LỤC VÂN TIÊN VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM VÀO ĐỜI
Lục
Vân Tiên là một truyện nôm, là một tự thuật của Nguyễn Đình Chiểu về cuộc đời
gian truân của ông. Ông là một thiếu niên của Gia Định thành, thân phụ người
Trung, mẹ người Nam. Ông đã lo học tập, ước mơ một cuộc đời tươi sáng. Ông đã
mang hy vọng đó khi ra kinh ứng thí. Nhưng rồi cuộc đời và lịch sử đã mang tai
họa đến với ông. Nghe tin mẹ mất, ông phải bỏ thi về thọ tang. Vì khóc quá nên
ông mù mắt. Ôâng mất khá nhiều tiền để chửa bênh nhưng tiền mất tật mang. Một
năm sau về đến nhà thì gia đình gái từ hôn. Rồi Pháp đến xâm chiếm nước ta, dân
chúng chết vì đạn Pháp, nhà cháy vì thưc dân đốt phá. Ông phải bỏ Gia Định mà về
Bến Tre. Cuộc đời của ông hòa lệ với dân tộc Việt Nam. Nhất là đòi tư của ông
là những trang tiểu thuyết bi thảm. Có lẽ muốn tránh người đời tò mò,hoặc cũng
như thói thường các tiểu thuyết gia Việt Nam vay mượn truyện Trung Quốc, ông
cũng dùng bảng hiêu Tây Minh để cho bình thường hóa tác phẩm của ông. Lục Vân
Tiên là biểu tượng con người trong cuộc đời. Sinh ra trên cõi đời, một số người
hạnh phúc, nhưng một số người lại gặp bất hạnh. Lục Vân Tiên là cuộc đời của những
người bất hạnh này.
Nhìn chung, cuộc đời con người có thể chia ba giai đoạn:thuở thiếu thời,
trung niên và tuổi già. Cuộc đời Lục Vân Tiên cũng vậy. Ta có thể chia ba thời
kỳ: vào trường, vào đời và chung cuộc.
I. VÀO TRƯỜNG
Lục
Vân Tiên là một chàng thư sinh, theo thầy ở trên núi, nghĩa là một người còn trẻ,
đang học tập, chưa ra đời làm việc, hoạt động và sống với đời sống thực:
Theo thầy nấu sử xôi kinh,
Tháng ngày bao quản sân Trình lao đao. (11-12)
Chàng
học tập văn lẫn võ để chuẩn bị cho tương lai ra đời giúp nước, cứu dân:
Văn đà khởi phụng đằng giao,
Võ thêm tam lược, lục thao ai bì.(13-14)
Sau
một thời gian học tập, người trai phải từø giã thầy và mái trường để dấn thân
vào đời.Ngày trọng đại đã đến, Lục Vân Tiên phải từ giã thầy mà xuống núi để nhập
trường thi:
Xảy
nghe mở hội khoa thi,
Vân
Tiên vào tạ tôn sư ra về. ( 15-16 )
Tuổi
trẻ nuôi nhiều mộng mơ. Vân Tiên hy vọng sẽ thi đỗ, làm quan, và đem tài ra
giúp nước:
Chí
lăm bắn nhạn ven mây,
Danh
tôi đặng rạng, tiếng thấy đồn xa.
Làm trai trong cõi người ta,
Trước lo
báo bổ sau là hiển vang. (21-24)
Sự đời thay đổi, và cuộc
đờùi không có gì bảo đảm. Có thể thành, có thể bại. Tuy là nuôi hy vọng, ai
cũng lo sợ đường đời trắc trở. Bậc tiên sư đã nhìn thấy tương lai sóng gió của
Lục Vân Tiên:
Nhân cơ tàng sự dặn
rằng,
Việc người
chẳng khác việc trăng trên trời.
