TRẦN HỒNG CHÂU NGƯỜI
Thi
Triển Túy Quyền Trên Bục
Giảng
Vào đề - Bài này được viết ra như một
lời cám ơn
khi Hoàng tôi nhận được tác phẩm Dăm
Ba Ðiều
Nghĩ Về Văn Học Nghệ Thuậtcủa Thầy
tôi gửi cho. Hoàng tôi vừa được tin Thầy đã
giã biệt cõi tạm. Xin mừng Thầy đã chuyển nghiệp,
xin
thành kính phân ưu cùng tang
quyến, môn đồ và bằng hữu của
Thầy.
Trại Ðỗ Quyên 11 giờ trưa ngày 13
tháng
12
năm 2003.
* *
Hàng năm ngày Tết chúng tôi có
lệ lôi ra một tập thơ mình ưa thích ra để bói... Kiều. Năm nay,
chúng
tôi dùng Hạnh Phúc
Ðến
Từng Phút Giây
(Văn Học, California 1999)
của Trần
hồng Châu,
vốn là... Thầy Hoạch ngày xưa
của cả hai đứa. Nhân đó, Hoàng tôi
cũng
hứa với Lệ Hằng sẽ viết một vài cảm nghĩ về
tập thơ
này. Rủi cho tôi, lúc đó cũng là thời gian Lệ
Hằng nhảy choi choi như gà mắc
đẻ vì bao
nhiêu chuyện điên đầu lỉnh kỉnh quanh việc di
tản
từ Phong Trang trên Blue Mountains u nhã về
Trại Ðỗ Quyên phồn hoa bụi bặm. Bà ấy động tâm
tán
loạn
làm tôi cũng lắc lư ‘điên’ theo,
thế
nên
lời hứa với đàn bà có khi trầm trọng chí tử
mà có khi cũng dễ theo gió bay đi? Trong khi tôi
lửng
lơ chưa giữ lời hứa thì lại nhận thêm cho quyển DBÐNVVHNT
(Trần
Hồng Châu - Dăm Ba
Ðiều
Nghĩ Về Văn Học Nghệ Thuật -
Văn
Nghệ, California 2001).
Lệ Hằng lại đi Mỹ, phần chính cũng vì trắc
ẩn
đối với một con nợ văn bi thảm tội nghiệp của
Bà ấy.
Nhà vắng cuối tuần, không lý cứ lơ
mơ quanh quẩn rồi than dài như
Trịnh
công
Sơn
/thừa đôi tay dư làn môi/ hay
/bạn bè rời xa chăn chiếu/ ô
hay mình vẫn cô liêu/ nên Hoàng tôi tôi
tự cho mình cấm trại mấy ngày để
đọc một mạch cho xong DBÐNVVNNT. Ðọc lần đầu, đã
hẳn.
Bởi
những điều Trần hồng Châu
viết - kể cả thơ, không phải là những gì để
chỉ đọc một lần rồi thôi.
Chẳng hiểu sao mỗi lần nghĩ
đến
Trần
hồng Châu,
tôi lại liên tưởng đến Thế Kỷ 20,
xuất hiện
rồi tuyệt tích trên văn đàn Miền Nam đồng thời với Sáng
Tạo bộ mới và Hiện Ðại.Tôi đã
quên
hầu hết nội dung của
Thế Kỷ 20số ra mắt, trừ bài đầu, nhất là
mấy chữ đầu của câu đầu: ‘Như một lẵng hoa...’,
câu trực khởi rất Tây hấp dẫn tôi như phù chú. (Trong bài này, tất
cả
những câu, những chữ
trong ngoặc đơn đều là từ
DBÐNVVHNT). Sao có liên tưởng đó? Có
phải vì thuở ấy, tôi có điều khát khao cần được giải tỏa và trông đợi tìm
thấy chìa khóa nơi Thế Kỷ 20
nhưng Thế Kỷ 20 yễu
tử khiến
tôi thất vọng? Có phải vì bài chủ lực của
Thế Kỷ 20số ra mắt là một trong những bài văn luận bằng tiếng mẹ đẻ
hay và... hậu hiện đại nhất tôi được đọc thời đó? Ðó
cũng
là thời, vì mê bài tựa truyện Kiều của Chu mạnh Trinh,
Hoàng
tôi đã ước ao thực hiện một tuyển tập
gồm
những bài tựa, bài giới thiệu, bài
bạt... hay nhất cả bằng chữ
Hán,
chữ
Nôm và ‘quốc ngữ’. Ước vọng đó cho
đến
nay vẫn còn dang dở.
Năm 1997, khi ghi lại một vài
cảm
nghĩ về Trần hồng Châu,
tôi có nhắc đến tạp chí
Thế Kỷ 20 rằng: ‘Tôi đón nhận
Thế Kỷ 20của ông như đồ đệ vô danh đón nhận ‘lẵng hoa đầu
xuân’
thầy mình gởi cho. Lẵng hoa đó
không
tươi mãi được bởi ông không muốn trồng hoa... nylon hay chơi
hoa vải trong khi hoàn cảnh lịch sử
quê hương không cho phép những người
không
chịu sắp hàng được thong dong làm
văn
học theo sở nguyện. Thế Kỷ
20biến mất và những đồ
đệ
nam
nữ của ông lục tục đứa vào quân trường, đứa
đi
nếm mùi lao lý, đôi đứa phải chạy qua bên kia dù không muốn sắp
hàng nhưng chẳng còn cách nào khác hơn vì lũ
chúng
tôi chỉ có hai đường để lựa chọn hoặc vất
vưỡng
trong
đống
rác của tư bản rừng rú hoặc chết ngộp
trong
chiếc lồng đầy hoa vô sản quốc
tế... Tôi đã chọn đường vẫy vùng giải
hoặc và lạc mất ông từ dạo đó cho đến khi có
duyên
may đọc lại văn thơ của ông nơi
chốn
lưu đày...’ (Hoàng Nguyên Nhuận - Một Góc Trần Hồng
Châu). Ðó cũng là cảm nghĩ của
tôi về Trần
hồng Châu hơn 30 năm trước.
