấy ngày mới biết thoát chết bà cũng cắn răng chịu đựng không khóc. Hùng yên lẳng đến ngổi cạnh bà Linh, âu yếm đặt nhẹ bàn tay lên vai vợ, đôi mắt hỏi han nhìn bà không nói, sẵn sàng chia sự thống khổ với bà.
Bà Linh ngừng khóc, cặm lá thư đưa cho Hùng nhẹ nhàng bảo: "Anh đọc đi."
Hổi hộp Hùng mở bức thư:
"Đà Lạt ngày 4 tháng 6 năm 1994
Chị Linh,
Tôi xin giới thiệu để chị khỏi ngỡ ngàng. Tôi là Nguyễn Vạn Giang, em ông Nguyễn Văn Bình ở Kim Long. Chắc chị còn nhớ người chồng bất hạnh chĩ được hạnh phúc sống bên chị một năm rổi tức tưởi qua đời trong chiến tranh.
Bốn mưoi tám nạm nay, từ hổi anh tôi bị lính Pháp bắn chết rồi xô xác xuống sông như lội chị thuật lời, ba má tôi vì quá đau khổ đã không biết phải đối xừ với chĨ như thế nào cho phải. Thế rổi chị trở về với hai bác.
Một phần vì chiến tranh, một phần chúng tôi còn nhö không ai nghî đên việc tìm xác anh tôi xem đã trôi dạt phương nào, hơn nữa chỉ có chị là người duy nhẵt biết những chi tiết cuối cùng trước khi anh tôi qua đời, thì từ đó đến nay gặn 50 năm chúng tôi không hề biết tin tức của chị. Do hoàn cảnh thực tế của một đất nước bị chiến tranh và tâm lý, chúng ta hoàn toàn cắt đứt quan hệ với nhau.
Cách đây mấy năm ở Việt Nam có phong trào truy tặm thân nhân thẵt lạc trong chiến tranh, tôi về Huế hỏi thăm tin chị như bước khởi đầu truy tìm xác cüa anh tôi. Hơn nữa, chị còn nhớ chú Vạn hồi đó 12 tuổi thương chị nhất nhà, thĩnh thoảng chú Vạn hỏi tôi biêt tin tức chị ở đâu không.
Ở Huế tôi được biết chị vừa về thăm quê ở gặn 6 tháng và mới trở về Thụy Sî. Cô An bên chị cho tôi địa chỉ cüa chị.
Vậy xin chị, vì tình cũ nghîa xưa với người chổng đã khuẵt cho tôi biết thật đầy đủ chi tiết những gì chị còn nhớ vào nhăng ngày kinh hoàng nạm 1946 đó, may ra được người ta gói ghém chôn cẵt tại một nghîa trang từ sî nào đó.Hiên nay tỉnh nào cũng có nghiã trang liệt sî dành cho những người đã bỏ mình trong cuộc kháng chiến chống Pháp giành độc lập. Tại nghîa trang liệt sî Bến Cát có một ngôi mộ vô chủ đề tên Nguyễn Văn Bạc. Tôi sẽ xin khai quật để xác minh xem có phải đó là mộ phần của anh tôi không sau khi có thêm chi tiết nơi chị đã kiểm chứng. Anh tôi có một chiếc răng cời. Năm về Huế cưới chị, tôi nghe anh tôi định sẽ nhổ đi, nhưng tôi không biết đã nhổ chưa trước khi anh tôi lâm nạn.
Nạm 1946 chị trở lại Huở sau khi anh tôi qua đời, nhớ lại tôi rẵt tiếc ba má tôi và chúng tôi đã đối đãi thiếu thông cảm với chị. Mới rồi tôi đã lên Bến Cát, lên cầu Bến Củi, nhìn con sông Bến Lức khá rộng chảy dưới cặu, vào làng Hòa
định, nghe các cụ già kể lại chuyện Tây khủng bố trắng dân làng khi tái chiếm, bắn hằng loạt người đôi khi có cả phụ nữ, chúng tôi biết chị không có cách gì khác hơn là chạy lấy thân để về cho ba má tôi biết sự tình. Lúc này có cơ hội hiểu nỗi khổ tâm của chị thì ba má tôi đều đã qua đời.
Tôi rẵt mong thư chị hổi âm để chuẩn bị đi Bến Cát một lần nữa."
Đọc xong thư Hùng thấy đau nhói. Buổn và giận làm Hùng choáng váng.Nhưng Hùng kịp trấn tĩnh. Hùng hiểu nếu Linh không thổ lộ được sự thặm kín cüa cuộc đời nàng với Hùng trước khi cưới nhau thì nàng sẽ không đủ can đảm tỏ bày khi đứa con đặu lòng ra đời và hạnh phúc gia đình dồn dập tới.
Hùng nhớ thời gian thân mật với Linh trước khi cưới, hơn một lần khi đang vui bỗng nhiên Linh trở nên trang nghiêm nói: "Anh Hùng, có chuyện quan trọng này Linh phải nói với anh." thì lặn nào Hùng cũng sợ mất giây phút thặn tiên quí báu trước vẻ đẹp lộng lẫy của Linh gạt phắt: "Không có gì quan trọng hơn giây phút anh và em ở bên nhau." Bây giộ Hùng thẵm thía nỗi đau
của vợ, một mình chôn chặt sặu muộn trong lòng suốt nừa thở kỷ qua, và bỗng thấy thương vợ vô cùng.
Thấy Linh im lặng chờ đợi, Hùng âu yếm:
"Anh biết anh đã không cho em cơ hội nói chuyện này với anh từ những ngày chưa cưới nhau. Lỗi tại anh. Vấn đề bây giờ là chúng ta có nên cho các con biết không?"
Linh dứt khoát: "Không, không anh. Chúng ta không có quyền đó."
* * *
Ba hôm sau, Linh viết cho Giang.
"Chú Giang,
Thú thật với chú, chị đã ngạc nhiên và ngỡ ngàng lúc nhận được thư từ thành phố Đà Lạt gửi đến, ở đó chị không còn ai quen, lục trong ký ức cũng không nhớ ai là Nguyễn Văn Giang. Chị vội vàng đọc thư, đến hàng thứ nhì thấy chữ
Nguyễn Vạn Bình lòng chị quá xúc động. Một dî vãng rùng rợn thoáng hiện lại trong trí óc chị, vui buổn đau khổ trên 48 nạm trội xuyên qua các biến chuyển cüa đất nước mà chĨ đã chôn vùi tận đáy lòng chĩ một mình biết một mình
mình hay.
Chị đã đọc đi đọc lại thư chú. Trước hết chị cảm tạ chú và chú Vạn đã nghî đên việc tìm kiếm hài cốt người anh quá cố, cũng là người chổng đầu cỦa chị, để mang về quê quán cho được gần mộ phần cha mẹ.
Chị cũng tự thấy lòng mình được bình thản hơn, nhất là sau khi đọc đoạn thư chú cho biết các cô các chú sau khi nghe chú tường thuật chuyến đi Bến Cát,đến cầu Bến Củi, xuống tận xã Hòa Định hỏi han các cụ già còn sống sót đã chứng kiến cảnh người Pháp khủng bố dân làng và giết những người theo kháng chiến như thế nào, đã rõ nguyên nhân cái chết bi thảm cüa anh Bình và thông cảm tại sao chị không thể ở lại tìm cho ra xác chổng trước khi trở về.
Hồi tưởng lại năm xưa khi trình bày về cái chết của anh Bình, cha mẹ và các cô chú lớn tuổi đều không tin đó là sự thật, nghi có một bí ẩn nào bên trong,rồi tìm cách không chấp nhận chị trong gia đình không một lời an üi thương
hại tội nghiệp cho tuổi xuân xanh cüa chị sớm góa bụa. Chị đành gạt nước mắt trở về nhà bố mẹ.
Như đã thuật lại cho cha mẹ cách đây 48 năm, chĨ xin ghi lại các nét chính để chú dùng làm dữ kiên xác minh mổ mả cüa anh Bình. Chú còn nhớ anh Bình là nhân viên quản lý nhà giam Ông Yệm nơi giam giữ trẻ vị thành niên phạm tội. Khi Việt Minh cướp chính quyền năm 1945, anh Bình và một số nhân viên làm việc cho chính quyền cách mạng. Qua các hoạt động của anh Bình chị biết anh đã tham gia phong trào chống Pháp từ trước. Năm 1946 khi Pháp tái chiếm Nam bộ, anh Bình hướng dẫn một số nhân viên sở Ông Yệm, trong đó có anh giáo Trinh, tham gia các tổ du kích tiếp tục chống lại người Pháp. Anh Bình giả làm dân lành sống như các gia đình khác tại một căn nhà cạnh bìa rừng để hoạt động. Cuộc sống rẵt nguy hiểm bẵt trắc vì quân Pháp bố ráp thường xuyên. Hơn một lặn anh Bình bảo chị: "Em nên tìm cách về Sài Gòn liên lạc với bà con bên ngoại cüa anh tìm đường về Huế ở với cha mẹ một thời gian. Kháng chiến thành công anh sẽ về đón em." Thế rổi lần lữa quen với hiểm nguy chị bịn rịn không rời anh được.
Một buổi sáng trước rạng đông, một tiểu đội lính Pháp ập vào chòi lá anh chị đang ẩn náu, chîa súng nạt nộ bắt anh dong tay, lục xét muốn đánh anh Bình ngay. Thấy anh Bình nói tiếng Pháp lưu loát chúng cũng nể không hành hung
anh tại chỗ.
Khi bị dẫn đi anh mặc một sơ mi trắng đã ngả màu, bên ngoài khoác một chiếc áo len màu đỏ do chính tay chị đan, quần sọt kaki vàng, chiếc răng cời của anh như chú hỏi vẫn còn nguyên.
Hôm sau, chị bôi mặt mày giả dạng bà già đi với chị Bảy, bạn cùng xóm tìm đến đồn lính Pháp. Họ cho thăm. Anh Bình khuyên chị trốn đi, vài hôm được thả anh sẽ kiếm chị.
Chị trở về nương náu nhà anh chị giáo Trinh chờ tin anh. Bữa hôm sau, một buổi sáng chị và chị Trinh vào rừng kiếm cüi trở về, vừa trông thẵy chị, anh giáo Trinh vừa khóc vừa nói: "Chị ơi! liên lạc vừa đến báo tin anh Bình đã bị
chúng giết chết rồi. Chúng bắn anh trên cầu Bến Củi trước mắt dân chúng để thị uy, xong đá xác anh xuống sông."
Chưa nghe hết câu chị ngả lăn bất tỉnh không biết bao lâu, nhờ vợ chồng anh giáo Trinh cứu chữa mới tỉnh lại. Sau đó chị lên cơn sốt liên miên. Nằm trong chòi lá chị chờ tin liên lạc viên kiếm xác anh. Các cụ già nói xác trôi sông
nhiều lắm ba ngày sẽ nổi lên. Chờ mãi không có tin tức gì. Chị nghe nói sông Bến Lức chảy về Thủ Dầu Một rồi ra sông lớn.
Không còn hy vọng kiếm được xác anh Bình để chôn cẵt, chị cùng gia đình anh giáo Trinh tìm đuờng về Thü Dặu Một . Từ đó chị về Sài gòn, may kiếm đuợc gia đình anh Khánh, bà con xa bên ngoại của anh Bình. Chị bán mấy chiếc áo cưới, thêm chút tiền giúp đỡ của anh chị Khánh ra Vủng Tàu, đi tàu thủy ra Hải Phòng, từ đó lấy tàu điện lên Hà nội, rổi đi xe lừa về Huế. Chị không thể kể lại hết mọi gian truân của chuyến đi hai tháng đó. Nhiều lúc tưởng chừng không thể mang xác về đến quê hương. Lúc đó chị vừa 18 tuổi.
Chị hy vọng với những chi tiết trên và vong hổn linh thiêng của anh Bình sẽ giúp chú định được mộ phần của anh.
Chị cầu nguyện và chờ thư chú."
* * *
Được thư Giang thông báo, năm sau từ Los Angeles Vạn đến Geneve thăm gia đình chị Linh. Trở về Vạn viết cho anh:
"Anh Giang,
Nhân có việc đi Thụy Sî em có đến thăm chị Linh và gia đình. Đã hẹn trước nên chỉ có anh chị Linh ở nhà. Chị nhìn em bỡ ngỡ không ngờ gặp lại chú bé em chồng cũ năm xưa.Chị nấu bún bò Huế đãi em, và anh Hùng tự tay mở rượu chát để mời em.
Câu chuyện trao đổi thân tình ấm áp mặc dù đối với anh Hùng em là người xa lạ, và đối với chị Linh em là hiện thân cüa một ky niệm đau buổn nhẵt của đời chị. Cả ba người đều không nhắc đến anh Bình, mẳc dù không ai quên.
Khi em đến chị Linh chào em, không ôm em vào lòng theo lối tây phương, nhưng lúc đưa em ra cửa chị ôm em vào lòng dấu vội mấy giọt nước mắt nói nhỏ: 'Chú giống anh Bình quá!' Chị không cùng với anh Hùng tiển em ra xe, chị đứng ở ngưỡng cửa nhìn theo."
* * *
Từ đó mỗi lặn đi Âu châu Vạn không đến thăm chị Linh nữa. Vào dịp Tết Vạn cũng không gửi thiệp chúc Tết chị. Vạn vẫn nhớ thương chị, nhưng chị cần được sống bình an.
  

THƠ NGUYỄN VĂN TÀI

Hạ buồn

  Gió trưa hè dìu dịu,

  Vương nỗi buồn hắt hiu.  
Gió từ xa thổi tới, 
Làm chạnh nhớ người yêu. 
 Một mùa hạ năm nao,  
Cùng sánh bước bên nhau. 
 Yêu anh nhiều, em bảo,  
Xây hạnh phúc cùng nhau.  
Rồi hạ buồn ập đến,  
Em bât ngờ bị bệnh  
Không thuốc thang cứu chữa, 
 Giã biệt đời buồn tênh! 
 Nguyễn Văn Tài    

TRẦN HỒNG CHÂU * CHIÊM BAO

Chiêm Bao
Trần Hồng Châu

                                                                   Tranh Hồ Anh  

 Đêm đêm mộng mị hên xui, 
  Bỗng dưng thức dậy bùi ngùi làm sao!  
Đời người một giấc chiêm bao,  
Rượu ngon đã sẵn xin vào cuộc chơi!  
Giờ đây nghiêng ngửa đất trời, 
 Lại thua cháy tùi may hời câu thơ!  
Cố nhân thồi đã hững hờ,  
Nào đâu sự ngghiệp mà chờ mai sau
.  Cố nhân trời đổ mưa mau, 
 Cung đàn lênh loảng ngồi sầu thế gian. 
 Nghiệp văn gạn lọc phân vân, 
 Có, không hai chữ cõi trần tiêu hao.  
Ngoài hiên vàng rụng trăng sao,
  Tiếng đêm hòa nhịp đi vào hồn ai.
  Ý thơ sao cứ u hoài,  
Trắng tinh giấy trắng vẫn hoài trắng  tinh.    