Tuy là
soi khắp mọi nơi,
Khi mờ,
khi tỏ, khi vơi, khi đầy. (69-72)
Nguyễn Bá Học đã nói đúng
tâm trạng và chí khí của những chàng trai vừa lớn lại nuôi mộng cao xa:
Người ta đương lúc thiếu niên, lòng xuân phơi phới như
trăng mới lên, như hoa mới nở, sự đời chưa hề từng trải, tư tưởng những sự cao
xa. ( Lời khuyên học trò )
Trừ những
người vì hoàn cảnh khó khăn không đến trường được, đa số thanh niên khi từ giã
mái trường đều nặng lòng thương nhớ:
Ra đi vừa rạng chân trời,
Ngùi ngùi ngó lại nhớ nơi học đường.(77-78)
Mái
trường cũ là thiên đường đã mất, là bảo tàng của tuổi thơ, vì vậy, sau này xa
quê, ai cũng nhớ mái trường cũ. Những ngày ở mái trường rất đẹp, là giai đoạn
bình minh của cuộc đời. Rời xa mái trường, nghĩa là giã từ tuổi thơ, giã từ hạnh
phúc để đi vào cuộc đời đầy sóng gió.
Mái trường của Lục Vân Tiên ở trên non cao, là nơi thanh
tịnh, nơi tu hành, nơi xa trần tục. Rời non cao để vào đời là bắt đầu đi vào
phong ba, bão táp. Đây là cuộc đời đi xuống, cuộc đời trần tục.
II.
VÀO ĐỜI
Vừa rời khỏi mái trường, con người đa số phải đối đầu với
bao thực trạng xã hội xấu xa. Khi vào đời, Lục Vân Tiên đã trải qua nhiều kinh
nghiệm, mà trong đó có những kinh nghiệm tốt đẹp, và những kinh nghiệp đắng
cay.
1. GIẶC CƯỚP
Xã
hội nào cũng có những bọn giặc cướp, chỉ khác nhau ở chỗ công khai hay bí mật,
mạnh hay yếu, tàn bạo nhiều hay it. Giặc cướp đây bao gồm tất cả những cá nhận
hay nhóm người nào chiếm đoạt tài sản quốc gia,hay tư nhân, vi phạm quyền lợi
nhân dân, giết hại và gây đói khổ cho nhân dân. Không phải chỉ có bọn Lương Sơn
Bạc mới là ăn cướp. Bao thời đại, có rất nhiều bọn cướp và hình thức ăn cướp. Bọn
chúng mặc áo nhà tu, đoàn thể cách mạng, công ty thương nghiệp, hay hội đoàn từ
thiện. . .Nhưng phổ biến nhất là bọn vua
chúa tàn ác, và quan lại tham ô, chúng là một bọn cướp như nhân dân ta quan niệm
rất chính xác:
Con ơi con nhớ lời
này,
Cướp đêm
là giặc, cướp ngày là quan ( ca dao)
Lục Vân Tiên vừa xuống
núi là gặp ngay bọn cướp:
Nhân rày có đảng
lâu la,
Tên rằng
Đỗ Dự, hiệu rằng Phong Lai.
Nhóm
nhau ở chốn sơn đài,
Người người
sợ nó có tài khôn đương.
Bây giờ
xuống cướp thôn hương
Thấy con gái tốt qua đường bắt đi.
Xóm làng chẳng dám nói chi,
Cám thương hai gã nữ nhi mắc nàn.
Con ai vóc ngọc, mình vàng,
Má đào, mày liễu dung nhan lạnh lùng.
E khi mắc đảng hành hung,
Uổng trang thục nữ sánh cùng thất phu.
Thôi thôi chẳng dám nói lâu,
Chạy đi cho khỏi kẻo âu đến mình (101-114)
Lục Vân Tiên là hạng người
theo chánh nghĩa, không thể đứng yên nhìn bọn cướp hoành hành. Chỉ có chàng là
một thanh niên mới lớn, tâm hồn còn trong trắng, còn thật lòng theo Phật, theo
Khổng, còn nuôi mộng cứu khổn phò nguy, cho nên đã hăng hái đem bầu nhiệt huyết
cùng tính mạng một mình tranh đấu chống bọn tham tàn:
Vân Tiên ghé lại
bên đàng,
Bẻ cây
làm gậy, bên đàng chạy vô.
Kêu rằng
bớ đảng hung đồ,
Chớ quen
làm thói hồ đồ hại dân. (123-126 )
Lục Vân Tiên là biểu tượng
của Chân, Thiện Mỹ. Tâm hồn chàng là tâm hồn một thư sinh trong sáng, ngọn lửa
chánh nghĩa bùng lên trong tim. Hạng người như chàng nuôi mộng cao xa, rất có đạo
đức. Họ không ghen ghét người giỏi, khinh bỉ người hèn, không ăn hối lộ, không
trộm cắp của công, không lừa đảo dân chúng, không mưu hại đồng nghiệp, không
nghiện bài bạc.. . Nhiều người chỉ trích Lục Vân Tiên khô khan, nhưng đó cũng
là một sự thực: trong đời có nhiều người không mê nữ sắc, không tham dâm, không
mê tiền tài, danh vọng.