Thật vậy, trên nguyệt san
Vấn Ðềcủa Vũ Khắc
Khoan
số 50 tháng 9.1971, tôi có viết: ‘Sự rã
tan
của
nhóm Quan Ðiểm đã gây ra một thứ trống không văn hóa góp
phần
thành công cho nhóm Sáng
Tạo, nơi phát sinh một số
cây bút có thế giá trong nhiều năm sau này. Nhưng
Sáng Tạo, rồi Thế Kỷ
20... chỉ sống được một thời gian ngắn vì nội
dung
lạc lỏng, vì cố gắng tạo một
sinh
khí mới
nhưng chẳng biết để làm gì’. (Tùy Anh -
Cuộc Khủng Hoảng Trí Thức Việt
Nam).Tôi ghi xuống những cảm nghĩ ấy trong liên tưởng về
dòng
dẫn
nhập của Trần hồng Châu
trong
Thế Kỷ 20số ra mắt. Dòng dẫn nhập ấy nguyên văn: ‘Như một
lẵng
hoa xuân
trong mùa lửa hạ vô cùng tận
của miền Nam đất nước’.
Mùa lửa hạ vô cùng tận... mấy chữ
dường như báo trước định phận của đứa
con
tinh thần của Trần hồng Châu.
Miền
Nam đang triền miên tắm gội
bằng Napalm, B.40, chất Da Cam và những ý thức
hệ
ngoại lai xung đối nên bó hoa xuân của
Trần
hồng Châu và thân hữu
muốn
hiến
cho đời chớp mắt đã bị thiêu rụi. Bài dẫn nhập này đã
được in
lại trong DBÐNVVHNT hôm nay, vẫn long lanh như một
hạt
ngọc.
Các đại học miền Nam trước 1975 không thiếu
gì
những ‘ông thầy Văn
Khoa’. Nhưng theo tôi, thực sự dạy văn - đặc
biệt là Việt văn - với tất cả những nghiêm
cẩn
say mê nghiệp dĩ không phải
là
nhiều. Sài Gòn có Thầy Nguyễn khắc
Hoạch, Huế có Thầy Lê Tuyên. Trong khi các thầy khác chỉ loanh quanh giảng giải –
expliquer, thì Thầy Hoạch, Thầy Tuyên vi vút huê dạng với tài
triển
khai – expliciter, rất chi là Hiện Tượng luận. Chỉ khác một điểm. Thầy Tuyên lên lớp phải
có giấy,
như một thợ cắt kim cương lành nghề, tài hoa nhưng
chuẩn
xác, không thiếu một
câu không thừa một chữ. Thầy Hoạch thì tay
không, như kẻ nhàn du bát
phố,
như một nhân vật võ lâm đang thi
triển... Tuý quyền. Trên bục
giảng, Thầy Tuyên nghiến ngầm như kẻ
xướng
hịch, Thầy Hoạch ung dung như một kẻ cầm chầu Hát Nói. Phải
chăng
vì vậy mà đa số những tác phẩm trình đời của
Thầy Tuyên
là văn luận thì của Thầy Hoạch lại là thơ?
DBÐNVVNNT là đứa em... áp út chào đời sau
một đàn
anh tùy bút (Thành Phố
Trong
Hồi Tưởng- An Tiêm,
California 1991), và ba đàn chị thơ
(Nửa Khuya Giấy Trắng
- Thanh Văn, California 1992;
Nhớ Ðất Thương
Trời- Thế Kỷ, California 1995 và Hạnh Phúc
Ðến
Từng Phút Giây
). Nghĩ như Trần hồng Châu
rằng:
‘Sống những giờ phút yêu đương, thể
hiện
yêu đương trong cuộc đời chắc có thể thú vị
hơn
viết vài pho sách mổ xẻ tình yêu!’ thì tránh sao khỏi
móng
vuốt của kiều nữ Ly Tao?! Trong câu này, ‘thú
vị’
nhất có lẽ là ba chữ ‘chắc có thể’. Ðã chắclại
còn
có thể, đã có thểlại còn
chắc... Chỉ có tiếng Việt và những người chủ
động
tiếng
Việt bản
lãnh như Trần hồng Châu mới
biết lúc
nào cần ghép ba chữ đó lại với nhau
một cách...
Thiền vị như thế. Có phải vì bản tâm
Trần
hồng Châu dịu dàng hòa ái,
hay vì không muốn cọ xát với hồng trần phồn hoa, nên Trần hồng Châu
chọn
con
đường thơ vì dù ‘... thơ ít có liên quan với thực
tại và thực tiễn!’ nhưng chính thơ mới đủ sức ‘đưa ta thẳng vào
tận
trung tâm sự vật, để vươn tới xứ sở
của Chân
Thiện
Mỹ’?
Một điểm hấp dẫn nữa của DBÐNVVHNT là tiếp
sau phần
‘giảng bài’- kể cả bài điểm quyển hồi ký
của Giáo sư
Nguyễn đình Hòa vốn là
đồng nghiệp của Trần hồng Châu và
bài tiểu luận về ‘vận nước nổi trôi’
của Bác sĩ Hoàng văn Ðức tiếp sau các phần kiến giải về
tư tưởng Xuân Thu và nghệ thuật
thịnh
Ðường, về tình yêu
trong
truyện
Nôm, về Nguyễn công Trứ, về
Albert Camus - là phần châu phê những học trò
xuất sắc - hay như chính lời
Trần
hồng Châu,
‘những học trò siêng năng, gần gũi của
ông
thầy Văn
Khoa’. Trong phần châu phê này,
Trần
hồng Châu thư thái biểu diễn những cách
‘nghĩ
về văn
học
nghệ thuật’ của ông cũng như chiều hướng và
khả
năng sáng tạo ông muốn
truyền thụ cho họ thực hành,
trong
khi ân
cần
chỉ cho họ thấy rõ hơn và tự tin hơn vào những sở
trường cần triển khai nơi chính họ. Thủ
thuật
này hiển lộ qua cách Trần hồng Châu đặt
tiểu đề cho toàn bộ tác phẩm hay riêng một tác
phẩm mà ông giới thiệu.