NGUYỄN VĂN SÂM * VĂN HỌC NAM HÀ

Văn học Nam Hà
Nhà thơ của quê hương và bằng hữu
Trịnh Hoài Đức


Người Minh Hương đã ba đời ở Việt Nam,
Trịnh Hoài Đức cùng với Lê Quang Định và Ngô
Nhân Tịnh đều là học trò của Võ Trường Toản
được người đồng thời gọi bằng biệt hiệu “Gia Định
tam gia 嘉 定 三 家”.
Tổ tiên ông là người huyện Trường Lạc, tỉnh
Phước Kiến chạy loạn Mãn Thanh ở Trấn Biên
(Biên Hoà). Ông tên tự là Chỉ Sơn, hiệu Cấn Trai,
sanh năm 1765, lớn lên không theo Tây Sơn nên
khi Chúa Nguyễn mất Gia Định ông tránh loạn qua
Cao Miên, về sau ra giúp Nguyễn Ánh (đỗ khoa thi
đầu tiên ở Gia Định năm 1788). Khi Gia Long lên
ngôi Trịnh Hoài Đức được phong làm Hộ Bộ
thượng thơ cử sang sứ Trung Hoa (1802 - 1803) để
cầu phong.
Sau khi đi sứ về, ông được cử làm việc ở Gia
Định thành (1805). Từ măm 1812 ông giữ chức Lễ
Bộ Thượng Thơ rồi Lại Bộ Thượng Thơ (1813 -
398 Nguyễn Văn Sâm
1816). Sau đó lại làm việc ở Gia Định1 (1816 -
1820).
Minh Mạng lên ngôi (1820) ông được triệu
về Huế giữ lại chức vụ Lại Bộ Thượng Thơ, năm
sau, 1821, được thăng lên Hiệp Biện Đại Học Sĩ coi
cả hai bộ Lại và Binh.
Ông từ trần năm 1825.
Tác phẩm:
* Gia Định thành thông chí 嘉定城通誌2.
* Cấn Trai thi tập 艮齋詩集.
* Gia Định tam gia tập 嘉定三家集.
Cũng nên nhắc lại “Gia Định tam gia tập”
gồm 6 phần trong 6 quyển:
Quyển I: Tinh dã chí
1 Với chức vụ Hiệp Tổng Trấn (tức là Phụ Tá Tổng Trấn,
Tổng Trấn lúc đó là Nguyễn Huỳnh Đức).
2 “Gia Định thành thông chí” ngay khi người Pháp mới đến
Việt Nam đã dịch ra tiếng Pháp. Bản dịch của G. Aubaret,
xuất bản theo lịnh của Bộ Trưởng Hải quân và thuộc địa
Chasseloup - Laubat (Imp. Impériale 1863) gồm 13 trang dẫn
nhập 359 trang dịch, có cả bản đồ. Tuy nhiên Aubaret đã
không dịch phần Thành Trì Chí 城 池 誌 là phần quan trọng
của bộ sách, phần nói về thương mại, giao thông cũng như
thành trì của Gia Định hồi đầu thế kỷ 19.
Văn học Nam Hà
399
Quyển II: Sơn xuyên chí
Quyển III: Cương vực chí.
Quyển IV: Phong tục chí.
Quyển V: Sản vật chí.
Quyển VI: Thành trì chí.
Với bộ sách nầy, Trịnh Hoài Đức đã cho
chúng ta biết được rất nhiều điều về đời sống,
phong tục, di tích ở Gia Định cách đây gần 200
năm mà ngày nay hoặc đã mất, hoặc thay đổi nhiều.
Tư tưởng của Trịnh Hoài Đức nằm trong các
tác phẩm1 :
* “Gia Định tam gia tập” gồm những bài thơ
của ông và của hai người bạn: Lê Quang Định và
Ngô Nhân Tịnh (cũng đều là người Minh Hương).
1 Ở đây chúng tôi nhắc lại lời đính chánh của Ngạc Xuân, Ca
Văn Thỉnh và Đông Hồ về một tác phẩm được gán cho Trịnh
Hoài Đức: “Minh Bột di ngư văn thảo”. Sách nầy các tác giả
“Việt Nam sử lược”, “Văn Đàn Bảo Giám”, “Hợp tuyển văn
thơ” đều cho là của Trịnh Hoài Đức, thật ra Trịnh Hoài Đức
chỉ có công cho khắc in lại sáng tác phẩm của Mạc Thiên
Tích vốn từ lâu bị mai một mà thôi. Cũng như ông đã cho
khắc in tập “Gia Định tam gia thi 嘉定三家詩” (tác phẩm
của ông và những người bạn).
400 Nguyễn Văn Sâm
* “Cấn trai thi tập” là quyển thơ gom góp
những bài ông sáng tác trong khoảng 1782 - 1818.
Tập nầy đã được khắc in; gần đây Sở Nghiên Cứu
Tân Á, (thuộc Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á)
dưới sự điều khiển của Giáo Sư Trần Kinh Hòa, đã
cho in lại. Theo đó, Cấn Trai thi tập gồm 5 phần:
1. Tựa và bạt của tác giả và 3 người đồng
triều: Nguyễn Địch Cát, Ngô Thời Vị, Cao Huy
Dược.
2. Thối thực truy biên tập 退 食 追 編 集 :
gồm 127 bài thơ sáng tác từ 1782 đến 1801.
3. Quan Quang tập 觀 光 集 : gồm 152 bài
thơ sáng tác từ 1802 đến 1803 khi tác giả đi sứ1.
4. Khả dĩ tập 可 以 集: gồm 48 bài thơ và
văn xuôi, sáng tác từ 1804 đến 1818.
5. Tự truyện: ghi về gia đình, hoạn lộ, cuộc đi
sứ, và lý do ấn hành tập thơ nầy, đề năm thứ 18 đời
Gia Long (1819).
Trong chiều hướng tìm hiểu văn học Nam
Hà, chúng tôi chỉ nói về “Thối thực truy biên tập”
và tìm hiểu tư tưởng của Trịnh Hoài Đức trong gia
1 Ở Việt Nam các nhà viết văn học tách rời ra và cho rằng
Trịnh Hoài Đức có “Cấn trai thi tập” và “Bắc sứ thi tập”; thật
ra “Bắc sứ thi tập” là “Quan Quang tập” và nằm trong “Cấn
trai thi tập”.
Văn học Nam Hà
401
đoạn 1782 - 1801 mà thôi. Phần còn lại của tư
tưởng ông, nếu có thể chúng tôi sẽ viết tiếp khi nói
về văn học Nam Kỳ Lục tỉnh.
“Thối thực truy biên tập” gồm 127 bài thơ
chia ra như sau:
- Ngũ ngôn tuyệt cú: 3 bài.
- Ngũ ngôn luật: 15 bài.
- Thất ngôn tuyệt cú: 10 bài.
- Thất ngôn luật: 99 bài.
Qua số thi phẩm Trịnh Hoài Đức sáng tác
trước năm 1802 ta ghi nhận được phần nào con
người của ông, một con người nhiều tình cảm:
- Yêu mến thiên nhiên, thân thuộc với sinh
hoạt của đồng quê Việt Nam.
- Bộc lộ tình thương với nhân dân, với bạn
hữu, với người chung quanh.
A. Trịnh Hoài Đức, người mô tả sinh hoạt
thôn quê.
Mặc dầu là người Minh Hương, Trịnh Hoài
Đức rất gắn bó với vùng đất Nam Hà nói riêng, đất
nước Việt Nam nói chung, miền quê hương đã nuôi
dưỡng ông.
Tình cảm của ông bộc lộ bằng nhiều bài thơ,
trong đó nếp sống người dân miền thôn dã đã được
quan sát tỷ mỷ và ghi nhận một cách tinh tế. Có thể
402 Nguyễn Văn Sâm
nói ông đã hòa đồng tâm hồn mình với sinh hoạt
miền quê bởi vì nó yêu mến, có cảm thấy thân
thuộc với những hoạt cảnh chung quanh mới ghi lại
được những hình ảnh tế vi, những công việc tầm
thường, không tên của người dân vùng rẫy bái.
Trong thơ ông, người đọc gần như không thấy cảnh
mùa thu bên Trung Quốc, cảnh tuyết rơi, cành liễu
rủ những cảnh nhà thơ không thấy mà tả, trái lại
thơ ông là một bức ảnh chụp đời sống, công việc
của đồng quê với những cố gắng tranh thủ cùng
thiên nhiên để tự tồn của những người dân đi khai
phá vùng đất mới.
Bài thơ “Chu thổ sừ vân” ông ghi lại cảnh tận
lực của người dân trong việc phá rừng, tưới nước,
cày bừa để khai thác vùng đất hoang phế mà những
người trước ở đây đã không biết tận dụng:
Nguyên văn:
鎮 邊 朱 土 海 之 陬
破 曉 鋤 雲 牧 子 儔
赤 縣 昏 霾 犁 殆 盡
黑 壚 蕪 穢 闢 將 周
雨 饒 山 澗 晨 開 堰
草 裕 春 堤 晚 放 牛
萬 頃 胭 霞 收 拾 足
Văn học Nam Hà
403
歸 來 初 月 荷 肩 頭
Phiên Âm:
Trấn Biên chu thổ hải chi tưu?
Phá hiểu sừ vân mục tử trù.
Xích huyện hôn mai lê đãi tận,
Hắc lô vu uế tịch tương chu.
Vũ nhiêu sơn giản thần khai yển.
Thảo dụ xuân đê vãn phóng ngưu.
Vạn khoảnh yên hà thu thập túc,
Qui lai sơ nguyệt hạ kiên đầu.
(Chu thổ sừ vân)
Tạm dịch:
Nơi Trấn Biên có miền đất đỏ.
Liền biển xanh một dải mênh mông.
Trời hôm vừa lóe rạng đông,
Từng đàn lũ lượt ra công dựng làng.
Gần đô thị cây hoang phá rạp,
Đất đen xì vỡ nát dưới tay.
Nhờ mưa khe núi nước đầy,
Sáng đi tháo đập nuôi cây tốt vườn.
Mùa xuân tới bờ đê cỏ mượt,
Chiều trẻ con mặc sức chăn trâu.
Muôn vườn sương khói một màu.
Người người ra sức cùng nhau cấy cày.
Trăng non vừa gác mái tây,
Nông phu vác cuốc khoan thai đi về.
(Đất đỏ bừa trong mây)
404 Nguyễn Văn Sâm
Trong thơ của Trịnh Hoài Đức ta còn thấy cả
hoạt cảnh của nông thôn như nhóm chợ dưới bóng
đa, tiều phu ra quán mua rượu, nông phu đi xem
bói, trai tráng giữ gìn làng xóm. Sản phẩm căn bản
của miền quê như thịt thú rừng, tôm cá ... cũng
được ông nói đến. Tất cả những chi tiết đó họp lại
trong một bài thơ Đường có thể làm mất thi vị phần
nào nhưng bù lại bộc lộ được một tình yêu bao la,
vô bờ của tác giả đối với miền đất ông đang sống,
bởi vì chính những thứ đó đã tạo cho ông niềm
rung cảm, ông yêu thích những sinh hoạt, những
tình tiết mà người khác có thể bảo là tầm thường.
Bài “Ngư tân sơn thị” được tạo bằng những yếu tố
rất “tầm thường” đó:
Nguyên Văn:
翠 藹 山 屏 障 水 鄉
榕 陰 蔽 芾 市 廛 涼
田 禽 獵 獸 充 松 肆
篦 蜆 罾 魚 滿 竹 坊
買 酒 樵 歸 酤 店 寂
占 年 農 返 卜 亭 荒
舟 車 幸 免 憂 強 盗
林 藪 英 雄 任 職 方
Phiên Âm:
Văn học Nam Hà
405
Thúy ái sơn bình chướng thủy hương,
Dung âm tế phế thị triền lương.
Điền cầm liệp thú sung Tùng tứ,
Tì hiện tăng 1 ngư mãn Trúc phường.
Mãi tửu tiều qui cô điếm tịch.
Chiêm niên nông phản bốc đình hoang.
Chu xa hạnh miễn ưu cường đạo,
Lâm tẩu anh hùng nhậm chức phương.
(Ngư tân sơn thị)
Tạm Dịch:
Sông xanh, núi biếc chắn bình phong,
Bóng mát cây đa, buổi chợ đông.
Săn bắn, chợ Tùng nhiều giống thú,
Đó đăng, phố trúc lắm cá sông.
Rượu xong tiều lại, hàng thêm vắng,
Quả được nông về, miếu trống không.
Lui tới xe thuyền không sợ cướp,
Khắp nơi, hào kiệt đã đề phòng.
(Phiên chợ núi bến cá)
Hình Minh Đức dịch.
Tình cảm của ông đối với vùng quê nơi ông
trú ngụ bộc lộ ở cả những chi tiết nhỏ nhặt của địa
phương: Một cái chợ nhỏ, một cây cầu trong xóm,
một con sông, một vọng gác, một ánh lửa chài. Ông
yêu mến những thứ đó và cho rằng cuộc sống hiền
1 Bản cũ, phần chữ Hán đánh chữ cổ 罟, sửa là tăng 罾 theo
phần phiên âm thì mới thuận liêm luật.
406 Nguyễn Văn Sâm
hòa, bình dị sung túc của dân địa phương có được
nhờ sự cần mẩn làm việc: bài “Mỹ Tho dạ vũ”.
Nguyên Văn:
美 湫 夜 雨 z
濯 纓 唱 罷 月 沈 西
灑 淅 湫 江 雨 正 淒
槐 市 潮 堆 榆 莢 串
棕 橋 雲 擁 石 牛 泥
光 寒 柳 浦 漁 船 火
聲 濕 梅 城 戍 寨 鼙
萬 頃 明 朝 呈 合 穎
桑 林 無 事 禱 虔 齏
Phiên Âm:
Trạc anh xướng bãi nguyệt trầm tê,
Tiêu tích Tho giang vũ chính thê.
Hòe thị trào đôi du giáp quán,
Tông kiều vân ủng thạch ngưu nê.
Quang hàn liễu phố ngư thuyền hỏa,
Thanh thấp mai thành thú trại bề.
Vạn khoảnh minh triêu trình hợp dĩnh,
Tang lâm vô sự đảo kiền tê.
(Mỹ Tho dạ vũ)
Văn học Nam Hà
407
Tạm dịch:
Hát khúc “trạc anh”(1), trăng gác tê.
Mưa đêm sông Mỹ, kéo lê thê.
Nước giăng Hòe thị, du thành đống.
Mây phủ Tông kiều, trâu (2) bị che
Bến liễu, lửa chài soi bóng lạnh,
Thành mai, tiếng trống vọng tư bề.
Sáng mai, lúa trổ tràn đồng rụông,
Đâu phải Tang lâm (3) đợi mưa về!
(Mưa đêm ở Mỹ Tho)
Huỳnh Minh Đức dịch
Tình cảm của Trịnh Hoài Đức với đồng quê,
ruộng vườn, sinh hoạt của miền Nam còn bộc lộ
trong nhiều bài thơ khác nằm ở tập “Thối thực truy
biên” xin trích ra đây 2 bài:
- Tạp vịnh về cảnh thôn quê ở Long Tịch.