2.
TÌNH YÊU
Gặp Kiều
Nguyệt Nga là một kinh nghiệm thứ hai của
Lục Vân Tiên. Đó là kinh nghiệm về tình yêu. Lục Vân Tiên là một chàng trai mới
lớn, chưa hề quen biết một cô gái nào, và cũng chưa hề yêu đương cho nên đối với
nữ nhân chàng còn nhiều e ngại. Hơn nữa, chàng thuộc thế hệ nho sĩ ngày xưa, trọng nghĩa khinh tài, biết thủ lễ và tránh những
hành động có thể bị coi là lợi dụng.
Vân Tiên khó nỗi làm thinh,
Chữ ơn buộc lại chữ tình lây dây.
Than rằng đó khó trêu đây,
Ơn kia đã mấy, của này rất sang.
Đương khi gập gỡ giữa đàng,
Một lời cũng nhớ, ngàn vàng chẳng phai.
Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,
Nào ai chịu lấy của ai làm gì. (201-08)
Chàng không phải là hạng
người lịch duyệt, biết ân cần, săn sóc phụ nữ, nhưng chàng đã vồn vã, lịch sự
chào hỏi Nguyệt Nga mặc dầu chàng vẫn giữ
một khoảng cách với nàng:
Vân Tiên nghe nói động lòng,
Đáp rằng: Ta đã trừ dòng lâu la.
Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái,ta là phận trai.
Tiểu thư con cái
nhà ai?
Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ?
Chẳng hay tên họ là chi?
Khuê môn phận gái việc gì đến đây? (143-150)
Còn Nguyệt Nga đưọc Lục
Vân Tiên cứu thoát bàn tay bọn cướp,nàng cảm ơn cứu tử và cảm động vì hành động hào hiệp, can đảm của
chàng. Đa số người nữ thường rung động trước sự giúp đỡ, và tình cản nồng hậu của
nam nhân. Anh hùng cứu mỹ nhân, mỹ nhân yêu anh hùng là một đề tài phổ biến xưa
nay. Nàng đã yêu chàng ngay trong buổi đầu. Hành động gửi tặng vật là một cách
biểu lộ tình yêu một cách kín đáo. Khi Lục Vân Tiên tỏ vẻ lạnh lùng, nàng đã hờn
dỗi. Cử chỉ của nàng rất đáng yêu:
-Vật chi một chút gọi là,
Thiếp thưa chưa dứt, chàng đà làm ngơ.
Của này là của vất vơ,
Lòng chê cũng phải, mặt ngơ sao đành .(197-200 )
-Thưa rằng chút phận nữ nhi,
Vốn chưa biết lẽ có khi mích lòng.
Ai dè những đấng anh hùng,
Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm.
Riêng
than trâm hỡi là trâm,
Vô
duyên chi bấy ai cầm mà mơ. (209-14)
Từ
trước Lục Vân Tiên chưa yêu ai. Tình yêu của Nguyệt Nga là một kinh nghiêm đầu
tiên rất tươi thắm trong đời chàng.
3. HÔN NHÂN
Ngày xưa, người Việt Nam lấy
vợ sớm, và hôn nhân do các bậc cha mẹ quyết định. Hai bên cha mẹ đãï đính ước từ
trước, có khi hai trẻ còn nằm trong bụng me . Chàng là một thanh niên đầy hứa hẹn
tương lai cho nên đã được nhà gái đón tiếp nồng hậu khi chàng đến thăm trước
khi vào kinh ứng thí. Vị hôn thê của
chàng là Võ Thể Loan đã ân cần với chàng trước khi chia tay:
Chàng
dầu cung quế xuyên dương,
Thiếp
xin hai chữ tao khang cho bằng.
Xin
đừng tham dó bỏ đăng,
Chơi
lê quên lựu, chơi trăng quên đèn.(709-12)
Không
hiểu vì chịu ảnh hưởng các truyện xưa tích cũ về tình nghĩa vợ chồng, hoặc vì
linh tính, Lục Vân Tiên đã trả lời Võ Thể Loan bằng giọng điệu nghi ngờ:
Tiên
rằng như lửa mới nhen,
Dễ
trong một bếp mà chen mấy lò?