Trần
hồng Châu phê Phạm xuân Ðài của
Hà Nội Trong Mắt
Tôilà ‘con người yêu chân,
thiện, mỹ quay đầu nhìn về quê
hương
khổ đau’. Bụi và Rác của Nguyễn xuân Hoàng là ‘nỗi đau của
tất cả chúng ta hôm nay’.
Nghề Làm Vua của Lệ
Hằng
là ‘bản
cáo trạng nhắm thẳng vào
cường
quyền
trong suốt chiều dài lịch sử’. Tiểu
luận
của Hồ đình Chữ về Tản Ðà và
Tình
Yêu là ‘đường vào tình sử’.
Sử Cacủa Nguyễn xuân Thiệp là
‘thơ và huyền thoại trên thượng nguồn dòng sông lịch
sử’. Tập Văn Luậncủa Lưu Nguyễn Ðạt là
tấm gương phản ánh ‘một người
‘phải lòng’ tiếng Việt’.
Từ Ðiển tiếng Huếcủa Bùi
minh
Ðức là ‘cuốn
từ điển phương ngữ viết bằng trái
tim’. Hồng khắc Kim Mai qua hai tập thơ
Mắt Màu Nâu và Em Cho
Ta Tình Thơlà hình ảnh của
‘Bạch Tuyết, một mình giữa bão lốc thời đại’.
Trong Mê Cung
của Nguyễn trung Hối là ‘vũ trụ hư cấu của kẻ đào
thoát khỏi bản ngã và kỷ niệm’. Ðỗ
quý Toàn
là kẻ ‘đi vào mê hồn trận của thơ và tiếng nói’
trong
Tìm Thơ Trong Tiếng Nói... Lối châu
phê tài tình bay bướm này nhắc
Hoàng
tôi
nhớ đến một vị Thầy quý mến hồi Ðệ
Tứ. Thầy Cao hữu Triêm, một dị nhân kiệt xuất trong
giới
nhà giáo Huế. Thay vì trừng trị Hoàng tôi
ham... trốn
học lang thang hay đi trễ về sớm, Thầy Triêm chỉ
phê đại để... Học khá, nhưng xuất hiện phi
thường!Tôi chỉ khổ vì
phải giải thích cho gia đình tôi mấy chữ đó trong học bạ
có
nghĩa gì.
Cho đến bây giờ hình như
chưa
nghe ai than là bị ‘ông thầy
Văn
Khoa’ phê oan, do đó cũng không nghe ai
khiếu
nại là thầy thương không đều cả. Chính qua
phần
châu phê này mà người ta
thấy rõ cái trăn trở và can trường trí
thức, cái tài lăng ba vi bộ của một kẻ đứng giữa
lằn
ranh mong manh của một bên là ‘nghề’
văn
khoa phải bám sát các lý thuyết mỹ học và phê bình văn học, một
bên
là cố gắng vươn lên, cố gắng đóng ngoặc những lý
thuyết đó vì
nghiệp dĩ sáng tạo.
DBÐNVVHNT là một thủ bản có thế
giá về phê bình và lý luận văn học nghệ
thuật. Vốn
là một sản phẩm sáng giá của
Sorbonne quyền quý
tao
nhã, dĩ nhiên cái nhìn của Trần hồng
Châu
nặng Tây Âu hơn là Anglo-saxon. Ðó là
một điều may cho người đọc. Bởi trong thế giới
hiện
đại, phê bình và lý luận văn học nề nếp
chững
chạc
nhưng rất người vẫn là của
Tây Âu,
nhất là Pháp. Hay nói như Trần hồng Châu:
‘người Pháp, người Ý,
có lẽ khôn
ngoan, hồn nhiên, đi sâu vào nghệ thuật
sống
hơn
người Mỹ, người
Anh’.
Phong cách suy tưởng của
Trần
hồng Châu ‘nặng’ Tây
Âu
nhưng Trần hồng Châu không hề tỏ ra
xu phụ hay thần phục, ngay cả
chạy dọi theo đuôi những nhân vật đầu đàn trong ngành phê
bình
và lý luận
mỹ học của Tây Âu như một số chuyên gia phê
bình
lý luận
văn
học - hải ngoại cũng như
trong nước, đã và đang làm. Từ
sau
những đợt đánh phủ đầu
của thực dân
Pháp, một số trí trức Việt Nam - hữu cũng như tả -
trở
nên
lòa mắt khớp mấy ông thần bà thánh triết
lý, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật của Tây phương, cũng
thuần
thành như cácx bậc trưởng
thượng của họ ngày xưa
thuần
thành với lề lối suy tư Tử viết hay
/đạo thầy thứ nhất là
Nho/ hay giáo chủ này phán rằng, giáo
chủ kia dạy rằng. Trần hồng Châu là
một trong những biệt lệ, học Tây phương nhưng lại
không
hành
xử
như
những học trò của Tây phương.
Trần
hồng Châu đan cử những tư
tưởng, liệt kê những tên tuổi bậc
thầy của Tây phương không phải như những á
thánh, những tín điều hay những định đề, nhưng chỉ như
là
những ví dụ, hiển chứng hay
trang
hoàng
cho điều Trần hồng Châu muốn nói.