- Mùa thu với người làm ruộng.
1 Trạc anh: giặt giải mũ; Khuất Nguyên, bài ngư phủ từ có
câu: “ Thương Lang chi thủy thanh hề, khả dĩ trạc ngô anh” =
nước sông Thương Lang trong ta có thể giặt giải mũ. Ở đây
có lẽ dân chúng hát một bài ca tụng cảnh đẹp của sông ở Mỹ
Tho.
2 Trâu: con trâu đá, xưa bên Trung Quốc cầu đá, chân thường
được đẽo hình con trâu. Đây có nghĩa chân cầu.
3 Tang Lâm: Vua Thành Thang nhà Thương cầu đảo ở rừng
Tang lâm khi nước nhà bị hạn hán.
408 Nguyễn Văn Sâm
Nguyên Văn:
I.
學 童 霜 履 虹 橋 去
釣 叟 烟 凌 水 滸 歌
村 落 生 捱 勤 少 婦
簷 前 邀 月 揀 棉 花
II.
地 枕 晨 昏 南 北 市
門 迎 潮 汐 去 來 舟
夜 深 風 過 花 窗 下
嘈 贊 書 聲 傍 水 流
龍 席 村 居 雜 咏
Phiên Âm:
I. Học đồng sương lý hồng kiều khứ,
Điếu tẩu yên lăng thủy hử ca.
Thôn lạc sinh nhai cần thiếu phụ,
Thiềm tiền yêu nguyệt giản miên hoa.
***
II. Địa chẩm thần hôn Nam Bắc thị,
Môn nghinh triều tịch khứ lai chu.
Dạ thâm phong quá hoa song hạ.
Tào tán thư thanh bạng thủy lưu.
Văn học Nam Hà
409
(Long Tịch thôn cư tạp vịnh)
Tạm Dịch:
I. Cầu vòng, trò nhỏ trong sương sớm.
Ông lão buông cần cất tiếng ca.
Lặn lội thân cò người thiếu phụ,
Ngồi trông trước cửa nhặt cành hoa.
***
II. Bắc Nam, phiên chợ khi hôm sớm,
Xuôi ngược, ghe thuyền nước thủy triều.
Gió thổi cửa hoa, đêm sắp sáng.
Rì rào đọc sách, nước trôi nhiều.
(Tạp vịnh về cảnh thôn quê ở Long
Tịch)
Nguyên Văn:
田家 秋 雨
禾 稻 離 離 草 樹 秋
田 家 三 五 曲 江 流
耳 生 黍 黑 聲 偏 細
雨 足 苔 黃 滑 未 收
破 塊 寒 催 畦 畔 雁
霑 坭 淨 洗 隴 頭 牛
攜 壺 擬 慶 豐 年 澤
簑 笠 農 夫 訪 酒 舟
410 Nguyễn Văn Sâm
Phiên Âm:
Hòa đạo ly ly thảo thụ thu,
Điền gia tam ngũ khúc giang lưu.
Nhĩ sinh thử hắc thanh thiên tế,
Vũ túc đài hoàng hoạt vị thu.
Phá khối hàn thôi huề bạn nhạn,
Triêm nê tịnh tẩy lũng đầu ngưu.
Huề hồ nghĩ khánh phong niên trạch,
Toa lạp nông phu phóng tửu chu.
(Điền gia thu vũ)
Tạm Dịch:
Cỏ cây hiu hắt, lúa đòng đòng,
Đây đó dăm nhà dọc bến sông.
Mưa nhẹ, lúa đen chừng nảy nhánh,
Mưa dầm, rong ướt, độ vàng đồng.
Nhạn nấp vỡ đê, tràn tung cánh.
Trâu nằm ghềnh ướt, ngập cánh đồng.
Được mùa ta quảy theo bầu rượu,
Áo nón rượu ghe mấy bác nông.
(Mưa thu với người làm ruộng)
Yêu mến, thân thuộc với sinh hoạt đồng quê
vùng Gia Định để đem những hình tượng nầy vào
thi phẩm mình, Trịnh Hoài Đức vẫn thấy chưa đủ,
ông còn sống với những sinh hoạt đó, đi xa ông
tưởng nhớ và muốn gặp lại, ông hình dung trong trí
những phong cảnh nơi mình đã từng sống, từng
thân thiết và tự hỏi ở quê nhà có ai thưởng thức các
cảnh đẹp đó không.
Văn học Nam Hà
411
Bài thơ “Mùa thu đất khách cảm tác” bộc lộ
lòng nhớ nhung của ông khi sống ở đất “Biển Hồ”.
Nguyên văn:
秋 日 客 中 作
陶 朱 慣 逐 五 湖 遊
薤 簞 涼 回 不 覺 秋
蜂 鼓 胡 群 迎 水 起
雞 銀 唐 賈 換 榔 投
將 蕪 松 菊 空 來 月
正 美 蓴 鱸 尚 繫 舟
虛 負 家 庄 重 九 約
棉 花 狂 絮 亂 撩 愁
Phiên âm:
Đào Chu quán trục Ngũ hồ du,
Giới đạn lương hồi bất giác thu.
Phong cổ Hồ quần nghinh thủy khởi.
Kê ngân Đường cổ hoán lang đầu,
Tương vu tùng cúc không lai nguyệt,
Chính mỹ thuần lô thượng hệ chu.
Hư phụ gia trang trùng cửu ước,
Miên hoa cuồng nhứ loạn liêu sầu.
(Thu nhật khách trung tác)
412 Nguyễn Văn Sâm
Tạm dịch:
Đào Chu quen thói ngũ Hồ du,
Chiếu lạnh đêm nằm chẳng chở thu.
Chiêng trống dân Hồ mê đón nước,
Trút tiền chú Khách đón mua cau.
Cúc tùng hoang dại, trăng suông bóng,
Thuyền buộc lòng ai nhớ cá rau.
Trùng cửu hẹn rồi, lên dạo núi.
Hoa bay tản mạn, khiến ai sầu.
(Mùa thu đất khách cảm tác)
B. Trịnh Hoài Đức, người bộc lộ tình cảm với
thời thế, bạn bè.
Là người giàu tình cảm, yêu thích những hình
ảnh nhỏ nhặt của thôn quê rẫy bái, Trịnh Hoài Đức
còn để lòng mình đi xa hơn: thơ ông bộc lộ lòng ưu
ái với bạn bè, thời thế. Với bạn, khi phải chia tay
ông bịn rịn, âu sầu; bạn đi, ông nhìn mọi vật dưới
khía cạnh buồn thảm: chim liệng chập chờn, mây
bay mờ mịt, và than thở không biết bao giờ gặp lại
bạn.
Trong “Thối thực truy biên tập” những bài
thơ tiễn bạn rất nhiều, xin trích ra đây bài “Tiễn
Ngô Nhữ Sơn đi Quảng Đông”.
Nguyên văn:
送 吳 汝 山 之 廣 東 :
Văn học Nam Hà
413
惜 別 相 酬 酒 慢 斟
霸 橋 詩 句 不 成 吟
家 貧 母 病 吾 多 累
國 亂 鄉 離 汝 遠 臨
龍 席 差 池 飛 燕 羽
虎 門 寤 寐 暮 雲 心
太 平 慶 會 知 何 日
淚 滴 悲 絲 動 古 今
Phiên âm:
Trích biệt tương thù tửu mạn châm,
Bá kiều thi cú bất thành ngâm.
Gia bần, mẫu bệnh, ngô đa lụy,
Quốc loạn, hương ly, nhữ viễn lâm.
Long tịch si trì phi yến vũ,
Hổ môn ngộ mị mộ vân tâm.
Thái bình khánh hội tri hà nhật,
Lệ thích bi ty động cổ câm.
(Tống Ngô Nhữ Sơn chi Quảng Đông)
Dịch thơ:
Thù tạc vơi đầy chén tiễn đưa;
Bá Kiều (1) ngâm chẳng trọn vần thơ.
1 Cầu ở phía đông huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây, bắc
ngang sông Bá Thủy, người xưa phần nhiều tiễn biệt ở đó.
414 Nguyễn Văn Sâm
Nhà nghèo, mẹ bệnh, tôi nhiều lụy,
Nước loạn, quê lìa, bạn lánh xa.
Long Tịch (1) xập xòe chim én liệng,
Hổ Môn (2) thức ngủ ánh mây mơ.
Bao giờ mở hội thanh bình nhỉ?
Lệ nhỏ, ngàn xưa não tiếng tơ.
(Tiễn Ngô Nhữ Sơn đi Quảng Đông)
Bài thơ trên còn bộc lộ tình yêu quê hương và
mối cảm khái của ông đối với thời thế, ông than thở
vì mình phải lìa xa quê mẹ và buồn bã vì chinh
chiến kéo dài (Thái bình khách hội tri hà nhật! ).
Trong bài “Thương loạn” nỗi đau buồn của
ông khi chứng kiến cảnh loạn ly còn nhiều hơn
nữa. Ông khóc vì sự khổ ải của dân chúng, vì cảnh
chết chốc tràn đầy mọi nơi, vì thảm trạng thê lương
giãi bày trước mắt. Ông trách trời cao đã không
nhìn thấy những hình ảnh đó.
Giọng văn ông bi thiết, oán trách tỏ mối cảm
hoài rất sâu đậm, tình cảm bộc lộ vì chứng kiến sự
đớn đau của người chung trong thơ Trịnh Hoài Đức
thật bao la:
Nguyên văn:
傖 亂 :
1 Tên thôn của tác giả.
2 Cửa bể ở Quảng Đông.
Văn học Nam Hà
415
回 首 京 華 淚 暗 垂
生 民 荼 毒 市 朝 移
柳 營 雨 急 將 星 墜
花 縣 春 荒 戰 馬 馳
飽 食 鴉 鴉 郊 噪 喜
無 依 燐 鬼 夜 啼 悲
江 流 半 是 英 雄 血
真 宰 冥 冥 知 不 知
Phiên âm:
Hồi thủ kinh hoa lệ ám thùy,
Sinh dân đồ độc thị triều di.
Liễu doanh (1) vũ cấp tướng tinh trụy,
Hoa huyện (2) xuân hoang chiến mã trì.
Bão thực nha nha giao táo hỉ,
Vô y lân quỷ dạ đề bi.
Giang lưu bán thị anh hùng huyết3,
Chân tể minh minh tri bất tri?
(Thương loạn)
1 Trại Tế Liễu, đời Hán, Chu Á Phu đi đánh Hung Nô, đóng
quân ở Tế Liễu. Về sau, người ta dùng từ ngữ “Doanh Liễu”
để chỉ trại quân.
2 Đời Tấn, Phan Nhạc làm quan lệnh huyện Hòa Dương,
khắp trồng nhiều đào, lý, vì thế gọi là Hoa huyện.
3
416 Nguyễn Văn Sâm
Tạm dịch:
Kinh sư nhòa lệ ngoảnh đầu trông,
Triều chợ, sinh linh cảnh hãi hùng.
Doanh Liễu mưa mau, sao tướng rụng.
Huyện Hoa xuân vắng, chiến câu giong,
No nê đàn quạ kêu mừng rỡ,
Vất vưởng ma trơi hú não nùng.
Pha máu anh hùng, sông một nửa;
Trời cao mờ mịt biết hay không ?
(Cảm thương cảnh loạn lạc)
(Nguyễn Khuê dịch)
Tình cảm bộc lộ với bạn bè, với thời thế
trong thơ của Trịnh Hoài Đức có thể đặc trưng
trong hai bài khóc Võ Tánh và Ngô Tùng Châu.
Hai bài rất hay, dễ gây cảm xúc cho người
đọc, đồng thời biểu hiện được khí tiết anh dũng của
những người chết theo thành Bình Định. Nếu Đặng
Đức Siêu thành công với bài văn tế nhờ lời văn bi
thiết thì Trịnh Hoài Đức cũng rất đáng được lưu ý
nhờ ông trình bày được thái độ ung dung, điềm tĩnh
trước cái chết (hỏa đồng tâm cộng xích, bồi tửu
tùng dung) của hai vị tướng cùng chết theo thành.
Hai bài thơ còn ca tụng Võ Tánh, Ngô Tùng
Châu, coi những vị nầy như những người có công
lớn với quốc gia, đáng được miếu đường tế tự:
Nguyên văn:
Văn học Nam Hà
417
三 載 身 經 百 戰 中
城 孤 糧 絕 困 英 雄
突 圍 不 忍 心 為 席
報 國 惟 知 我 匪 躬
八 角 火 同 心 共 赤
千 秋 名 與 日 爭 紅
他 年 擬 倣 雲 苔 畫
相 將 應 推 弟 一 功
**
平 生 所 學 已 收 功
杯 酒 從 容 節 慨 雄
一 死 為 仁 酬 帝 卷
千 秋 南 越 振 文 風
妖 氛 辟 易 寒 西 賊
義 氣 昭 回 並 武 公
從 此 知 鄉 多 有 後
綿 綿 祭 祀 國 家 同
Phiên âm:
I. Tam tải thân khinh bách chiến trung,
418 Nguyễn Văn Sâm
Thành cô lương tuyệt khốn anh hùng,
Đột vi bất nhẫn nhân vi tịch.
Báo quốc duy tri ngã phỉ cung.
Bát giác hỏa đồng tâm cộng xích,
Thiên thu danh dữ nhật trang hồng,
Tha niên nghĩ phỏng vân đài hoạ.
Tướng tướng ưng suy đệ nhất công.
****
II. Bình sinh sở học dĩ thu công
Bồi tửu tùng dung tiết khái hùng.
Nhứt tử Qui Nhơn thù đế quyển,
Thiên thu Nam Việt chấn văn phong.
Yên phân (w1) tích dịch hàn Tây tặc.
Nghĩa khí chiêu hồi tịnh Võ công.
Tùng thử tri khanh đa hữu hậu,
Miên miên tế tự quốc gia đồng (2).
1 Bản in do Southeast Asia studies section, New Asia
Research Instute, xuất bản năm 1962 tại Hương Cảng đề là
“Yêu Khí” như vậy vừa thất niêm vừa trùng với chữ “Nghĩa
khí” ở câu dưới. Ở đây chúng tôi theo bản khắc cũ hiện tàng
trữ tại Viện Khảo Cổ.
2 Hai bài nầy trong nguyên bản không thấy đề tựa, chỉ có
đoạn văn của tác giả, xin dịch ra đây để góp một phần sử liệu
về việc thành Bình Định:
Tháng tư năm Kỷ Vị quân vua chiêu hàng thành Qui Nhơn,
sai Chưởng Hậu quân Bình Tây Tham Thừa Tướng Quân
Quận công Võ Tánh, Lễ Bộ Chánh Hầu Ngô Tùng Châu trấn
giữ tháng mười hai. Ngụy tướng Nguyễn Diệu (Trần Quang
Diệu) đem đại binh vây hãm tháng tư năm Canh Thân. Quân
Văn học Nam Hà
419
Dịch thơ:
Trăm trận ba năm ở giữa vòng,
Thành cô, lương hết, khốn anh hùng.