May
duyên, rủi nợ dễ phô,
Chớ lo Ngô Khởi, hãy lo Mãi Thần. (713-16)
Gia
đình họ Võ đã đem lại cho chàng nỗi niềm cay đắng trên bước đường đời. Khi
chàng bị mùa lòa, chàng liền nghĩ đến vị hôn thê và gia đình bên vợ. Chàng là
người mới bước vào đời, lòng còn trong sáng, còn tin tưởng vào lời hứa hẹn của
người đời. Vì vậy, sau khi ngư ông cứu chàng thoát chết trong giòng sông sâu,
chàng ngỏ lời cậy ngư ông đưa chàng đến nhà nhạc gia để họ giúp đỡ chàng khi
nguy nan:
Tiên rằng xưa đã gá lời,
Sui gia ai nỡ đổi dời chẳng thương.
Vợ chồng là đạo tang khang,
Chi bằng tới đó tìm phương gửi mình.
Trăm năm muốn trọn ân tình,
Đương khi hoạn nạn ai đành bỏ nhau.
Chút nhờ cứu tử ơn sâu,
Xin đem tới đó, trước sau cho tròn. (981-988)
Ngư ông là người từng trải
việc đời, đã nghi ngờ họ Võ sẽ thay lòng đổi dạ khi thấy chàng thất bại công
danh và mù lòa. Ôâng ngỏ lờiø khuyên can chàng nhưng chàng vẫn không nghe ý kiến
của ngư ông:
Ngư rằng làm đạo rể con,
Cũng như sợi chỉ mà luồn trôn kim.
Sợ bay mà mỏi sức chim,
Bơ vơ cảnh lạ, khôn tìm cây xưa.
E khi chậm bước tới trưa,
Chớ đi sông cũ ,bến xưa mà lầm.
Mấy ai ở ở đặng hảo tậm,,
Nắng đun chót nón, mưa dầm tả tơi.
Mấy ai hay nghĩ việc đời,
Nhớ nơi nghèo khổ, quên nơi sang giàu.
Đã ba thứ tóc trên đầu,
Gẫm trong thế sự thêm âu cho đời.( 989-1000)
Nhưng
niềm tin ngây thơ của chàng đã bị tan vỡ. Chàng bị mù lòa lại bị từ hôn. Cay đắng
nhất là vị hôn thê của chàng đã dùng những lời thô bạo đối với chàng. Chàng là
người chung thủy, nhưng nhân thế đã thay lòng đổi dạ:
Loan rằng: ‘ Gót đỏ như son,
Xưa nay ai dễ đem chôn xuống bùn.
Ai
cho sen muống một bồn,
Ai
từng chanh khế sánh phồn lựu lê.
Thà
không trót chịi một bề,
Nỡ
đem mình ngọc, dựa kề thất phu.
Đã
công chờ đợi danh nho,
Rể
đâu có rể đui mù thế ni. . (1027-34)
Chính
Võ Thể Loan, vị hôn thê của chàng đóng vai trò tích cực trong việc đổi trắng
thay đen. Nàng đã táo bạo đề nghị với cha mẹ cho nàng kết hôn cùng Vương Tử Trực,
bạn của Vân Tiên vừa đỗ thủ khoa:
Đã
nghe người nói hội này,
Rằng Vương Tử Trực chiếm rày khôi
khoa.
Ta
dầu muốn kết xui gia,
Họ
Vương, họ Võ một nhà mới xinh.(1035-38)
Khi
Võ ông đem chàng bỏ hang sâu, chàng mới hiểu rõ lòng dạ người đới:
Vân
Tiên khi ấy hãi hùng,
Nghĩ ra mới biết Võ công hại
mình.(1059-60).