Trần
hồng Châu có sự tự trọng và tự ái
của một kẻ tự mình biết thế nào là
phải và trái, toàn cầu và tổ quốc, dân tộc
và
nhân
loại. Trong cuộc phỏng vấn năm 1995
của
nguyệt san Văn Học,
Trần
hồng Châu thú nhận: ‘Tôi
thường thấy mệt mỏi với lý thuyết
văn
nghệ’. Một năm sau,
khi trả lời
nguyệt san Khởi Hành, Trần hồng Châu
lại
nhắc: ‘Tôi ít để ý đến lý thuyết, trường phái,
mới cũ hay Ðông Tây’ chỉ làm cho người ta
‘sa lầy trong những tranh luận lý thuyết trừu tượng và
không
tưởng’. Hai năm sau,
trong
bài phỏng vấn trên đài RFI tháng 3.1998,
Trần
hồng Châu lại nói:
‘Dần
dần
tôi cảm thấy mệt mỏi, bảo hòa’ (với những quan điểm và lý thuyết sáng tạo).
Mệt mỏi bảo hòa vì những lý thuyết đó chỉ là ‘màu xám của
lý trí trừu tượng, xa rời cái sống động, nóng hổi và
xanh
tốt của
nhân
sinh’ trong khi những lý
thuyết mới
như Tân tiểu thuyết, Tân phê
bình,
Cơ cấu luận, chủ trương Hủy tạo
lại ‘xa rời
nhân
sinh, phản văn nghệ và
không
phát triển
được’. Lý thú hơn nữa là, như
một
thiền sư dùng thét và
gậy khai tâm cho môn đồ, Trần hồng Châu
‘quại’ luôn
người phỏng vấn vốn là kẻ
đang... e lệ ngập ngừng đi vào
thế giới phê bình văn học dưới ánh sáng của cơ
cấu luận
và hủy tạo!
Qua DBÐNVVHNT, bằng phong thái và bút pháp của một ‘trí
thức sáng tạo’ tự tín khiêm
cung
và lịch lãm, Trần hồng Châu kiến giải những vấn đề gai
góc của văn
học
nghệ thuật một cách bình dị, không rườm rà
khúc mắc, không kinh viện nặng nề, không dung tục
trịch thượng và cũng không nhũn nhặn tự ty.
Trần
hồng Châu biết mình nói
gì,
những gì cần nói và nói như
thế
nào, bằng một ngôn từ lịch sự khoan hòa
trong
bóng.
DBÐNVVHNT là một thứ bí kíp, một bài ‘Hiệp
Khách Hành’ để lại cho ‘văn lâm’ của
miền
Nam Việt Nam trước
1975 và lưu vong hôm nay - mà theo Trần hồng Châu có
cùng
một bản
chất, một ý hướng và một định phận. Qua
DBÐNVVHNT, Trần hồng Châu
rành
mạch kiến
giải
những vấn đề như sáng tạo
văn
học
nghệ thuật, và riêng văn học nghệ thuật Việt Nam
trong
bối cảnh văn học nghệ thuật thế giới, vấn đề
văn
học
nghệ thuật Miền Nam trước 1975 và lưu vong hiện nay đứng ở đâu và
đi về đâu...
Trần hồng Châu thú nhận mình là
kẻ ‘tha
thiết hướng về Chân
Thiện Mỹ’,
chân
thành, tự hào và tam ‘độc’ - độc nhất, độc
lập, độc đáo. Trần hồng Châu đề cao ‘Tâm
Thiện’ khi sáng tạo,
trong
khi có kẻ ồn
ào sửa lưng Nguyễn Du sai khi bảo chữ Tâm bằng ba chữ
Tài. Sai! vì chỉ có tài mới là động năng đẩy người sáng tạo theo
mới, theo ‘tân’, mới đủ sức làm ‘phá thể’, ‘hủy
tạo’, ‘tân
tiểu thuyết’, ‘tân phê bình’.
Trần hồng Châu không dựa vào
phe
này để chơi phe kia, không lấy lý thuyết chọi lý thuyết,
không
lấy ý thức hệ dập ý thức hệ bởi vì, trong khi sinh hoạt
văn
học
nghệ thuật chỉ huy tuột dốc vào hố thẳm ‘U mê, cuồng tín, ác độc
và lòng tham không đáy’,
thì
nền
văn
học
nghệ thuật tự do dân chủ lại dậm chân tại chỗ
trong
‘những lớp bụi bậm của lý trí lạnh lẽo,
‘mốt’ thời thượng, phấn son làm
dáng,
ấu trĩ tầm thường, khuôn mòn bảo thủ ù
lì hay cái ‘mới’ a dua, giả tạo, hung hăng...’.
Trần hồng Châu cảnh giác về
hiện
tượng tiếng Việt như một
chủng
loại trên
đà tận diệt: ‘Trong hoàn cảnh hiện tại, ở
hải
ngoại, ta còn có thể cầm cự trong một vài
thập
niên
nữa, cho tới khi không còn người
‘sản
xuất’ cũng như người ‘tiêu thụ’ văn nghệ...’.
Trần
hồng Châu nghiêm
cẩn
nhắc đến hai
chứng
bệnh
đang
tiếp tay cho sự tàn phai đó. Ðó là ‘cái a dua thời
thượng, cái giả tạo đôi lúc ồn ào quá
mức... và cái ‘hội chứng phe nhóm’. Ðồng thời
Trần
hồng Châu cũng vạch ra
đường
sống
và con
đường tiến tới của văn học nghệ thuật
hải
ngoại đó là ‘phải vươn tới cái khối hơn bẩy mươi
triệu dân
Việt ở trong nước, loại độc giả đang thèm
khát
những luồng gió mới’. Ðây là một gợi ý
nghiêm túc, thiết thực. Và can đảm nữa.
Can
đảm vì đi ngược với cái ‘a dua thời thượng’ và ‘giả
tạo ồn
ào’ của văn học nghệ thuật lưu vong vốn có
khuynh hướng nhìn Việt Nam như một bế tắc tuyệt vọng.
Khuynh hướng này đòi hỏi người làm
văn
học
nghệ thuật phải tỏ ra tiếc hận, bi phẫn, hay ít
ra cũng hờ hững xa cách,
hoài
nghi hay trịch thượng khi nói về hay viết về bất cứ gì của
Việt
Nam.
Nếu không thì có thể bị tố là lội ngược
dòng,
là không thời thượng,
không
chính
thống, không
thuần
túy, không dứt khoát.