Phá vây chẳng nỡ đem người thí,
Báo quốc riêng bền giữ dạ trung.
Bát giác lòng son cùng lửa đỏ,
Thiên thu danh rạng sánh trời hồng.
Đài mây những nghĩ sau nầy họa,
Văn võ nên tôn đệ nhất công.
***
Bình sinh sở học đã nên công,
Chén rượu ung dung, tiết tháo hùng.
Một chết Qui Nhơn đền nghĩa Chúa,
vua cứu viện, chưa giải vây được, mùa hạ năm Tân Dậu ngự
giá thừa hư tiến chiếm Phú Xuân, lại ra lệnh sai Khâm Sai
Chưởng Tả quân Bình Tây Tướng quân Quận Công Lê Văn
Duyệt tiến đóng Quãng Ngãi, đánh sau lưng giặc. Tôi phụng
mệnh theo quân cấp phát lương hướng. Bãy giờ thành Qui
Nhơn bị vây lâu, trong ngoài cách trở. Hai ông Võ và Ngô
không nỡ phá vòng vây thoát thân, sợ tướng sĩ chết nhiều, mà
trong thành những tướng sĩ đầu hàng cũng lắm phen mưu việc
lạ, nhiều người ban đêm dòng dây xuống dưới thành để trốn,
lại thêm trong thành lương hết; ngày hai mươi bảy tháng năm,
ông Võ lên lầu bát giác tự thiêu trước, ông Ngô uống thuốc
độc tử tiết, để lệnh cấm hủy quân dụng, toàn thành ngụy cầu
sự sống cho ba quân. Tin buồn đến Quảng Nghĩa, mọi người
đều thương xót. Tôi nhân khóc hai ông, làm thơ ghi tiết của
hai bậc danh thần mà thôi, không phải dùng thơ để “kêu”.
420 Nguyễn Văn Sâm
Nghìn Thu Nam Việt chấn văn phong.
Hơi tà lui sợ, run Tây tặc (1)
Khí nghĩa đời soi, sánh Võ Công (2)
Mới biết từ đây ông có hậu,
Phụng thờ mãi mãi với non sông (3)
Chúng tôi không có tham vọng tìm hiểu cặn
kẽ con người của Trịnh Hoài Đức bộc lộ qua tất cả
thơ văn của ông, chúng tôi chỉ xin ghi lại một vài
bài thơ có tính cách tiêu biểu. Tuy nhiên ta cũng
nhận được tình cảm phong phú của tác giả với quê
hương thứ hai của ông qua các bài thơ ghi lại
những sinh hoạt của ruộng đồng Gia Định, với bạn
bè, với thời cuộc.
Không phải con người của Trịnh Hoài Đức
chỉ có bấy nhiêu, ông còn đáng cho ta chú ý vì có
một nhân sinh quan cao đẹp: không cầu danh lợi
“nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”, chỉ thích thiên
nhiên, thong dong không vướn bận. Bài thơ “Tửu
điếm xuân du” của ông bộc lộ đầy đủ đặc tính của
người có khuynh hướng thoát trần.
1 Quân Tây Sơn.
2 Võ Tánh.
3 Nguyên chú: Ngô Tùng Châu không có con nối. Khi dẹp
yên giặc, Võ Tánh được gia tăng Trung Hưng Đệ Nhất Công
Thần Thái Úy Quốc Công, Ngô Tùng Châu được gia tăng
Thái Tử Thái Sư Quốc Công, được tế vào mùa xuân và mùa
thu, mỗi ông lại được ban tự điền, dân phu thủ mộ theo đẳng
cấp khác nhau, ân trạch rất nhiều.
Văn học Nam Hà
421
Nguyên văn:
酒 店 春 遊 :
乘 興 飄 然 縱 玉 蹤
東 風 相 引 向 臨 邛
青 帘 招 飲 垂 新 柳
翠 蓋 迎 賓 挺 古 松
春 思 無 涯 隨 處 樂
人 生 適 意 幾 時 逢
解 闌 為 問 纓 塵 客
五 斗 如 何 酒 一 鍾
Phiên âm:
Thừa hứng phiêu nhiên túng ngọc tung,
Đông phong tương dẫn hướng lâm cung.
Thanh liêm chiêu ẩm thùy tân liễu,
Thúy cái nghênh tân đĩnh cổ tùng.
Xuân tứ vô nhai tùy xứ lạc,
Nhân sinh thích ý kỷ thời phùng.
Giải lan vị vấn anh trần khách,
Ngũ đẩu như hà tửu nhất chung?
(Tửu điếm xuân du)
Tạm dịch:
Nhân hứng thung dung dạo khắp vùng.
422 Nguyễn Văn Sâm
Gió đông dẫn lối đến Lâm Cung (1)
Rượu mời, liễu mới cờ xanh phất.
Khách đón, tùng xưa lọng biếc giong.
Xuân tứ mênh mông tùy chốn hưởng.
Nhân sinh mấy thuở thỏa lòng mong
Lợi danh hỏi khách khi tàn cuộc:
Năm đấu bằng chăng rượu một cung ?
(Chơi xuân quán rượu)
Trước khi chấm dứt phần nghiên cứu về
Trịnh Hoài Đức xin dẫn ra đây bài thơ đầu tiên
trong tập “Thối thực truy biên” thay lời kết luận để
chúng ta thấy thêm một khía cạnh khác của tác giả:
ý súc tích, văn bóng bẩy, cô đọng: “Liên” vừa mô
tả những tính chất của sen vừa ngụ ý trình bày sự
hàm dưỡng của mình.
Nguyên văn:
蓮 :
鬥 雪 委 梅 先
擎 霜 留 菊 後
自 行 乎 夏 時
長 養 千 年 藕
Phiên âm:
1 Tên đất thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Đời Hán Tư Mã Tương Như
đến Lâm Cung, Trác Văn Quân trốn theo Tương Như tại đây.
Văn học Nam Hà
423
Đấu tuyết ủy mai tiên,
Kình sương lưu cúc hậu.
Tự hành hồ hạ thời.
Trường dưỡng thiên niên ngẫu.
(Liên)
Tạm dịch:
Chống tuyết giao mai trước.
Che sương để cúc sau.
Tự đi vào mùa hạ,
Mầm sen sống rất lâu.
(Sen).
Phụ lục I
18 BÀI THƠ KHI ĐI SỨ
Tác phẩm của Trịnh Hoài Đức.
1. Vuông tròn trời đất nói khôn cùng,
Tháng bảy ngày rằm đến Quảng Đông.
Kẹo kéo lăng nhăng nhai chẳng đứt,
424 Nguyễn Văn Sâm
Tơ vò rối rắm gỡ hầu xong.
Nửa năm cơm thịt đôi tên khách.
Ngàn dặm non sông một cái tròng.
Chừ gặp cố nhân bày khoản khúc,
Kẻo đây thương đó, đó ngùi trông.
***
2. Ngúi trông nên phải gắng chìu lòn,
Tháng Tý ngày Dần đến Úc Môn.
Ngàn dặm ơn sâu lai láng biển,
Muôn trùng nghĩa nặng chập chồng non.
Dưới trời ai dễ không tôi chúa.
Trên đất người đều có vợ con.
Đồ sộ vật chi xem hỡi đấy,
Chẳng sau chẳng trước chẳng đen mòn.
***
3. Đen mòn sao đặng nghĩ cùng ta.
Năm nỉ cùng nhau việc cửa nhà.
Ít sống xưa nay người bảy chục,
Nhiều lo lui tới đạo năm ba.
Trăng tròn mặt ủ mây chưa vén.
Biển mặn lòng thường nước khó pha.
Cây có diễm vàng soi tỏ dạ,
Dễ đâu chẳng biết sự nhưng là.
***
4. Nhưng là muốn mở nẻo chông gai.
Bao quản đường xa mấy dặm dài.
Dưới nguyệt tham vui nên rót chén.
Trong sương chịu lạnh bởi tầm mai.
Đã cam mình chịu cây vô dụng,
Văn học Nam Hà
425
Chớ nệ ai chê đứa bất tài.
Nghĩ kể hai trăm năm có lẻ,
Xin đừng lần lựa sự nay mai.
***.
5. Nay mai còn có việc chưa tường,
Huống đã xa xuôi mấy dặm trường.
Dường nọ phải chăng còn nhộn nhộn,
Sự nầy khôn dại hãy ương ương.
Chanh ranh bởi đó sao lăng líu,
Mắc mỏ vì ai khéo vấn vương.
Trình với bao nhiêu người quyến thức.
Đem lòng quân tử mặc đo lường.
***
6. Đo lường lại giận sự con cua.
Tưởng đến càng thêm nỗi đắng chua.
Mây mịt mù che trời nhớ bạn,
Nước mênh mông chảy bể trông vua.
Đi cờ nhắm đó tay không thấp.
Điểm nước lo ai cuộc chẳng thua.
Cho biết làm người thì phải vậy.
Dễ đây chẳng biết một bàn vùa.
***
7. Một bàn vùa sạch đám hoang hung.
Phong cảnh như vầy phỉ luống trông.
Lối vịnh năm ba thuyền đỗ liễu.
Đêm non bảy tám hạc về tòng:
Vật còn chút biết trời khuya sớm,
Người dễ không hay đất lạnh lùng.
Nghĩ thấy chín trùng chưa khỏe gối.
426 Nguyễn Văn Sâm
Dám đây mình chịu phận thong dong.
***
8. Thong dong như vậy ít ai bì,
Mượn mõ làm vui dễ khó chi.
Thu hướng tám bài thơ Đỗ Phủ,
Đông ngâm một bức họa Vương Duy.
Cầm xoang chấm phím thương tri kỷ.
Cờ sắp thua con học chính sư.
Nguôi thế thì thôi nguôi dễ đặng.
Nguôi thì dễ đặng khó chi chi.
***
9. Chi chi nghe đến tấm lòng xiêu,
Chập chỗi tỳ bà dán hận nhiều.
Riêng trách chẳng vàng người vẽ dạng.
Tây than không bạc nịnh mua yêu,
Đất Hồ hoa ủ màn không lạt,
Trời Hán trăng tròn bóng xế theo.
Bao quản ngọc quan tình mấy dặm.
Mưa sầu gió thảm thuở Ban Siêu.
***
10. Ban Siêu bên núi bóng cờ giơ,
Tuyết trải năm ba hãy đợi chờ.
Lố dạng ác vàng lòng có Hán,
Liếc xem tuyết bạc mắt không Hồ.
Chống sương một cán cờ ngay thẳng.
Trải gió năm canh dãi phất phơ.
Vái hỏi xanh xanh kia biết chẳng.
Ngày nào về đặng nước nhà xưa?
***
Văn học Nam Hà
427
11. Nước nhà xưa có phụ chi ai,
Nhắn với bao nhiêu kẻ cõi ngoài.
Gắng sức dời non khoan nói tướng,
Trải lòng nâng vạc mới rằng trai.
Nắng sương chưa đội trời chung một
Sông núi đừng cho đất rẽ hai.
Giúp cuộc Võ, Thang ra sức đánh.
Người coi để tiếng nhắc lâu dài.
***
12. Lâu dài mong trả nợ quân thân,
Bao quản đường xa gánh nặng hoằng.
Chớp lụy anh hùng khi tác biệt,
Bày lòng trung nghĩa đạo vi thần.
Con ve mới dứt hơi kêu Hạ,
Cái võ mò canh tiếng khóc Xuân.
Gió thảm mưa sâu đang dập dã,
Bút hoa mượn chép sự khùng khằng.
***
13. Khùng khằng lại giận đứa lăng nhăng.
Sấm tối mưa mai gẫm chẳng bằng.
Bến nước mười hai đưa chiếc lá,
Đất bằng hai bảy đợi con trăng. (2x7=14)
Thương đây lại dặn đường thương lảng.
Nhớ đó thôi thì chớ nhớ săn
Mối nợ sự duyên ai có hỏi,
Xưa nay cũng một tấm lòng chăng.
***.
14. Tấm lòng chăng phải phải phân trần,
Ít nói là người dưỡng tính chân,
428 Nguyễn Văn Sâm
Đã bện bó rơm làm đứa quỷ,
Lại trau cục đá tượng ông thần.
Dù chưa đất phấn tô gương mặt,
Sẵn có cây đa cậy tấm thân.
Cũng muốn đem mình đi thế ấy,
Đem mình đi thế ấy bần thần.
***
15. Bần thần lại giận đứa xung xăng,
Quán Sở lầu Tần đã mấy trăng.
Phới phới mưa Xuân hang dễ lấp,
Chan chan nắng hạ lửa đang bừng.
Thu trao thư nhạn lời no ấm
Đông gặp tin mai chuyện khó khăn.
Trời đất bốn phương non nước ấy,
Làm chi nên nỗi việc lăng nhăng.
***
16. Lăng nhăng bữa díp sự hoang đàng.
Tiệc ngọc thuyền qua bạn đãi đằng.
Than phận lênh đênh đào thớ lợ.
Trách duyên lạc lẽo liễu xây quàng.
Con trăng nhắm bóng cây mai bạc.
Dì gió đưa duyên đóa cúc vàng
Ơn đội chúa Xuân cơn gặp gỡ.
Cơi trầu chén rượu dám mê man.
***
17. Mê man cho đến Bụt là Tiên.
Năm đầu năm hãy giả dạng điên.
Vui sẵn trước hoa vài đóa cúc.
Lo chi trong đãy một đồng tiền.
Văn học Nam Hà
429
Lưu Linh vợ lại khôn từ chén.
Lý Bạch vua kêu chẳng xuống thuyền.
Hầu muốn học đòi theo thế ấy.
Song lo thời thế hãy chưa yên.
***.
18. Chưa yên ta phải tính làm sao,
Cơm áo ngồi không dễ đặng nào?
Phải mượn binh sương trừ giác cỏ.
Lại đem trận gió phất cờ lau.
Đất yên cõi Việt rừng nho rậm.
Trời giúp nhà Ngu biển thánh cao.
Mới biết tài non đền nợ nước.
Dám đâu nói chuyện ẩn nguồn Đào.

HỒ TRƯỜNG AN * DƯ THỊ DIỄM BUỒN

dư th dim bun
tìm gp dư nh quê xưa qua
''Mt Góc Tri Thôn ''
''Thi Bin Lng Sông Trong''
H Trường An
Dư Thị Diễm Buồn là cây bút tình tự dân tộc. Chị chuyên viết về quê hương đất nước, nhất là những nơi chị định cư. Tuy nhiên ở truyện dài Ngoài Ngưỡng Chiêm Bao chị lấy bối cảnh trại tiếp cư nơi quần đảo Nam Dương dành cho các thuyền nhân vượt biên tìm tự do và chị lấy thành phố Chicago thuộc tiểu ban Illinois dành nơi định cư cho kiều bào làm bối cảnh cho tác phẩm này.