4. ÁC NHÂN
Bọn gian ác ở khắp mọi nơi.Trong
hàng ngũ trí thức cũng có kẻ gian ác mặc
dầu nho sĩ vốn xuất thân cửa Khổng sân Trình, học nhân nghĩa lễ trí tín. Trên
đường vào trường thi, chàng đã gặïp bọn Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Bọn này đã vào trường
thi cùng Lục Vân Tiên và Vương Tử Trực.Bọn này học kém, không làm được bài
thi.Thấy Vương và Lục làm được bài, chúng sinh lòng ghen ghét, cho rằng Vương
và Lục “viết tùng cổ thi”(464). Bọn họ đã cùng Lục Vân Tiên và Vương Tử Trực uống
rươu, làm thơ. Ôâng chủ quán là người bình dân, nhưng môi trường làm việc của
ông là quán khách, có nhiều loại người lui tới cho nên ông tiếp xúc với nhiều
người và hiểu tâm tính của họ. Vì vậy, ông xem qua cách làm thơ của bọn này đã biết Trịnh Hâm và
Bùi Kiệm thuộc loại lừa thầy, dối bạn:
Tiên
rằng: Ông quán cười ai,
Quán
rằng cười kẻ bất tài đồ thơ.
Cười
người Tôn Tãn không lừa,
Trước đà thấy
máy chẳng dè Bàng Quyên. (467-70)
Khi
bọn này trả lời ông chủ quán, ta thấy rõ tính vô lễ và khinh người của chúng:
Kiệm
rằng: Lão quán nói nhăng,
Dầu cho trải việc cũng thằng bán
cơm.
Gối rơm theo phận gối rơm,
Có đâu ở thấp mà chồm lên cao. (523-26 )
Khi
tin nhà đưa đến, nghe tin mẹ già mất, Lục Vân Tiên khóc mù mắt, bỏ cuộc thi trở
về quê cũ. Giữa đường chàng lại bọn này, chàng mù lòa nên phải trông cậy bạn
giúp đỡ:
Tiên
rằng: Tình trước nghĩa sau,
Có thương xin
khá giúp nhau phen này (863-64)
Ở đời, lòng dạ con người
khó lường. Ta không hề gặp mặt họ, ta cũng không tranh quyền đoạt lợi của họ.
Ta cũng không có thù cướp tài sản hoặïc giết hại cha mẹ, anh em họ, thế mà họ
thù ghét, oán hận ta. Họ nói xấu, vu khống
ta. Thậm chí họ cò thể giết hại ta. Vân Tiên không có thù oán gì với bọn này,
không ngờ Trịnh Hâm, Bùi Kiệm chỉ vì
ganh tài mà hãm hại Vân Tiên. Chúng đem tiểu đồng vào rừng trói lại cho cọp ăn,
rồi đêm đến xô Vân Tiên xuống vực sâu.
Ngoài Trịnh Hâm, Bùi Kiệm,
Vân Tiên còn bị ba nhân vật gian manh khác bóc lột, lường gạt là thầy thuốc, thầy
bói và thầy pháp. Ba ông này giống nhau hai điểm chính. Thứ nhất là tự quảng
cáo, là khoe khoang, khoác lác.
-
Ông thầy thuốc:
Ngang
rằng: Ta ở chốn này,
Ba
đời nối nghiệp làm thầy vừa ba.
Sách
chi cũng đủ trong nhà,
Nội
kinh đã sẵn, ngoại khoa thêm màu.
Trước
xem y học làm đầu,
Sau xem Thơ
Thế, thứ cầu Đông Y (665-770 )
-
Ông thầy bói:
Ta
đây nào phải các thầy,
Bá
vơ, bá vất, nói nhây không nhằm.
Ôân
nhuần Châu dịch mấy năm,
Sáu
mươi bốn quẻ, ba trăm dư hào.
Huỳnh
Kim, Dã Hạc sách cao,
Lục nhâm, lục
giáp, chỗ nào chẳng hay. (715-20 )
-
Ông thầy pháp:
Pháp
rằng: Aán đã cao tay,
Lại
thêm phù chú, xưa nay ai bì.
Qua sống, cá thấy xếp vi,
Vào rừng cọp thấy phải quỳ lạy đưa.
Pháp hay hú gió, kêu mưa,
Sai chim, khiến cọp, đuổi lừa, vật trâu.
Pháp hay miệng niệm một câu,
Tóm thâu muôn vật vào bẩu hồ linh. (673-70 )
Ba
ông thầy này đều giống nhau là tham lam, luôn chú trọng tiền bạc. Gặp Vân Tiên,
cả ba thầy trước tiên là hỏi tiền bạc.