Thuần thành và dứt khoát tôn trọng cái tự
do của
người sáng tạo như một tâm nguyện
thiêng liêng,
Trần
hồng Châu cũng cố
gắng níu sáng tạo
văn
học
nghệ thuật ở lại với trần gian, không phải là một trần gian mơ hồ vô
xứ,
nhưng là một trần gian có
tên
Quê Hương. Tìm được cán cân quân bằng giữa
toàn
cầu và địa phương, giữa nhân loại và
dân
tộc là một trong những bận tâm của Trần hồng Châu. Ðó
là một điều rất khó - mà hình như cũng là rất
dễ, với
những kẻ vì nghiệp dĩ
lịch sử phải sống đời lưu vong để rồi
phải luôn
luôn
xao xuyến trằn trọc giữa lưu đày
và quê
nhà như lối nói của
Camus. Cho
nên, trong khi đa số đang lặp đi
lặp lại hai chữ ‘toàn cầu’ ‘quốc tế’ như bùa
chú, trong khi một số người chỉ
muốn
nghĩ đến
chuyện lìa xa tổ quốc, chôn chặt
bản
lai diện mục ‘Mít’ của mình,
Trần
hồng Châu lại chủ trương tuy phải
‘vượt ra
ngoài biên giới địa phương mỗi khi
suy luận
về văn nghệ. Nhưng khi sáng tạo thì
cần
hòa hợp nhiều yếu tố trong đó yếu
tố quê hương vẫn chiếm phần quan trọng. Vì, chỉ
khi chúng ta hoàn toàn là
chúng
ta, là quê hương chúng ta, chúng ta mới
đạt tới cái khái quát, cái toàn diện của con người,
của
nhân
loại... Trên con đường dài, giữa cảnh núi
rừng
bao la,
nhiều khi người thám hiểm cũng cảm thấy
cô đơn
hay mỏi mệt, đôi lúc thấy phải dừng chân về thăm hay tưởng nhớ lại
quê cũ và truyền thống xưa, để tìm ở đấy những điểm
tựa,
những niềm an ủi, những lý do
tin
tưởng, hầu mong vững lòng tiến xa
hơn
nữa’.
Một tình yêu quê hương đậm đà,
một phong thái bay bướm nhàn nhã, đó là
hai bản
sắc của Trần hồng Châu mà Hoàng tôi cố
theo, cố học. ‘Phải dừng chân về thăm hay tưởng nhớ lại
quê cũ và truyền thống xưa, để tìm ở đấy những điểm
tựa,
những niềm an ủi, những lý do
tin
tưởng...’ Ðó chính là bí
kíp sáng tạo của Trần hồng Châu -
một
người từng ăn pâté chaud của Pháp và hot dog Mỹ
đến
mòn
răng, một người biết
Pháp biết Mỹ đến độ... thập thành - chứ
không
phải chỉ biết sơ sơ ba rọi. Ðọc những vần thơ cổ kính của
Trần
hồng Châu mới thấy được cái cảm thức
/cử đầu vọng minh nguyệt/ đê đầu tư cố hương/ hay
/bao năm cúc nở
riêng
sầu/ của ông sâu đậm và quay quắt đến mức
nào.
Nhận được
quyển
DBÐNVVHNT, liếc nhìn tựa sách,
tôi mĩm cười và tưởng tượng mình đang hầu chuyện với
ông
Thầy mình cách xa vạn dặm:
‘Thưa Thầy, sao lại dăm ba điềumà không phải
dăm điều, ba điều hay ít nữa cũng
lànhững điều hay đôi
điều’?! Hỏi thì hỏi, tôi thừa biết, một nhà mô phạm thường
‘không lý giải, không lý
luận’ như Thầy, Thầy sẽ không hơi đâu
dài dòng, Thầy sẽ trả lời tôi bằng một câu
hỏi: ‘Tại sao cậu hỏi vậy’? Cho nên tôi lại mườn tượng nghe
tiếng
mình:
‘Vì, thưa Thầy, Thầy dạy con hỏi chứ không dạy
con
nhắm mắt nhận những câu trả
lời sẵn
có’.
Ngôn
từ
nếu không giải phóng tâm tư
thì cũng không thể là cùm xích trói buộc con người. Des
mots, des maux mà! Vị thầy lý tưởng là kẻ có cách bắt học trò tự thắp
đuốc lên
mà đi, phải tra hỏi rồi tự tìm lấy câu trả lời.
Nghiệp dĩ của đứa học trò của Thầy
là hành động, hắn thường cần những công thức để quyết định và ra
tay,
nên
hắn
ham hỏi.Với hắn, dăm là dăm,
balà ba. Nhưng bản chất của Thầy hắn là
một
nhà mô phạm, một nhà thơ. Tiêu ngữ
của
nhà mô phạm là ‘giáo đa thành oán’. Tiêu ngữ
của
nhà thơ là vần điệu. Cho nên Thầy
không
quyết dăm mà cũng chẳng chọn ba, chẳng phải vì
Thầy sợ bị lâm vào cảnh phải nhận lời trách
móc kiểu Hồ xuân Hương: /Sao nói
rằng năm lại có ba/ mà chỉ vì
Thầy thấy dăm ba, vừa nhẹ, vừa thư thái, vừa... thơ nữa? Với
Thầy, thơ mới là đáng kể.
Nói
đến
thơ, Hoàng tôi lại liên tưởng đến sáng tạo. Tôi
thường nghe nói đại khái có một khác biệt
văn
hóa, một khác biệt theo miền, trong hai đường lối
sáng
tạo của Tây phương và Ðông
phương. Sự khác biệt này sâu
đậm đến
đâu, tôi không biết. Ðiều chắc chắn là tôi
không
thể
nào trừu tượng hay bỏ quên sự khác
biệt đó để chỉ nhìn thấy điều được gọi là phổ biến hay
toàn
cầu trong hành động sáng tạo. Cho nên, dù Thầy
‘ít để ý đến
lý thuyết, trường phái, mới cũ hay Ðông Tây’,
Hoàng
tôi vẫn
mong có cơ duyên trình Thầy:
‘Thưa Thầy, Thầy dạy tụi con sáng tạo, nhưng Thầy
không
chịu
nói rõ cho tụi con chút nữa sáng tạo là
gì? Làm thơ là gì?’