Những địa danh trên xứ sở Nam Kỳ Lục Tỉnh mà chị nói đến nhiều nhất là 2 thành phố Mỹ Tho và Cần Thơ cùng quận Cai Lậy. Thật ra, chị thích cái không khí tỉnh lỵ êm đềm và những vùng nửa chợ nửa quê thơ mộng. Chúng ta chưa hề gặp trong các tác phẩm chị một vùng nào quê rích quê rang, chó ăn đá gà ăn muối như miệt Năm Căn, Chắc Băng hoặc các vùng Cực Nam đất nước vào thuở tiền chiến.
Một Góc Trời Thôn Dã xảy ra vào thuở tiền chiến, có thể vào thập niên 20 hay thập niên 30, tức là vào khoảng thời gian mà tác giả chưa chào đời. Như thế, chị phải moi móc sưu tầm tài liệu vào khoảng thời gian ấy, tức là thuở mà trường Gia Long được dân gian gọi là trường Áo Tím và trường Trương Vĩnh Ký được gọi là trường Pétrus Ký. Vào thu đó, dù là dưới chánh thể Thuộc Địa của Pháp, hạng điền chủ bậc lớn hay bậc nhỏ đều sống phong lưu. Còn quyển truyện dài Thời Biển Lặng Sông Trong tiếp theo quyển đầu xảy ra vào thuở bình minh của chánh thể Đệ nhất Cộng Hòa dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Thu đó, nhờ sự viện trợ dồi dào của Hoa Kỳ mà toàn dân Miền NamViệt Nam từ bên này sông Bến Hải tới mũi Cà Mau được sống sung túc an bình.
Truyện dài Một Góc Trời Thôn Dã là một truyện tình phản ảnh sự giao tiếp giữa thế hệ đàng cựu gặp hồi suy tàn và thế hệ tân học chỉ vừa như hoa chớm nụ. Nữ nhân vật chánh là Cẩm Hương sinh quán ở Lái Thiêu (thuộc tỉnh Thủ Dầu Một / Bình Dương) vừa tốt nghiệp trường Sư Phạm được bổ về dạy học ở Cai Lăy ( thuộc tỉnh Mỹ Tho). Nàng ở trọ tại nhà bà Tư Hiền, vợ bé ông Hai Cung. Ông này là chủ nhân nhà máy chà gạo. Nguyên bà Tư Hiền trước kia là cô thôn nữ nhà nghèo, phải đi ở mướn cho ông bà Hương Cả Cần, song thân của cậu Hai Cung. Cô lãnh phần chăm sóc hai cô con gái Kiều Lan và Kiều Liên của cậu Hai Cung. Cậu Hai dù có vợ nhưng vì không yêu vợ, vì mê cảm nhan sắc cô tớ gái xinh đẹp nên cưỡng dâm cô ta. Không ngờ Hiền có thai, rồi sanh đứa con trai đặt tên Thiện Tố. Bà Cả Cần phải tìm cách hợp thức hóa thân phận đứa con hoang của cậu quý tử của mình. Hiền phải cam tâm làm vợ bé cho cậu Hai Cung, phải chịu sự xéo xắt bắt nạt của người vợ lớn. Mụ này, sau đó ít lâu, sanh thêm đứa con trai đặt tên là Thiện Cảm.
Năm qua tháng lại, lũ con dòng lớn và đứa con dòng nhỏ trưởng thành. Kiều Lan và Kiều Liên chanh chua, xí xọn, hay ghen ghét cái hạnh phúc và cái may mắn của tha nhơn. Thiện Cảm thì đẹp trai, tánh nết lông bông, lười học nên thi hoài mà vẫn rớt bằng Thành Chung. Thiện Tố thì chăm học, đỗ bằng Tú Tài, rồi ở nhà làm quản lý cho cha để coi sóc nhà máy chà gạo đang hồi thịnh vượng.
Khi tác giả đưa độc giả vào một phần tư quyển truyện thì ông bà Hương Cả Cần đã qua đời. Kiều Lan và Kiều Liên đã có chồng và theo chồng ra ở riêng. Thiện Cảm cưới một cô vợ tên Hồng Ánh vốn đảm đang, biết phải quấy, cư xử mềm mỏng với mẹ con bà Tư Hiền. Thiện Tố theo mẹ ra ở ngôi nhà gần nhà từ đường của ông bà Hương Cả Cần.
Cẩm Hương trong thời gian ở trọ nhà ba Tư Hiền, được tiếp xúc nhiều lần với Thiện Tố, lúc đầu nàng hơi ác cảm với chàng, nhưng nàng không ngờ đó là mặt trái của tình yêu.
Chàng thanh niên nầy cao lớn, có khoảng 1 thước 75 phân chớ không chơi. Chắc là Từ Hải trong truyện Kiều bay vọt ra ngoài đời chớ gì? Vừa nghĩ tới đây, Cẩm Hương cảm thấy vui vui. Nhưng nàng vẫn bực vì nụ cười hắn ngạo nghễ, khuôn mặt hí hởn trong dễ ghét làm sao ấy! Hắn có dáng hiên ngang, vai rộng, mặt rắn rỏi, tay chân cứng cáp, đi đứng chững chạc. Đây là mẫu người vừa trí thức vừa phong trần. Nhỏ Ái Mỹ và nhỏ Ánh Nguyệt, Thục An thường ca tụng mẫu thanh niên như vậy. Ái Mỹ vo vảnh:
- Tao ưa tài ử Clark Gable trong phim ''Cuốn theo Chiều Gió'' vừa trí thức
vừa phong trần, trong có vẻ thạo đời. Đó mới là đấng quân vương trong mộng của tao.
Thục An lim dim cặp mắt ốc bươu:
- Tao cũng vậy Những thanh niên hiên ngang, hùng trai như vậy mà chịu
cưới tao, chắc tao ăn chay một tháng 15 ngày để cám ơn Trời thương Phật độ.
Ánh Nguyệt bình tĩnh hơn:
- Tao có đọc áo Ciné Miroir, biết được anh chàng Clark Gable đó học hành
dở ẹc và miệng mồm hắn có vấn đề, nên đạo diễn phải bắt hắn giữ vệ sinh tối đa khi đóng những màn cụp lạc hun hít với nữ diễn viên. Nhưng nếu gặp chàng có bằng Thành Chung mà bảnh trai, xinh trai, dễ thương trai, lại có cái miệng thơm mát, thì con Ánh Nguyệt nầy không niêm phong trái tim đâu nghen.
Bỗng dưng, hôm nay chợt nhớ tới lời ba con xảnh xẹ đó, Cảm Hương tức cười quá. Nàng vội nghiêm mặt kẻo ''đối phương'' coi thường mình. Nàng cũng nhận thấy tên nầy có cái mỉm cười láu cá, cặp mắt sáng ngời, nụ cười ngạo nghễ, trông hao hao giống Clark Gable thiệt đó. Nếu đứng bên cạnh hắn, nàng cảm thấy mình mềm mại như cây lệ liễu đứng bên cây thanh tùng hùng tráng. Nhưng nàng chợt thấy mình ví von như vậy là đề cao ''địch thủ'' quá đáng. Hắn mà là cây thanh tùng hả? Còn khuya! Hắn đâu xứng đáng làm cây có tên đẹp như vậy. Hắn phải là cây cốc, cây còng, cây môn ngứa, cây mù u... có tên xấu xí như vậy mới đúng chớ bộ!...
( MGTTD, các trang 53, 54)
Rồi Cảm Hương và Thiện Tố thông cảm nhau, yêu nhau say đắm. Kiều Lan và Kiều Liên từ lâu cay cú vì chị em họ không có khoa bảng trong khi Thiện Tố ăn học thành công. Nay, thấy Cẩm Hương trội hơn họ về nhan sắc, học thức và tánh nết nên họ quyết phá đám để cho mối lương duyên sẽ rả tan trước khi hình thành. Nhân trong xóm có cô Ngọc Huệ vốn là gái xinh đẹp, duyên dáng, tốt bụng, chánh trực dù có tật ăn hàng như chim mỏ khoét; cô ta trở thành công cụ để hai nàng Kiều ra tay phá hoại cuộc tình của thằng em khác mẹ kia:
Cô tươi mát trong chiếc áo dài nhung màu tím, cổ cao, quần lụa trắng. Tóc cô vấn bính, quấn nhiều vòng và kẹp bằng chiếc nơ bướm bằng nhung đen phía sau ót. Cô đeo suu bộ ngọc trai màu ngà voi, gồm có: bông tai, chuỗi, cà rá và vòng tay... Ngọc Huệ tô son hồng đào, giồi phấn sương sương, dậm phấn hồng phơn phớt. Trông cô đẹp hẳn lên.
Nhưng ai có thể ngờ sau cặp môi trái tim cười đẹp như hoa nở đó, lại là cái miệng ăn hàng hết chỗ chê! Cô ăn xàm xạp tối ngày. Thịt phay nhai ngấu nghiến, thịt gà thiến ăn tràn miệng vẫn còn thèm, chả nem ních sạch bách, tôm kho gạch cũng chẳng chừa, dừa cô cũng ưa, dưa cô cũng thích, mít cô không chê... Ai biết được đôi mắt viền đen kia sáng ngời lóng lánh khi nghe chuyện tiếu lâm, chuyện ngồi lê đôi mách... Đây là mẫu thiếu nữ hạnh kiểm thưa thớt, tánh tình bông lông nhưng tâm địa hiền lành, giàu lòng từ thiện, kẻ dữ người hiền đều mến chuộng:
(MDTTD, trang 338)
Hồi Thiện Tố và Ngọc Huệ còn nhỏ, trong cuộc chuyện trò thân mật, ông bà Hương Cả Cần có bảo ông nội bà nội Ngọc Huệ rằng khi cả hai lớn lên, họ sẽ cưới Ngọc Huệ cho Thiện Tố. Do đó, Kiều Lan và Kiêu Liên bảo Cẩm Hương rằng Ngọc Huệ là hôn thê của Thiện Tố. Cho nên Cẩm Hương đau khổ quyết chặt đứt mối tình với người yêu, dù Thiện Tố năn nỉ nàng cho tới cạn lời, dù ông Hai Cung và bà Tư Hiền đính chánh cho thế mấy đi nữa. Nhưng về sau, tình cờ gặp lại Ngọc Huệ, Cẩm Hương được cô ta cho biết rằng trong vòng ít lâu cô ta sẽ vu quy, người chồng tương lai cô ta trước kia ở Cai Lậy, gần nhà cha mẹ cô ta, về sau thiên cư về Vĩnh Long lập nghiệp. Đó mới chính là người yêu của cô ta, còn Thiện Tố chỉ là bạn cùng lớp hồi cả hai ngồi bậc tiểu học vậy thôi. Tới chừng đó, Cảm Hương mới yên lòng để cho Thiện Tố cưới nàng làm vợ.
*
Song song mối tình giữa Cẩm Hương và Thiện Tố, còn có lối sống thay đổi của Thiện Cảm. Vốn quen thói phong lưu, ăn chơi bạt mạng, Thiện Cảm vụt cảm thấy chán nản lối sống truy hoan của mình. Tình cờ đọc quyển Bùn Lầy Nước Đọng của Hoàng Đạo trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Chàng sanh ra cảm khái, quyết sống cuộc đời có ý nghĩa: giúp đỡ người nghèo khó, cải thiện nếp sống dân quê. Chàng viết văn theo tôn chỉ xây dựng cuộc tân sinh hoạt theo chủ trương của nhóm Tự Lực Văn Đoàn; chàng kiến tạo ấp mới theo bước chân của Hoàng Đạo. Hai công việc đó đều nhờ sự giup đỡ và khích lệ của vợ chồng Thiện Tố. Không ngờ chàng thành công trên văn đàn và rồi ấp mới của chàng được thực hiện đúng như niềm mơ ước của chàng.
Nghe vợ chồng Thiện Tố đi thăm ông bà nhạc ở xa và dự đám cưới cậu em út của vợ trở về chiều hôm qua, vợ chồng Thiện Cảm đến chơi, chồng khoe với Thiện Tố:
- Toa ơi, moa vừa mới lập cái ấp mới cho tá điền. Nhà nhà trong ấp đều
thoáng khí, mặc dù là vách bùn trộn với trấu hay rơm, mái lợp lá xé hay lá chầm, nhưng cũng che mưa che nắng được mấy mùa. Ở giữa ấp moa cất cái trạm để mỗi tuần có y tá vào phát thuốc cho dân, còn những thứ thuốc thông thường như chữa nhức đầu, đau bụng, trầy giò, đứt tay chảy máu thì lúc nào cũng chứa trong thùng để ở nhà ông trưởng ấp. Có lớp Bình Dân Học Vụ nữa. Hôm nào vợ chồng toa có rảnh, mời ghé qua, coi có góp thêm ý kiến gì không ?
Thiện Cảm đưa cho Cẩm Hương ấn bản quyển tiểu thuyết mới ra. Cẩm Hương ngắm nghía cái bìa màu lam có tranh vẽ cảnh thôn quê dưới vầng thái dương chói rạng, bảo:
- Cái tựa sách Ánh Sáng Đồng Quê của tác phẩm, chắc là muốn nói lên ánh
sáng văn minh tân tiến rọi đến cảnh đồng ruộng quê mùa chớ gì?
Hồng Ánh hớt chồng trả lời:
- Chị nói đúng đó. Cái ấp mới do chồng em chắt chiu xây dựng phần lớn
nhờ anh Thiện Tố đỡ đầu từ vật chất lẫn tinh thần Hôm nay tụi nầy đến đây ngoài việc tặng sách còn để báo tin ấp đã tạm xong và cám ơn anh chị.
Cẩm Hương vui vẻ hỏi:
- Thím có thai được mấy tháng rồi?
Hồng Ánh cười:
- Hơn 5 tháng nay thôi. Khi em sanh xong nhờ anh chị làm cha mẹ đỡ đầu
cho đứa nhỏ.
Cẩm Hương cười tươi, sốt sắng:
- Rất sẵn lòng
Cẩm Hương nhìn chăm chú Thiện Cảm rồi nhìn chồng. Hai anh em họ có vài nét giống nhau. Thiện Tố cao ráo, khỏe mạnh, hùng tráng bao nhiêu thì Tiện Cảm mảnh khảnh, văn thái tinh hoa tao nhã bấy nhiêu. Từ khi thành công trên con dường văn nghiệp, Thiện Cảm chững chạc hơn, không còn đía dóc ba hoa nữa. Chàng trầm mặc hơn. Nàng tự hào là vợ chồng nàng biết khơi dậy một thiên thần trong một con ngưòi hư hỏng.
Nàng nhìn qua Hồng Ánh. Cô ta biêt ăn diện chải chuốc để làm đẹp lòng chồng. Nhưng cô ta vẫn hồn nhiên giản dị, không kiểu cách điệu đà, không đánh lưỡi sửa giọng khi nói chuyện. Cô hồn nhiên, hịch hạc, cười nói véo von,
pha trò duyên dáng và có chừng mực.
Khi khách ra về, Cẩm Hương làm mặt lạnh và liếc xéo chồng rồi nghiêng bình tích rót trà ra uống. Thiện Tố áy náy nhìn vợ cười cầu tài, rồi ôm choàng lấy vai nàng. Nàng lách khỏi vòng tay chồng, mắt xoáy vào mặt chàng. Thiện Tố nhìn vợ ngập ngừng:
- Anh giúp Thiện Cảm làm em phật lòng sao?