Thầy thuốc chưa chửa bệnh đã hỏi tiền:
Gặp ta bệnh ấy ắt lành,
Bạc tiền trong túi sẵn dành bao nhiêu? (659-60 )
- Thầy
bói chưa gieo quẻ đã hỏi tiền:
Đặt tiền quan mốt bốn mươi,
Khay trầu chén rượu cho tươi mới thành.
Thầy bèn gieo đặng quẻ lành. (723-25 )
Ông
này sau một hồi ba hoa, đã đề cập đến tiền:
Có
ba trăm lạng đưa sang,
Đặng thầy sắm sửa lập đản chửa cho. (775-76 )
5.THIỆN
NHÂN
Cuộc đời có nhiều màu sắc và có nhiều mâu thuẫn. Nếu trong cuộc đời có những kẻ ác thì cũng có những người hiền lành, nhân từ đức hạnh. Vân Tiên đã gặp bọn gian ác nhưng chàng cũng đã gặp những người trung hậïu. Nguyệt Nga là ánh trăng rằm trong đời chàng. Ông chủ quán là người bình dân nhưng ông thực sự là tay minh kinh bác học. Những lời nghị luận của ông chúng tỏ ông học rộng, hiểu nhiều và là người trung trực :
Quán rằng ghét việc tầm phào,
Ghét cay ghét đắng ghét vào tới tâm.
Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm,
Để dân đến nỗi sa hầm, sẩy hang.
Ghét đời U Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần
. . . .
. . . .
. .
Thương là thương bậc thánh nhân,
Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuôn.
Thương thầy Nhan tử dở dang,
Ba mươi mốt tuổi tách đường công danh.
Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp
cơn Hán mạt đã đành phôi pha. . .(479-494)
Vì
vậy mà Vương Tử Trực khen ngợi ông:
Trực rằng: Chùa rách phật vàng,
Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân (505-06)
Vương Tử Trực là người đạo đức và trung trực đã từ
chối lời cầu hôn của Võ Thể Loan
Trực rằng : ''Ngòi viết dĩa nghiên,
Trực rằng : ''Ngòi viết dĩa nghiên,
Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau.
Vợ Tiên là Trực chị dâu,
Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì.
Chẳng hay người học sách chi,
Nói sao những tiếng dị kỳ khó nghe?
. . . . .
. .
. . .
.
Nói sao chẳng biết hổ thầm,
Người ta há phải là cầm thú sao? (1228-41)
Hán
Minh can trường phá giặc và đem quân đón Vân Tiên. Lão ngư, lão tiều cũng là những
người tốt. Nói chung, ta có thể phân chia các nhân vật trong Lục Vân Tiên làm
hai loại thiện ác.
III. CHUNG
CUỘC
Ở đời, một số người hoàn toàn sung sướng, trái lại một số người luôn đau khổ. Một
số lúc bĩ, lúc thái. Đó là trường hợp của Lục Vân Tiên. Sau khi bị bao tai nạn,
chàng được cứu thoát, được thuốc tiên chữa lành mắt, thi đỗ trạng nguyên và được
Nguyệt Nga yêu, và cả hai sống hạnh phúc.
Trạng nguyên về đến Đông thành,
Lục ông trước đã xây dinh ở làng.
Bày ra sáu lễ sẵn sàng,
Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt Nga.
Sui gia đã xứng sui gia,
Rày mừng hai họ một nhà thành thân.
Trăm năm biết mấy tinh thần,
Sinh con sau nối gót lân đời đời (2054-61)
Trong
khi đó những kẻ ác gian bị Trời trừng phạt. Trịnh Hâm té xuống sông bị cá nuốt,
mẹ con Thể Loan bị cọp nhốt trong hang:
Thiệt Trời báo ứng lẽ này rất ưng,
Thấy vậy nên dửng dừng dưng,
Làm ngưòi ai nấy thì đừng bất nhân (1192-94)
Đó
là lẽ báo ứng, là luật nhân quả mà Khổng và Phật luôn đề cao trong kinh điển,
trong văn chương và trong đời sống.
Lục
Vân Tiên là giấc mơ của Nguyễn Đình CHiểu. Lục Vân Tiên đã qua cơn hoạn nạn và
được vinh hiển, trái lại, Nguyễn Đình Chiểu một đời khốn khó, bản thân ông cũng
như quốc gia Việt Nam phải trải qua bao nỗi dắng cay từ khi mất nước.
No comments:
Post a Comment