Người ta thường nói Tây
phương sáng tạo kiểu từ không ra có,
ex nihilo, biến cái
thông
thường thành cái lạ lùng, cái
chưa từng có. Sáng tạo là
đem
nhân
cách
nghệ sĩ áp đặt vào nghệ phẩm. Trong khi
Ðông
phương sáng tạo thường là thích
ứng nhân cách đặc thù của cá nhân nghệ sĩ với
đối tượng, nhập thân với đối
tượng, là khám phá cái phổ biến trong cái đặc
thù, là biến
cái ‘kho trời chung’ thành cái ‘vô
tận
của mình riêng’ Tranh thủy mạc
chẳng
hạn.
Ðó là
những đại cảnh không phải
từ
ngoài
nhìn
vào hay từ trên nhìn xuống như không ảnh.
Tranh
thủy mạc được vẽ từ trong ra, hài hòa và gần gũi.
Hay
Nguyễn Du chẳng hạn. Cả
quyển
truyện Kiều không có một
câu, một chữ
nào
nhắc đến Việt Nam dù là gián tiếp,
thế
nhưng không có một người
Việt
nào không thấy một chút gì của mình trong đó.
Chung
chung
là
như thế. Nhưng đó chỉ mới trả lời câu hỏi
sáng
tạo như thế
nào, chứ không phải sáng tạo
là gì?
Trần hồng Châu nói:
‘Chung cuộc chỉ còn lại dăm
ba điều
nghĩ, một vài xúc cảm và ấn tượng, hoàn toàn gắn bó với
thẩm quan
và
nhiệt tình của một cá nhân sáng tạo
văn
nghệ, thân mật đi
bên
những người đồng điệu,
giữa một vườn hoa nhiều màu sắc. Với cả tấm lòng
tha
thiết hướng về Chân
Thiện Mỹ. Với
phong
thái rộng mở của con người
không
muốn
bị ràng buộc bởi bối cảnh,
thiên kiến, nhóm phái hay ý thức hệ nào cả.
Một con
người mong mỏi được
hoàn
toàn
thoải mái, đuổi theo và ghi lại mọi vẻ đẹp rơi rớt
trên
giải đất trần gian mến yêu của tất cả chúng
ta’.
Như vậy, sáng tạo là đuổi theo và ghi lại. Phút
giây đó Trần
hồng Châu mượn lời Hồ
Dzếnh
để gọi là ‘phút linh’. Trần hồng Châu và
Hồ Dzếnh đợi thơ, nhưng thơ có
thể đến
và phút linh đó cũng có khi
không
đến.
Có phải van
Gogh chờ mãi phút linh đó không đến nên nổi nóng tự hớt
mất vành tai? Hay Nguyễn tất Nhiên chịu
đựng
không nổi những phút giây đó dồn dập ùa
tới
nên
đành từ giã cõi đời trong sân chùa một
đêm giá lạnh? Cũng như có những nhà thơ,
không
đủ kiên
trì chờ thơ đến, không đủ tài năng đón nhận thơ nên đành phải
làm
như thể nàng thơ đã đến, bằng những quái
thai đẻ
non
của mình gọi là... thơ tự do, bất cần người đọc,
bất cần
vần
điệu, bất cần chữ nghĩa. Nhưng đã tự do
mút chỉ
như thế rồi thì thích ghi gì xuống giấy - hay trên màn
computer, cứ ghi, thích viết kiểu nào cứ viết, thích
nguệch ngoạc cứ
nguệch ngoạc, sao lại còn ràng buộc
mình
vào một thể sáng tạo gọi là thơ?! Nói như thế,
không
có
nghĩa Hoàng tôi đã biết rõ thơ là gì vì thực
ra Hoàng tôi chỉ nghĩ
rằng
khi đã gọi là thơ tự do thì nhà thơ phải biết mình nói thơ tự
do chứ không phải thơ niêm luật,
không
phải văn, không phải câu đối, không phải vè,
không
phải hô bài chòi.
Phút linh đó là tiếng réo gọi
âm thầm khi
người sáng tạo đối diện với
quản
bút và tờ giấy. Là phút giây người sáng tạo cảm
thấy cần
‘ghi lại’ và có thể ‘ghi lại’. Nhưng nếu theo quan điểm của
Công
tôn
Long chỉ có trắng là
trắng, ngựa là ngựa chứ
không
có
ngựa trắng thì ghi lại cái gì? Ghi lại ‘sự
vật’ đã thấy, hay ghi lại ‘cái đẹp’ nơi sự vật đã thấy? Bức
La Jocondechẳng hạn. Leonardo da
Vinci
ghi lại
người thiếu phụ? hay ghi lại
người thiếu phụ đẹp? hay ghi lại vẻ đẹp
của
người thiếu phụ?
Ghi lại sự vật hay ghi lại cái đẹp của sự vật, đàng nào
cũng
phải có ‘phút linh’, phải chờ phút linh và nhờ phút
linh.
Mà chờ phút linh là phải ‘đóng ngoặc’
cuộc đời, đóng ngoặc đối tượng chứ
không
phải bám sát hay chạy trốn cuộc đời hay đối tượng.
Hiện
thực chủ nghĩa, nếu
không
phải là một thứ ngụy tín thì
cũng
là một chủ
nghĩa còn cực đoan hơn chủ nghĩa duy
tâm. Ðóng ngoặc cuộc đời hay đóng ngoặc đối
tượng
để thấy được rằng: /Giả diệc
chân
thời chân diệc giả/Vô vi hữu xứ hữu diệc
vô./ như một nhân vật
trong
trong
Hồng
Lâu Mộng đã thấy. Sáng tạo là
ghi lại cái thật không phải là thật, cái giả không phải là
giả, cái có
như là không, cái không như là có.
Hoa hướng dương của Van Gogh
không
phải là hoa hướng dương thật mà thật là hoa hướng dương.
Chân
là Mỹ, Mỹ cũng là
Thiện,
Thiện cũng là Chân. Phải
chăng
vì vậy mà Trần hồng Châu không
buộc
nghệ thuật phải vị nghệ thuật hay đòi nghệ thuật
phải vị
nhân
sinh mà để cho nghệ thuật
phải vị cả hai, hay đúng ra chẳng cần
thiên vị một
cái gì cả?
Nói thế khác, Trần hồng Châu không hoài
công
với chuyện
duy tâm - duy vật, trừu tượng - hiện thực...
trong
sáng
tạo.
Nhưng điều khó khăn cho người
sáng
tạo là phút linh qua rồi nhường chỗ cho
phút trần
lụy.
Người
nghệ sĩ chỉ đóng ngoặc cuộc đời, đóng ngoặc đối
tượng
trong
phút giây sáng tác, khi chờ phút linh. Phút
linh
đến,
sáng
tác xong bài thơ, bài nhạc, bức
tranh, bài văn thì phải
mở
ngoặc, phải trở lại cuộc đời, phải sống, phải lựa chọn. Bi kịch
và bế tắc chính là chỗ đó. Và đây có thể là một
bế tắc
nữa mà Trần hồng Châu thấy chưa cần nói đến?
Thật vậy, khi đóng ngoặc cuộc đời để sáng
tạo,
người ta muốn vị gì cũng được,
hay
nghĩ rằng mình tha hồ muốn vị gì thì
vị.
Nhưng cuộc đời lại chỉ vị ‘bối cảnh,
thiên kiến, nhóm phái, ý thức hệ’. Bế tắc và bi
kịch chính là ở chỗ nhảy qua
rồi quên
nhảy về, đóng ngoặc rồi
quên
mở
ngoặc. Chiến tranh, hận thù, chém giết cũng thế.
Ở nơi
trận
tiền, nếu ai cũng tránh không vơ đũa
cả
nắm, hay nói như Sartre ai cũng nghĩ ‘il a
volé, il
n’est pas donc voleur’ thì làm sao hươi đao múa
kiếm hay bóp cò? Muốn giết, muốn bỏ tù,
muốn
trấn
áp thì phải đóng ngoặc đối phương, phải
giản
lược đối phương để chỉ thấy ‘hắn’ là kẻ ác
ôn
đơn
giản
có tên là ngụy, là cộng sản, là vô
sản
khát máu hay tư bản rừng rú, chứ không thể nghĩ
rằng
tên
ác ôn
đó còn là cha, là chồng, là
anh
em, là đồng bào, đồng loại,
là
nhà tu, nhà thơ, nhà
văn... Qua cơn chém giết
hận
thù thì phải mở ngoặc, phải trở lại cuộc đời với
‘mọi vẻ đẹp rơi rớt trên giải đất trần gian mến yêu của
tất cả chúng ta’ như Trần hồng
Châu
nói. Ðã giã từ vũ khí thì không thể di tản cả
chiến
trận
về trong phòng ngủ hay phòng
khách
nhà mình. Trên bờ vực
thẳm cheo leo của cuộc đổi đời, người làm văn học nghệ thuật
không
thể đi tới, chưa thể nhảy vào tương lai của
đại khối ‘hơn bẩy mươi triệu dân Việt ở
trong nước’ chỉ vì họ không thoát
được cái gông cùm quá khứ. Phải chăng đây là
cái bế tắc thứ ba?
Và phải chăng bi kịch thứ ba của nền văn học nghệ thuật
lưu vong cũng chính là bi kịch của nền văn học nghệ thuật
miền
Bắc chưa rũ bỏ được ám ảnh khủng bố trắng của những nghị quyết
chính
trị
như cái vòng kim cô trên đầu
Tôn
Ngộ Không?
Hoàng
tôi chợt phân vân như thế khi Trần hồng Châu
bảo: ‘Còn
văn
học miền Bắc ngày hôm nay, chỉ
là một dòng phụ, tuyệt đối lệ thuộc vào
chính
trị,
nên
không được đề cập tới ở đây. Ðó là một
thực thể hoàn toàn khác biệt... đến từ một
hành
tinh
xa lạ’. Phải chăng vì muốn kiến giải hay
triển
khai một nền văn học nghệ thuật mà bản chất có
thể là ‘u mê, cuồng tín’ nô lệ chính trị thì
phải có một
nền
lý luận phê bình kinh viện
độc thiện khép
kín
là điều Trần hồng Châu không muốn nên Trần hồng Châu
đành nhắm mắt đóng ngoặc
dòng
văn
học
nghệ thuật miền Bắc trong DBÐNVVHNT?
Lịch sử văn học nghệ thuật cho thấy không phải
lúc
nào độc tài cũng giết chết được quyết tâm đóng ngoặc cuộc
đời để sáng tạo. Ðộc tài phong kiến sản xuất ra
Cao Bá Quát. Ðộc tài thực dân vẫn để lọt Tú Xương, Tú Mỡ,
Ðôi Bạn, Ðoạn Tuyệt, Nửa Bồ
Xương
Khô, Bộ Áo Cà Sa Nhuộm Máu...Ðộc
tài
nhân
vị đâu ngăn nổi Vũ Hoàng
Chương viết Lửa Từ
Bi, đâu ngăn được Nguyễn đăng Thục lăng ba vi bộ
với... tư tưởng Việt Nam và
triết lý Ðông phương. Vô
sản
chuyên chính đâu ngăn nổi Bùi Giáng làm thơ
và dân
chúng chơi chữ, ‘nói lái’.
Một
người anh em của Hoàng tôi kể
chuyện
là sau 1975, trong thời kỳ cãi tạo xã hội bằng cách sắp
hàng
mua
nhu yếu phẩm kể cả thuốt hút, ngoài thuốc lá hiệu Vàm Cỏ, Nông
Nghiệp, Nhà Nước cho ra đời thêm một loại mới
tên
là BTC. Mấy tháng sau thì hiệu thuốc mới này
biến
mất, có lẽ vì tiếng cười dí dõm của dân chúng khi đọc
ba vần
BTC thành: Bộ Chính Trị -
Bảo Chúng Ta - Bỏ Công Tác -
Bán
Chợ Trời đến tai Ban Văn Hóa Tư
Tưởng
trung
ương?
Hồi ở chung với Hoàng anh Tuấn tại T.4
Phan
đang Lưu, Hoàng tôi đã
có lần
nghe Ông Thần Nước Ngọt này chơi chữ bằng cách rút
gọn
tên
các
nhà lãnh đạo đương
quyền
là Lê Duẫn, Phạm văn Ðồng,
Trường Chinh, Nguyễn lương Bằng, Tôn đức Thắng thành một câu
rất đơn
giản
là Ba đồng chinh bằng tôn!Ngày xưa,
Thầy Pháp văn tếu một cách thâm trầm của
Hoàng
tôi là Cao hữu Hoành thường cười
khoái trá mỗi khi nói đến
Lettres Persannescủa Montesquieu
hay cụm từ ‘les deux moitiés inégales’ của Voltaire. Hôm nay, nếu Thầy
Cao hữu Hoàng còn sống, Thầy liệu có còn cười hô
hố khoái chí trước lối chơi chữ đó không?
Mặt khác, tự do không hẳn là điều kiện ắt có và
đủ để sáng tạo. Nguyễn
chí Thiện làm được
mấy trăm câu vè thời còn lận đận bầm dập với những kẻ
ông
ấy xỉa xói là ác ôn côn đồ. Ðến Tây
phương cực lạc tha hồ tự do rồi ông ấy làm
thêm được bao nhiêu câu vè đáng kể nữa?
Solzhenitsyn được giải Nobel
văn
chương năm 1970, được làm công dân Mỹ năm 1974.
Mãi sáu
năm sau ông mới cho ra đời một quyển tự
truyện
rồi tịnh khẩu gác bút, ngay cả
khi Bức Tường Bá Linh và chế
độ
Nga sô-viết ầm ầm sụp đổ quanh ông.
Lại nữa, chế độ độc tài - bất cứ
hình
thức độc tài
nào - không hẳn đã giết chết khả năng sáng tạo. Một
số bài
nhạc xuất sắc để đời của Phạm Duy được viết ra trong lúc
ông
thật lòng tin vào kháng
chiến
chống Pháp như
Bà Mẹ Gio Linh, Ngày Trở Về. Một
số khác chào đời sau khi ông dinh Tề theo Phan văn Giáo như
Tình Ca, khi ông nhập Ðàm
Trường Viễn Kiến của Nguyễn đức Quỳnh như
Việt Nam! Việt Nam, Nửa
Hồn
Thương Ðau, Chiều Về Trên Sông, khi ông tin vào cuộc
cách mạng 1.11.63 như
Con Ðường Cái Quan, Giọt Mưa
Trên
Lá, khi ông tin Mỹ sẽ Bắc phạt và trọn đời bảo
bọc Miền
Nam như Hùng Ca
Một
Người Mang Tên Quốc, Thà Như Giọt
Mưa,
Ngày Xưa Hoàng Thị, Kỷ Vật Cho
Em. Hoàng tôi vẫn còn nhớ như in hình ảnh Phạm Duy
tần
ngần mơ màng trước
hàng
trúc của Phong Trang hay lẩm bẩm ‘Ðâu bằng núi đồi
Tây Bắc của mình!’ khi nhìn dãy Blue
Mountains xanh rì nhấp nhô xa tắp. Chưa kể những tác phẩm
được gọi là của những thành phần đối kháng, chưa kể
một số tác phẩm của Phùng Quán, Trần Dần viết trong thời
chuyên
chính vô sản. Cho nên, dù
‘văn
nghệ luôn luôn gắn bó với tự
do và cần
tự do’ nhưng không phải là không có những
lúc
thiên tài nghệ thuật và lựa chọn chính trị
vận
hành như hai đường tàu
song
song.
Bởi lý, độc tài tư tưởng, độc tài ý thức hệ - với bất cứ
màu sắc
nào, bất quá chỉ là những nhát đao chém nước.
Và
như vậy thì có nên lặp lại cái sai lầm bất công của việc
biến
văn
học
nghệ thuật thành con trâu kéo cày ý thức hệ trên mảnh đất nứt nẻ vì
hạn
hán
tình người không?
DBÐNVVHNT của Trần hồng Châu
chưa phải là chiếc giày của Empédocle. Ðã hẳn. Vì Trần hồng Châu
vẫn
‘hy vọng sẽ viết tiếp về những gì đã
xảy ra trong thế giới văn nghệ và học
thuật, từ 1950 đến nay, trong một
bài
nghiên cứu chi tiết và đầy đủ. Hiện nay chỉ
xin
đưa ra vài nét sơ lược’.
Hoàng tôi rất mừng khi Lệ
Hằng
cho biết đã hầu thăm Thầy, rằng đã vượt bức tường thất
thập cổ lai hy nhưng Thầy vẫn linh hoạt sắc
bén. Như vậy thì hy vọng của
Hoàng
tôi được Trần hồng Châu khai tâm về một nền văn học nghệ thuật
Việt
Nam không Nam không Bắc,
không
trước
này sau nọ, không dưới chế
độ
này trên chế độ kia, khi mà Hoàng tôi có
thể thong dong dùng mấy chữ Việt Nam của
Tôilàm đề sách chứ không phải ngậm ngùi vì
mấy tiếng cố quốc, chắc
hẳn
không phải là hy vọng xa
xôi.
Trại Ðỗ Quyên, 20.8.2002.
Hoàng Nguyên Nhuận
No comments:
Post a Comment