Cẩm Hương ngún nguẩy:
- Hỏng biết!
Thiện Tố nắm tay vợ tha thiết, khổ sở:
- Xin lỗi em!
Thấy dáng điệu chồng thiểu não, Cẩm Hương bật cười thành tiếng:
- Sao anh lại xin lỗi? Anh đã làm những gì mà em định khuyên anh làm.
Anh biết không? Bấy lâu nay, thấy Thiện Cảm đổi tánh tình, làm việc thiện nguyện. Còn anh thì êm ru bà rù làm em mắc cở thầm. Bây giờ em mới cảm thấy thoải mái khi gặp Hồng Ánh. Anh làm em hãnh diện với chính mình không chọn lầm nguời chồng và còn là người bạn đồng tâm...
(MTTD, các trang 365, 366, 367)
Trong quyển Một Góc Trời Thôn Dã, có 6 cô cựu nữ sinh trường Áo Tím là Thục An, Ái Mỹ, Thụy Châu, Ánh Nguyệt hợp với Cẩm Hương thành nhóm Ngũ Nữ La Sát. Về sau có thêm Nguyệt Mi trở thành nhóm Lục Nữ La Sát. Sáu vai phụ ấy làm cho tác phẩm trở nên xôn xao tuổi dậy thì và gợi lại tuổi mộng mơ trong khung cảnh sân trường, lớp học, bảng phấn, cửa gương. Không khí tác phẩm trở nên sinh động khi tác giả dựng lên cảnh họp mặt của họ. Trong đó, Ánh Nguyệt hoạt náo nồng mặn duyên dáng nhất:
... Con chằng lửa Thục An bảo:
- Làm đờn bà thì phải thương chồng hơn cha mẹ. Ông bà mình thường
nói: ''Vông đồng trổ đỏ bờ sông/ Mẹ kêu con dạ, thương chồng con theo''.
Con ma nương Ái Mỹ tán đồng:
- Mầy nói đúng đó Thục An. Cha mẹ nuôi mình chừng 20 năm hoặc hăm
mấy năm thôi. Còn chồng mình thì nuôi mình tới già, tới chết.
Con nữ tặc Thụy Châu chợt nhớ ra:
- Mấy cô xẩm trước khi lấy chồng, cứ khóc ra rả trong buồng, khóc rống
lớn lên cho thiên hạ biết mình đau xót sắp xa cha mẹ...
Con hồ ly tinh Ánh Nguyệt trề môi dài cả thước :
- Lấy được ông chồng toại ý, tao đương thèm khóc. Còn kết hôn với cái thứ
ôn hoàng dịch lệ thì tao khóc rỉ rả, khóc nỉ non để trù ẻo cho đám cưới trở hành đám ma chơi !
Cẩm Hương cười ha hả :
- Ánh Nguyệt ơi, lòng da mầy hiền lành như bông bí, như dưa leo, như rau
lang rau muống luộc. Vậy mà mầy ăn nói nghe dữ tợn, gớm ghiếc không hà. Coi chừng mắc khẩu nghiệp đó nghen.
Ánh Nguyệt trề môi nói rán, nói thêm:
- Kệ em! Chớ sống với kẻ không yêu, bị nó nài hoa ép liễu thì em chỉ còn
có nước trù ẻo nó chết sớm để em rảnh nợ. Chôn nó rồi em đi xe kiếng.
Cả bọn trợn mắt hỏi đi xe kiếng để làm chi? Nhỏ cười ngỏn ngoẻn rồi cất giọng thẻo thợt hò: ''A ơi... Bước lên xe kiếng đi viếng mộ chồng'' / ''Mộ chưa cỏ mọc tron lòng thọ thai... à ơi...''.
(MGTTD, các trang 46, 47)
Kiều Lan và Kiều Liên cũng là hai nhân vật làm cho không khí câu chuyện trong tác phẩm sinh động hẳn lên. Tác giả dùng họ làm nhân vật phản diện để tạo sự mâu thuẩn cho cả một hệ thống tình tiết của câu chuyện và cũng để bày tỏ cái óc khôi hài tinh nhuệ của mình khi nhận xét tình đời. Hai cô Kiều ghen ghét cái hạnh phúc của thằng em khác mẹ đã đành mà còn không mấy hoan nghinh cái thành công của thằng em ruột:
Lúc hay tin Thiện Tố khéo tay trang hoàng ngôi nhà mới của mình, hai cô Kiều liền rủ Thiện Cảm tới thăm. Kiều Lan chê bai:
- Thằng Thiện Tố dại dột, lo trang Hoàng o bế sách vở, khong để dành tiền
mua gach tráng men lót nền nhà.
Kiều Liên phụ họa chị:
- Đúng rồi, gạch tàu dùng để lót sân đúng điệu hơn, chớ đâu để mà lót nền
nhà!
Bà Tư Hiền mời lũ con chồng uống trà. Thiện Tố không trả lời hai chị, vì trong mắt họ, có cái gì mà chàng làm tốt làm đẹp bao giờ đâu. Thiện Cảm săm soi tủ sách tắm tắc:
- Từ khi đọc sách của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, tui mới biết quý sách báo.
Thật là tao nhã, tui thiệt tình phục lăn Thiện Tố!Thế nào tui cũng sắm cái tủ như vậy.
Kiều Liên nguýt thằng em ruột, mỉa mai:
- Thôi cho tao can đi. Dòng họ mình đã có một học giả rồi. Ai cần mượn
cái mặt mẹt mầy đóng vai trí thức rồi bày đặt viết văn. Mầy chẳng có bằng cấp nào lận lưng hết.
Thiện Cảm sừng sộ lại:
- Chị bớt chót chét lại đi. Bằng cấp có dính dáng gì đén việc viết văn? Có
bằng cấp mới viết văn được sao ? Thật là đầu óc nhỏ hẹp như cái vú cau!
Kiều Lan õng ẹo:
- Tui cấm chồng tui coi tiểu thuyết. Thời buổi nầy mấy ông bà văn sĩ hay
đề cao tình yêu. Chồng tui nhẹ dạ. Nếu rủi ảnh nhiễm tư tưởng lãng mạn trong tiểu thuyết, ảnh sẽ mềm lòng lõng dạ mỗi khi gặp con lành con lủng nào đó ở ngoài chợ thì phiền toái cho tui lắm. Lòng dạ tui chặt chịa, cứng cỏi thì tui có quyền coi tiểu thuyết.
Kiều Liên bị em nạt không cự lại, vo vảnh:
- A -di-đà Phật! Chồng tui thích coi đá banh thôi. Nhưng hễ ảnh gặp mấy
con lành tốt mã, mấy con lủng lẳng lơ thì cặp mắt ảnh chớp lia chớp lịa, thấy thật ứa gan!
(MGTTD, các trang 210, 211)
*
Trong Một Góc Trời Thôn Dã có thêm một vận sự: Trong tai nạn xe cộ, Cẩm Hương được người hành khách cùng một chuyến xe đò cứu giúp. Chàng ta yêu thầm nhớ trộm nàng, xây mộng lứa đôi với nàng. Nhưng mối tình đó chỉ là mối tình đơn phương vừa tượng tình mà chưa kịp thành tựu đến ngưỡng cửa hôn nhân thì phải tan rã vì Cẩm Hương báo tin nàng kết hôn với Thiện Tố. Nếu bỏ vận sự nầy cũng không sao. Còn có nó, tác phẩm thêm phần hào hứng đôi chút vì mối ẩn tình của người đồng hành cùng chuyến xe đò với Cẩm Hương không có gì đặc sắc lắm. Lại nữa, cuộc hờn ghen của Cẩm Hương kéo quá dài làm cho độc giả sốt ruột. Đáng lẽ tác giả để dành giấy viết về nếp sống và nhân sinh quan của hạng tân học vào buổi giao thời như hai cậu em của Cẩm Hương, của Nguyệt Cúc (hôn thê của cậu em út ) thì chị đào cho tác phẩm một chiều sâu đáng kể hơn.
Sự thành công của tác phẩm ở chỗ tạo cho mỗi nhân vật một cá tánh khác biệt, trừ hai chị em Kiều Lan và Kiều Liên như đúc từ một cái khuôn. Xin kể các nhân vật quan trọng xoay chung quanh hai nhân vật chánh (Cẩm Hương và Thiện Tố) và những nhân vật then chốt (hai cô Kiều, Thiện Cảm, Hồng Ánh và Ngọc Huệ). Bà Cả Cần tôn trọng huyết thống, ông Hai Cung dù đã sa ngã nhưng vẫn là người có lương tâm, bà Tư Hiền tuy hiền lành nhẫn nhục nhưng vẫn vướng tật chì chiết lúc tâm sự với Cẩm Hương, bà Hai Cung vẫn là người có căn tánh tốt đẹp chớ không hoàn toàn xấu xa ác độc, cha mẹ bà Tư Hiền hiền lành và chất phác.
Tác giả rất thích miêu tả: tả người, tả cảnh, tả tâm tình, tức là tạo đầy đủ chất liệu để đúc kết cái nền mống lẫn cái lâu đài văn chương vững chắc.
Về nghệ thuật tả người, xin cùng đọc đoạn hai cô Kiều phục sức và trang điểm trong dịp đám cưới Thiện Tố:
Kiều Lan và Kiều Liên muốn nổi bật hơn cả cô dâu nên trước đám cưới cả tháng, hai cô hẹn nhau xuống chợ tỉnh đặt may mỗi người một chiếc áo dài ''mốt'' bằng gấm đỏ, bâu áo cao chống cổ, tay phùng cao. Hai cô đều mặc trang phục giống nhau. Họ đeo bông tòn teng, dây cổ, dây tay bằng hột xoàn chiếu lấp lánh... Trông họ đẹp và lạ mắt thật. Nhưng áo quần và trang sức nầy nếu trên một thân hình có dáng dấp thanh cảnh thì tuyệt! Khổ một nỗi hai nàng Kiều đã nhiều lần sanh đẻ, ăn uống không giữ gìn, dù cái bụng không lớn lắm, nhưng thân thể lệch lạc, tướng đi hai hàng, ngó vào là biết hai mụ xề ngay. Trước đó cả tháng, hai nàng nhịn ăn đễ giữ eo thon, mông gọn. Nhưng khổ nỗi cái bụng dưới, tức là cái nây bụng phồng ra như có độn trái dưa hấu cắt đôi. Hai nàng còn nhờ thím xẩm Lầy Phá (Lệ Hoa), vợ bé ông Bang Quảng Đông dùng chỉ se trên da mặt để lấy lông mang, cùng tỉa cặp mày cong như viền trăng non, như cái mống chuồng vậy. Hai nàng biết tướng đi của mình không đẻo, nên uốn éo mình xà, mông đưa qua bên trái, rồi sàn qua bên mặt làm mấy bà mấy cô dọn đám dưới bếp có dịp nói hành nói tỏi rồi cười khúc khích.
(MGTTD, các trang 337, 338)
Tác giả Dư Thị Diễm Buồn rất khoái phần tả cảnh. Cho nên trong tác phẩm Một Góc Trời Thôn Dã, cảnh vật cứ nườm nượp hiện dưới ngòi bút liến thoắng và trơn tru của chị. Ít có nhà văn gốc Nam Kỳ có cái mẫn cảm với phần miêu tả như chị.
Trong những thủa ruộng loang loáng nước, ngăn cách nhau bởi những bờ mẫu ngoằn ngoèo chia ruộng ra có miếng hình vuông, hình chữ nhựt, hình xéo... còn rộng hay hẹp là tùy theo diện tích của mỗi miếng ruộng. Những bụi lúa mập, tua tủa lá vươn cao rậm rạp và xanh lặt lìa như đỡ nâng bông lúa đòng đòng ngậm sữa quằn nặng hột. Những bụi lúa trồng san sát nhau thành những hàng ngang hàng dọc thẳng tắp chạy dài đến tận chân vườn xa lắc xa lơ. La đà trên ngọn lúa, bầy chuồn chuồn xanh, đỏ, tím, vàng, cam, hồng... đủ màu sắc, bay qua lượn lại tìm bắt muỗi. Thỉnh thoảng cây lúa rung rinh, hay quặn lên làm chao động mặt nước do lũ cá rô, cá sặc, cá lóc... hám ăn nhào lộn, rượt đuổi nhau, hoặc tranh giành đớp mồi. Những chú cào cào, sâu, bọ vô tình rơi xuống. Những con ốc bươu đen, sùi bọt trắng đeo từng hùm từng đám trên cụm lác, cụm đuơng mọc từ đáy nước. Nước ruộng trong veo, nhìn thấy rõ bầy cá bãi trầu, cá lòng tong, cá bạc đầu lội nhởn nhơ.... Gió sáng mát rượi. Trên gò nổng xa xa, đàn vịt trời, le le, chằn nghịch... đang rỉa lông. Bầy chim áo dà, chích chòe gọi nhau bên chòm bông cỏ, bông gạo. Ven ao có hàng cây điên điển nở từng chùm hoa vàng phơi phới, nghiêng nghiêng in bón dưới lòng ao, mặt bằng phẳng nước.
(MGTTD, trang 179)
Cảnh nhà của song thân của cô thôn nữ Hiền dưới mắt bà Cả Cần đuợc tác giả trình bày như sau:
Bà Cả dòm khắp nhà. Tuy là nhà lợp lá xé, vách tre, nền đất nện, nhưng đâu đó đưọc quét tước sạch sẽ. Bàn thờ, bàn ghế, tủ áo, cái đi-văng... đóng bằng gỗ rẻ tiền như thao lao, mít, nhưng được lau chùi bóng láng. Chiếc bàn dài đặt giữa nhà, hai ghế trường kỷ đặt hai bên có vẻ tươm tất hơn. Ba con Hiền cho biêt, bàn ghế đó do người bác ruột qua đời để lại cho. Bàn thờ có bát cắm nhang tráng men xanh vẽ bát tiên ngồi chơi cờ bằng mực chàm đậm. Dĩa quả tử vẻ tám thứ trái cây ở thành dĩa: lệ chi (trái vải), long nhãn, phật thủ, đào tiên, mộc lý, mộc qua, lựu, trái xá lị. Bàn thờ không có lư hương, chân đèn, đèn lưu ly gì cả. Chỉ có bài vị thờ cha mẹ và ông bác sơn son thếp vàng. Trên bàn dài là bình trà bằng sành lớn, cỡ 4 bàn tay vòng có vẽ hình con đại cẩm kê (gà trống cồ, mồng đỏ, lông màu lửa, cổ và ức giát lông màu xanh). Trên khay có 6 cái tách sành lại vẽ gà tre, có lẽ không cùng một bộ với bình tích, nhưng nhìn chung thì tất cả như cùng chung một thứ men, cùng một kiểu vẽ. Trên 4 cột nhà ở giữa chỉ treo liễn kiếng Lái Thiêu. Còn trên vách thì treo liễn giấy bồi màu vàng nghệ, màu cánh sen, màu đọt chuối gợn sóng ngân nhũ. Trên nền ngân nhũ là bài thơ chữ Nho viết bằng lối chữ thảo. Mà con Hiền bảo là do ông bác để lại để vào ngày Tết trang hoàng nhà cửa. Trên mỗi tấm tranh là một bài cổ thi chúc xuân mà vợ chông bà không biết đọc chữ Nho nên không biết nghĩa thú trong thơ ra sao.
(MTTD, các trang 94 95)
Sự mô tả khung cảnh mộc mạc quê mùa của tác giả Dư Thị Diễm Buồn mang một ý nghĩa sâu xa. Chị muốn gợi lại khung cảnh gần gũi và thân thương cho những kiều bào cùng thế hệ hoặc cùng trang lứa với chị trở lên để tất cả cùng nhau trên nẻo thời gian tìm lại, được đắm hồn sống trong một chặng nếp sống cổ truyền của dân tộc đã từng ghi biết bao dấu ấn trong tình hoài cố hương vọng cố quốc. Trong lúc miêu tả, chị quăng mình trọn vẹn vào đối tượng, vào chủ đề một cách nồng nhiệt thành khẩn, bằng tâm tư hoài vọng.
*
Bước sang qua quyển Thời Biển Lặng Sông Trong, tác giả đưa câu chuyện lớp con của hai nàng Kiều, của Thiện Tố và của Thiện Cảm vào thời kỳ nước Việt Nam bị con sông Bến Hải ngăn đôi, dân Miền Nam Việt Nam được sống sung túc dưới chánh thể Đệ nhất Cộng Hòa. Thế có nghĩa là, chị bỏ qua thời kỳ chiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh, cái thời kỳ gay go nhất mà những cây bút phụ nữ sinh vào đầu thập nien 50 không thể nào thấu hiểu qua những chúng nghiệm máu xương của dân tộc.
Trong truyện này, đại gia đình ông Hai Cung có đủ con trai, con gái, dâu và rể sống cùng xã hay cùng quận Cai Lậy. Vợ chồng Kiều Lan, vợ chồng Kiều Liên và vợ chồng Thiện Tố từ quyển Một Góc Trời Thôn Dã đã ở riêng, chỉ trừ vợ chồng của Thiện Cảm vẫn ở dưới mái nhà thừa tự của cha mẹ. Về lũ cháu của ông Hai Cung, thì con của hai nàng Kiều Lan và Kiều Liên và con của Thiện Cảm đa số đã sinh cơ lập nghiệp ở phương xa, duy chỉ có hai cô con gái của cặp Thiện Tố & Cẩm Hương là còn ở với cha mẹ đầy đủ. Sống với vợ chồng của Kiều Lan chỉ có cô con gái út tên Kiều Nga. Sống với vợ chồng Kiều Liên chỉ có con gái út tên Kiều Phương. Sống với vợ chồng Thiện Cảm là cậu con trai áp út trong hàng ngũ lũ con tên Thiện Cần và cô con gái út tên Hồng Nguyệt.
Kiều Phương khá xinh đẹp, giỏi đóng kịch và ca hát trong những kỳ văn nghệ do nhà truờng tổ chức vào dịp phát lễ phần thưởng. Tố Tâm kiều nhược, hiền lành, khép kín với người lạ, nhưng cởi mở với người thân. Tố Tiên, khỏe mạnh, sinh động, cởi mở với tất cả mọi người, thường ao ước được du học ở ngoại quốc.
Kiều Nga hiền lành, thùy mị, có năng khiếu làm thơ từ thuở 13 tuổi. Hồng Nguyệt có văn tài tự bẩm sinh; nhưng cô tật ở chân, mặt rỗ. Nhưng cô thông minh và đôn hậu, biết khắc phục cái bất hảo của thể chất và ở dung mạo để thành công rực rỡ trên đường đời. Thiện Cần bảnh trai, liến láu, ưa bông đùa nghịch ngợm. Cậu giống cha ở chỗ đắc mèo, tán gái thành công, nhưng không thọ hưởng một chút văn tài nào của cha. Cậu là một điểm tươi sáng rực rỡ, gây cho không khí u trầm trong gia tộc một sinh dộng hào hứng.
Ngoài ra thân với chị em Tố Tâm và Tố Tiên còn có Tuyết Mai, bạn chung lớp với Tố Tâm. Cô này mồ côi mẹ, bị bà kế mẫu, các người con gái riêng của bà và lũ em cùng cha khác mẹ xéo xắt đày đọa. Cuối niên học năm đó, Kiều Phương, Tố Tâm, Thiện Cần và Tuyết Mai cùng đậu bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp, Còn Kiều Nga thi đậu vào lớp Đệ thất. Tố Tâm theo Tuyết Mai về chơi quê ngoại của bạn. Đó là làng Hòa Lộc thơ mộng nằm ven sông Mỹ Lương êm đềm. Tại đây, cả hai gặp Khải Tuấn, anh chàng sinh viên đẹp trai sắp tốt nghiệp trường Quốc Gia Hành Chánh. Nhưng Tố Tâm lẫn Tuyết Mai không cảm thấy mình bị cú sét ái tình. Tại làng Hòa Lộc cả hai được ăn những món thổ sản địa phương, được hưởng thú vui thôn dã như cảnh đập lúa trong đêm trăng. Trong chuyến thủy trình về Cai Lậy, chiếc tàu thủy bị chìm vì chở quá khẳm. Hành khách đều được cứu sống. Nhưng Tố Tâm làm cho bà nội, cha mẹ và cả đại gia đình phải một phen điêu đứng vì lo lắng. Nhưng chính nhờ tai nạn này mà Tố Tâm gặp được anh chàng Quận trưởng Đào Vũ Kỳ Trân để rồi cả hai gặp cú sét ái tình tuy không nổ ầm ỉ nhưng vẫn làm cho tim họ bàng hoàng dao động.
Trong dịp lễ phát phần thưởng cuối năm cho các học sinh ưu tú trường Đốc Binh Kiều, đạo diễn điện ảnh Hoàng Tâm chợt thấy các cô nữ sinh tham gia vào các tiết mục văn nghệ trình diễn rất vừa ý. Cho nên ông ngõ lời chọn một số nữ sinh mà ông ta cho rằng có thể đóng phim được, trong số đó có Tuyết Mai, Kiều Phương và hai chị cô Tố. Nhưng cả bọn phải lên Sài Gòn để trải qua cuộc thử test gay go theo cách thức dự một cuộc thi tuyển do hảng phim tổ chức. Tuy nhiên, Tố Tâm lẫn Tố Tiên từ chối vì cả hai muốn tiếp tục việc đèn sách. Chỉ có Tuyết Mai và Kiều Phương nhận lời. Tuyết Mai không có tiền sắm sửa y phục và các món trang sức trước khi đi dự thi tuyển lựa tài tử thì vợ chồng Thiện Tố và bà Tư Hiền bỏ tiền ra giúp cô . Vì ban giám khảo bị một áp lực nào đó do bạo quyền thúc đẩy nên vào kết quả cuộc thi thì Tuyết Mai đứng hạng nhì, Kiều Phương đứng hạng ba. Còn giải khôi nguyên thuộc về Nhan Như Thúy Ngọc, một cô thiếu nữ nhan sắc kém cỏi. Điện ảnh gia Hoàng Tâm bực tức lắm. Cho nên khi nắm vai trò vừa viết kịch bản vừa làm đạo diễn cho phim Tấm Cám, tuy ông phải giao vai Tấm cho cô Nhan Như Thúy Ngọc, nhưng khi viết kịch bản, ông cố tình đôn vai Cám do Tuyết Mai đảm nhiệm lên cao, tạo thêm một vai nòng cốt cho Kiều Phương. Kết quả: Nhan Như Thúy Ngọc chẳng những bị Tuyết Mai lấn át bóng sắc lẫn nghệ thuật diễn xuất mà còn bị Kiều Phương làm lu mờ ở nghệ thuật diễn tả hồn nhiên. Thế là từ đó tên tuổi Tuyết Mai và Kiều Phương lên vùn vụt như diều tung hoành trong gió lộng, còn cô Nhan Như Thúy Ngọc phải âm thầm rút lui vào bóng tối. Tuyết Mai và Kiều Phương còn luyện giọng để hành nghề ca hát nữa.
Trong buổi khánh thành Viện Dưỡng Lão do ông Tỉnh Truỏng tỉnh Định Tường (Mỹ Tho) tổ chức, Tuyết Mai được mời cắt băng khánh thành vì cô ta đã tặng cho ban thành lập viện một số tiền to. Tuyết Mai nhã ý mời gia đình Thiện Tố đến dự buổi tiếp tân lẫn dạ yến và dạ vũ tại dinh Tỉnh Trưởng. Chỉ có Cẩm Hương cùng Tố Tâm và Tố Tiên đến dự. Tố Tâm gặp lại Đào Vũ Kỳ Trân và Khải Tuấn. Trong khi nàng và Kỳ Trân xoắn xít nhau thì Tố Tiên và Khải Tuấn quyến luyến nhau. Nhưng sau đó, cả hai không liên lạc nhau. Tố Tiên học cho xong bậc trung Học Đệ Nhị Cấp và thi đỗ Tú Tài. Còn Khải Tuán thì ra trường, trở thành công chức và làm việc ở Sài Gòn.
Hồng Nguyệt trở thành nhà văn chuyên nghiệp, có kết bạn văn chương với một ký giả Pháp gốc người Ba-lan tên Ilya Polanski. Anh chàng này hành nghề tự do, không cộng tác nhất định với một tờ báo nào hay một hảng thông tấn nào, mà người trong nghề gọi là ký giả ''free lance''. Kiều Nga trong chuyến về thăm quê nội ở Bình Chánh, vào dịp dự lễ ở Thánh thất CaoĐài, gặp anh chàng Tây lai vốn là thợ nguội xuất thân ở sở Ba-son (Hải Quân Công Xưởng) có lương lậu cao. Mẹ chàng vốn có đạo Cao Đài nên chàng tháp tùng theo bà dự lễ. Cả hai bắt đầu yêu nhau và hứa hẹn thực hiện cuộc sống lứa đôi.
Đào Vũ Kỳ Trân ráo riết tìm cách chiếm đoạt trái tim của Tố Tâm và đi đến cuộc hôn nhân hạnh phúc. Hai người bạn thân của chàng là Lê Phước Nghiệp và Hoàng Khiết Tịnh về sau trở thành thân bằng quyến thuộc của Tố Tâm và Tố Tiên. Lê Phước Nghiệp kết hôn với Tuyết Mai. Hoàng Khiết Tịnh se duyên chỉ thắm với Kiều Phương dù chàng ta góa vợ và có con riêng. Còn Thiện Cần quyến rũ hai cô nữ sinh, tặng cho mỗi cô một cái bầu nên song thân cậu phải đem họ về nuôi. Cả hai ghen tương nhau, dậy giặc hà rầm làm cậu bực tức đau khổ, không biết cách nào làm cho cảnh nhà dược trong ấm ngoài êm.
Tố Tiên lên Sài Gòn lưu học và ở chung với Tuyết Mai. Tình cờ cô gặp lại Khải Tuấn. Cả hai yêu nhau say đắm. Nhưngsau bao lần bất đồng ý kiến, sau bao cơn cãi cọ vì tự ái, Tố Tiên qua Mỹ du học. Khải Tuấn vẫn bền lòng đợi nàng trở về.
Bốn năm sau, Tố Tiên hồi hương. Bà nội nàng ở ngôi nhà từ đường để săn sóc ông nội nàng vì bà chánh thê của ông đã qua đời. Kiều Nga đã kết hôn với anh chàng Tây lai tên Yves Ronsin mà cô ta gọi trài trại là Yêu Rồng Xanh. Hồng Nguyệt vẫn độc thân để tâm trí thảnh thơi phụng sự văn nghiệp đang hồi lừng lẫy của mình. Tuyết Mai vẫn hành nghề trình diễn ca nhạc và đóng phim. Kiều Phương giải nghệ để cùng chồng khuếch trương việc thương mãi đang hồi bành truớng và thịnh vượng. Riêng hai cô vợ không giá thú của Thiện Cần đều bồng con về cha mẹ ruột, lấy chồng khác, nhưng vẫn cho con mình lui tới với ông bố hào hoa lẫn đào hoa của chúng. Chàng cưới một cô vợ khác ôn nhu và hiểu biết hơn hai cô vợ sư tử Hà Đông kia. Chàng mở tiệm bán và sơn sửa xe gắn máy, tìm được hạnh phúc trong cuộc sống lứa đôi chung lòng chung hướng, đồng sàng đồng mộng cùng người vợ có giá thú.
Kết cuộc, Tố Tiên sau bao năm bôn ba trên con đường sự nghiệp, thành hôn với Khải Tuấn.
*
Trong tác phẩm Thời Biển Lặng Sông Trong, các nhân vật thuộc giai cấp trung lưu và thuộc thế hệ đang độ hoa niên vào 5 năm chót của thập niên 50 đã bước vào một thế hệ được ánh sáng văn minh tân tiến soi rọi. Phụ nữ đã ý thức sự bình quyền với các đấng tu mi nam tử, họ từ bỏ khuê phòng để ra đời mưu sinh. Khi lớn lên, họ không quá chú trọng vào công việc trao giồi công dung ngôn hạnh rồi đợi chồng đến cưới hỏi. Họ chọn ngành nghề để đeo đuổi trước khi kết hôn.
Vận hội mới bắt đầu. Các trường tiểu học đuợc mở mang khắp mọi quận lỵ và ở các xã ấp gần quận lỵ hay gần các miền ngoại ô tỉnh lỵ. Các tỉnh bậc trung đã có một trường trung học công lập và vài trường trung học tư thục. Còn các tỉnh lỵ nhỏ thì chỉ có một trường trung học tư thục mà thôi.
Quận Cai Lậy là một địa danh cách trung tâm thành phố tỉnh Mỹ Tho 23 cây số. Nó nằm bên Quóc Lộ 9, tức là trên tuyến đường quan trọng đưa đón du khách và các tay buôn bán xuôi ngược từ Sài Gòn xuống vài tỉnh vùng Tiền Giang và tất cả tỉnh miền Hậu Giang. Từ thuở bình minh nền Đệ nhất Cộng Hòa nó đã là một nơi thị tứ khá hoạt náo và phồn thịnh. Cư dân ở đây tiếp xúc khá nhiều nếp sống theo cao trào văn minh tân tiến nên họ không chênh lệch với thị dân ở Thủ Đô Sài Gòn bao nhiêu. Cho nên các nam sinh, các nữ sinh cùng các công chức ở đây đều là những kẻ thấm nhuần óc tiến thủ, đều có thể thu góp một cách dồi dào những kiến thức về một nền văn hóa trên đà phát triển thuận lợi.
Bởi đó, nữ sĩ Dư Thị Diễm Buồn thường tạo ra các nhân vật bậc trung lưu đù cấp bậc cao thấp lớn nhỏ. Chị không thích tạo những nhân vật nông phu cày sâu cuốc bẳm và những nhân vật thôn nữ chân lấm tay bùn. Tạo những nhân vật cổ lổ hay những nhân vật quê rít quê rang thì quá xa vời với cái xã hội và cái thế giới mà chị đã sinh ra và lớn lên. Những nhân vật chậm tiến như thế thì cái xã hội của họ dưới ngòi bút của chị không thể sinh động được; chị phải nhờ óc tưởng tuợng thêu dệt thêm ít nhiều chi tiết. Vả lại qua tác phẩm Một Góc Trời Thôn Dã và tác phẩm Thời Biển Lặng Sông Trong, tác giả muốn nói lên cái hay, cái đẹp của Miền Nam Việt Nam tự do. Lẽ dĩ nhiên, cảnh đồng quê chỉ nên lót nền mờ nhạt cho những cô cậu học sinh yêu nhau da diết chứ không nên xen nhiều lần, chui lắm lượt vào cuộc sống của họ. Họ phải được huởng ánh sáng văn minh để tình yêu của họ thêm mới mẻ như tình yêu của lớp thanh thiếu niên trong phim ảnh Hoa Kỳ đang chiếm rộng rải trên thị trường Việt Nam.
Dư Thị Diễm Buồn thương yêu cưng chiều những nhân vật hiền lương hoặc những nhân vật thông minh và biết cư xử vuông tròn, ăn ở phải đạo. Họ đâu thể nghèo hèn mà dẫu có nghèo như Tuyết Mai thì cũng không được dốt nát và phải có ăn học chút đỉnh hoặc phải có tài hoa. Nhất là họ phải có nhân diện và vóc dáng trội hơn bàng dân thiên hạ. Đào Vũ Kỳ Trân, Lê Phước Nghiệp và Tố Tâm dù có mảnh khảnh thì hai chàng kia vẫn được chị ca ngợi là đẹp rắn chắc theo kiểu trượng phu nam tử, còn nàng nọ cững được chị so sánh vẻ thướt tha của cây lệ liễu. Chàng Hoàng Khiết Tinh tuy mập mạp nhưng được tác giả tặng thêm vẻ bảnh trai như nam tài tử điện ảnh Rod Taylor. Còn cô Hồng Nguyệt có chân thấp chân cao và mặt rỗ hoa mè hồi nhỏ, nhưng vì cô ta hiền lành, tài hoa lỗi lạc nên tác giả thay thế Ông Trời cho cô gặp ông thầy bó ngải Chiêm Thành kéo dài cái chân thấp vài phân để nó xấp xỉ với chân cao, và chị đóng cho cô ta đôi giày đế mỏng đé dầy để cô ta có dáng đi thăng bằng, thướt tha và uyển chuyển. Chưa hết! Chị còn truyền lịnh cho những vết rỗ trên khuôn mặt cô ta phải theo thời gian mà lì đi để da mặt cô ta trơn láng.
Chân dung và cách phục sức của các nhân vật trong Thời Biển Lặn Sông Trong tuy không được miêu tả chăm chút, nhưng cũng khá chu đáo. Xin đọc đoạn hai chị em Tố Tâm và Tố Tiên đi dự cuộc dạ yến và dạ vũ tại Dinh Tỉnh Trưởng:
TốTâm Tố Tiên như cặp sanh đôi. Hai chị em có những đường nét khuôn mặt thanh tú và hao hao giống nhau. Hai cô chỉ khác Tố Tâm mảnh mai có mái tóc để dài lưng chừng lưng, còn Tố Tiên nồng nàn sinh lực với mái tóc đen ngắn đến cổ, vén gọn hai bên mép tai. Đêm nay hai cô ăn mặc và trang sức cũng giống nhau, áo dài tay phùng bằng gấm Thượng Hải màu hồng, nổi những cành bạch mai trên nền gấm rập rờn ánh bạc. Cả hai đeo bông giọt mưa bằng ngọc trai, vòng cổ, vòng tay bằng ngọc trai. Quần lụa trắng, mang giày bít mũi với gót cao. Mái tóc đen như nhuộm mực nằm trong chiếc ''băng-đô'' hồng xõa bồng trên bờ vai thon gầy mảnh khảnh của Tố Tâm. Làn da trắng của cô đuợc dậm lên lớp phấn hồng nhẹ, dưới ánh đèn điện trông cô hết sức bình thuờng. Nhưng trước cái vẻ cao sang và nét quý phái trời ban đó, ai trông thấy, cũng khó lòng mà quên đi trong giây lát.
Còn Tố Tiên dáng thanh thoát không bằng chị, cô hơi thấp hơn, nhưng có vẻ tươi mát hơn chị bởi nước da trắng như gà bóc, nụ cười vui tươi hớn hở đi với đôi mắt to ngời sáng. Cái nhìn vô tư cô đầy tự tin. Và lúc nào trên miệng cô cũng sẵn sàng chớm nở nụ cười càng lâu càng cảm thấy cô rất dễ thương tạo cho người đối diện nhiều mỹ cảm lẫn thiện cảm.
(TBLST, các trang 241, 242)
Còn chân dung của Khải Tuấn, một chàng thanh niên thuộc thành phần ưu tú của xã hội trung lưu cấp cao được tác giả phác họa như sau:
Khải Tuấn có tướng khỏe mạnh, cao ráo phải một mét bảy chứ không ít. Nước da ngăm, cái ngăm khỏe mạnh hồng hào như da rái lựu rám nắng. Mái tóc anh bồng bềnh trên vầng trán vuông, cao và rộng. Chân mày rậm. Cặp mắt to, tròng đen ngời sáng nhiều hơn tròng trắng như phớt màu xanh lợt của men sứ. Anh đi đứng thong thả, nói cười vui vẻ, tế nhị. Hôm đó, Khải Tuấn mặc chiếc áo tay ngắn màu kem, quần nâu sậm. Cái mốt thời nay, các cô cậu thường hay đeo dây chuyền mỏng, bằng vàng 18k, dài gần tơi rún và miếng mề-đai hình bầu dục có lồng ảnh giữa hai mặt kiếng. Chiếc đồng hồ mạ vàng lớn mặt, dây cũng mạ vàng gồ ghề tương xứng với mặt đồng hồ. Anh mang giày da bóng loáng, miệng luôn cười tươi, ưa pha trò nên trông trẻ trung hơn trong bộ veste màu xanh đậm đêm dạ tiệc năm nào.
(TBLST, trang 305)
Đặc điểm chót trong văn chương của Dư Thị Diễm Buồn là chị hào sảng với độc giả. Chị thết đãi các nhân vật trong mọi tác phẩm của mình những món ăn quốc túy quốc hồn rất thường xuyên, rất phong phú ê hề, không tiện tặn, không bỏn sẻn. Độc giả nhờ vậy cũng đuợc... ăn hàm thụ luôn. Nhưng có điều hơi lạ lùng là không bao giờ chị cho các nhân vật mình ăn bất kỳ món mắm nào. Hỏi ra, chị vốn dị ứng với món quốc túy quốc hồn đậm tình dân tộc này. Thỉnh thoảng, chị biểu diễn tài nữ công gia chánh của mình bằng chỉ vẽ cho độc giả làm một vài món ăn địa phương ( như các món ăn cỏ truyền ở quận Cai Lậy). Và cũng hình như chị chỉ đãi độc giả ăn các món ăn Nam Kỳ Lục Tỉnh chứ không đãi các món ăn miền Bắc hay các món ăn miền Trung. Có lẽ về ẩm thực, chị có dị ứng hoặc kỳ thị với các món ăn ngược lên hướng Bắc xa xôi chăng?
*
Trong truyện có thêm hai mối tình quan trọng nữa. Đó là mối tình giữa Đào Vũ Kỳ Trân và cô Thoại Hoa. Cô này có học thức, giỏi việc mưu sinh, thông minh, quyền biến, cư xử theo con nhà thượng lưu trong xã hội. Nhưng Đào Vũ Kỳ Trân chỉ thương mến cô ta, chứ không yêu đương say đắm như đối với Tố Tâm. Không hiểu Thoại Hoa có vì tự ái hay vì nhút nhát mà không chịu tỏ tình trước với Kỳ Trân? Nàng mòn mỏi đợi chàng bật đèn xanh trước, nhưng chàng cứ bật đèn đỏ, rồi bật đèn vàng, nên nàng đành đậu chiếc xe tình ái tại chỗ. Sau cùng,Thoại Hoa đi qua Pháp học tu nghiệp (tác giả không nói tu nghiệp về ngành nghề gì ) cốt nhờ không gian và thời gian chôn mối ẩn tình của nàng.
Mối tình thứ hai là mối tình giữa Khải Tuấn và nữ dược sĩ Vân Trang. Cô này là chị ruột của Vân Hạnh, mà cô Hạnh lại là bạn tâm đầu của Tố Tiên. Cả hai chia tay mà cả cô Trang lẩn Khải Tuấn chẳng ai ngậm ngùi lưu luyến huống hồ là đau khổ tổn thương? Mối tình này gượng gạo, lỏng lẻo, chẳng những không dậm chân tại chỗ mà coi bộ đang hồi suy thoái. Cho nên Vân Trang cương quyết cắt đứt cuộc tình phai thắm lạt hương kia đi. Có như thế, Vân Trang thảnh thơi đi lấy chồng, còn Khải Tuấn tha hồ vẫy vùng trong cuộc đùa bóng giỡn trăng với Tố Tiên để rồi trầm lụy si mê nàng.
Nếu bảo rằng Thời Biển Lặng Sông Trong là tiểu thuyết đồng quê theo trường phái văn chương hiện thực thì chưa chắc đúng. Ở đây, trong bối cảnh nửa chợ nửa quê, tác giả thăng hoa vào những giấc mơ danh vọng chói chang, những ước vọng đến những địa vị nguy nga tráng lệ dưới bóng mặt trời, rồi rủ rê độc giả bơi lội trong những ảo tượng lộng lẫy do chị un đúc, sản sinh . Những giấc mơ, những ước vọng ấy được thể hiện ở hai cô gái tỉnh lỵ, một liệt vào bậc trung lưu cấp thấp (Kiều Phương), một còn cựa quậy trong cảnh nghèo hèn (Tuyết Mai), nhưng bỗng dưng nhờ tài năng thiên bẩm vụt trở thành minh tinh màn bạc. Chúng còn thể hiện qua cô gái có tật chân và xấu xí từ lúc nhỏ (Hồng Nguyệt) và qua cô gái hiền lành khờ khạo, không có cá tính (Kiều Nga) ; rồi đó cô đầu trở nên một nhà văn lừng danh, cô sau trở thành một nhà thơ lỗi lạc. Hai cô gái lao vào vực văn nghệ trình diễn và hai cô gái lao vào môi trường văn chương thi phú, nếu không được trai tráng xun xoe ve vãn thì cũng lấy chồng giàu. Còn hai nữ nhân vật vai chánh là Tố Tâm và Tố Tiên đều lấy chồng nhà giàu, học giỏi, đẹp trai hoặc bảnh trai. Riêng cô chị thì đậu tú tài vào đầu mùa nền Đệ nhứt Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam, bằng đó rất hiếm quý vào thu đó, huống chi bằng cao học của cô em đa từng du học ở Mỹ.
*
Dư Thị Diễm Buồn vốn chủ trương văn dĩ tải đạo. Chị chịu ảnh hưởng nền luân lý cổ truyền của nhà sĩ Nguyễn Đình Chiểu: Trai thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình. Nhưng vào thời đại nam nữ bình quyền, chị không đành lòng để cho nàng phục tùng chàng theo truyền thống gọi dạ bảo vâng. Lúc còn đá lông nheo với nhau, lúc yêu nhau và lúc hứa hôn với nhau, nàng có thể cải vả với chàng rầm rĩ, chì chiết chàng dằng dai bởi tự ái ổn thương, bởi ghen tuông sa đà. Nhưng khi cả hai nên vợ nên chồng rồi thì nàng trở nên mềm mỏng ngọt ngào với chồng.
Trong hai truyện dài Một Góc Trời Thôn Dã và Thời Biển Lặng Sông Trong ít có nhân vật gia nhập vào quân ngũ, trừ Đào Vũ Kỳ Trân, Lê Phước Nghiệp và Hoàng Khiết Tịnh vì thu đó dân miền Nam an hưởng thái bình, chưa có ngòi lửa chiến tranh ngún cháy khắp phần đất nước tự do nên chưa có lịnh Tổng Động Viên. Cho nên dù vốn yêu lính nhưng tác giả chỉ có thể tạo ra những lính kiểng lính huê, ngồi ngoáy bút ở văn phòng và họ chưa thể tỏ ra anh dũng trong các cuộc hành quân diệt địch.
Dư Thị Diễm Buồn cũng chủ trương luôn chuyện ở hiền gặp lành. Trong hai tác phẩm này, người ác đúng nghĩa rất hiếm. Bà Hai Cung xéo xắt đày đọa tình địch lúc đầu, nhưng về sau lại tỏ ra tử tế với bà Tư Hiền và đứa con của chồng. Hai nàng Kiều quyết lòng chia uyên rẽ thúy thằng em khác mẹ của mình vì mặc cảm hơn vì hiểm ác. Tuy nhiên khi con gái của Thiện Tố gặp nạn, cả hai tỏ ra thông cảm với Cẩm Hương, ân cần an ủi nàng.
Còn thêm một đặc điểm nữa, bao giờ các nhân vật chánh của Dư Thị Diễm Buồn cũng được trời ban thưởng: nam nhân vật thì hùng tráng ở sắc vóc và trượng phu ở cách sống, còn nữ nhân vật thì diễm lệ yêu kiều, tâm tánh hiền lương. Lại nữa, họ còn được Thượng Đế lì xì một hậu vận tốt đẹp hiển vinh giống như hậu vận các nhân vật chánh trong cổ tích, trong truyện thơ, trong các tác phẩm diễm tình của nữ sĩ Barbarra Cartland (Anh) hoặc của đôi uyên ương tiểu thuyết gia Delly (Pháp).
Dư Thị Diễm Buồn ưa viết những lới mắng mỏ và chì chiết với các nhân vật ác độc (nhân vật phản diện), ưa nói xóc hông xóc óc họ. Nhưng điều đó chứng minh tâm địa chị rất tốt lành, rất can đảm. Có lẽ chị nghĩ rằng mình chẳng cần các độc giả trí thức rởm rang khó tánh, hạng ưa chê bai văn chương nêu lên cái Thiện. Thứ văn chương dưới tầm mắt cao ngạo của họ là lỗi thời. Con đường văn chương tải đạo của chị đã mở sẵn từ khi chị bắt đầu cầm bút và chị tha hồ hăm hở xông pha lên đường, trối kệ những miệng lằn lưỡi mối được ngụy trang đó là miệng lưỡi thông minh uyên bác của bọn ngụy trí thức. Nếu chị nghĩ như thế thì các tác phẩm của chị lot vào quảng đại quần chúng dễ như bỡn và sẽ trường tồn với cảm quan trong sáng của hạng độc giả thuần hậu và đơn giản trong cách suy nghĩ.
Hồ Trường An
(trích Quê Nam Một Cõi)
đọc thêm:
Tiếng Thơ Luân Hoán: