Quan
Điểm
Về Một Số Vấn Đề
Chính
trị Và
Văn Hóa Việt Nam
Lời Kết
Minh
Vũ Hồ Văn Châm
(Tác giả Minh Vũ Hồ
Văn Châm vừa đưa lên mạng Trang Nhà http://www.geocities.com/chamho,
ấn bản 2004, trình bày quan điểm của tác giả
về một số vấn đề chính trị và văn
hóa Việt Nam. Quan điểm
của tác
giả, về mặt chính trị, đặt cơ sở
trên chủ nghĩa quốc gia, theo đó, quốc gia là
tối thượng, và về mặt văn hóa, xoay quanh
sự kiện Việt Nam là địa bàn tranh chấp
ảnh hưởng giữa phương bắc và
phương tây xuyên suốt chiều dài lịch sử dân
tộc. Sau Lời Mở Đầu đã giới thiệu
ở số trước, Tạp Chí Cách Mạng xin giới
thiệu Lời Kết của tác phẩm để
bạn đọc biết quan điểm của tác giả
về các vấn đề được nêu lên).
Đã
có Lời Mở Đầu
để khai trương tất nhiên phải có Lời Kết để cô
đọng những điều vừa trình bày trên mấy
trăm trang sách trước đây thành một lời
khuyến cáo rằng đã đến lúc người
Việt Nam chúng ta cần phải điều chỉnh
lại góc nhìn và thế đứng khi đề cập
đến một số vấn đề chính trị và
văn hóa Việt Nam.
Trong
thực tế, các vấn đề chính trị và văn
hóa Việt Nam trong tập sách
này
tuy mang tính chất đa tạp nhưng thường
thường lại đan kết với nhau. Mỗi một vấn đề
nhiều khi lại bao gồm cả các mặt chính trị
và văn hóa, thậm chí lan
qua cả các
lĩnh vực kinh tế và xã hội. Do đó, trong phần
đúc kết này, tác giả xin tóm lược quan
điểm của mình thành những ý kiến xây dựng,
có khi liên quan đến từng vấn đề, mà
cũng có lúc chung cho nhiều
vấn
đề, và không nhất thiết phân biệt tách bạch
khía cạnh chính trị hay văn hóa.
Trước
hết là vấn đề quốc gia với cộng
sản. Ngườì Việt Nam chúng ta từ
trước tới nay quen đem quốc gia ra đối
kháng với cộng sản. Tàu Tưởng với
Tàu Mao đánh nhau thì gọi là
chiến tranh Quốc Cộng. Việt Minh với Quốc
Dân Đảng kình chống nhau thì gọi là
phân tranh
Quốc Cộng. Hễ cái gì chống cộng sản thì
được gộp lại thành một danh xưng chung
chung là quốc gia. Như vậy là
không
được chính xác. Từ quốc
gia bao hàm nhiều ý niệm cao sâu, không thể
tùy tiện
dùng làm đối vị với từ cộng sản.
Đối vị chính xác của từ
cộng sản là cụm từ ‘không cộng sản’.
Mặt
khác, đối vị của quốc gia là quốc tế
và địa phương. Quốc gia là
nước. Lớn hơn nước là
quốc tế, nhỏ hơn nước là địa
phương. Quốc tế có thể
mang nhiều hình thái. Quốc tế
có
thể là chính trị, là quân sự, là
tôn giáo, là kinh tế,
là văn hóa, là xã hội. Một khi
đã là quốc tế, thì quốc gia bị phủ
lấp, quyền lợi quốc gia không được tôn
trọng, phúc lợi dân tộc phải chịu hy sinh cho
nghĩa vụ quốc tế. Tinh
thần địa phương cũng tác hại không kém.
Địa phương xói mòn, phá
nát sự
thống nhất quốc gia. Địa
phương phân hóa, hủy hoại tình đoàn kết
dân
tộc. Tinh thần địa phương làm nẩy
sinh sự đố kỵ giữa các địa
phương, sự bất phục tùng trung ương,
đưa đến hậu quả cát cứ và nội
chiến, quốc gia vỡ vụn thành nhiều mảnh, dân
tộc chia rẽ thành nhiều nhóm sống trong hận thù.
Quốc
gia là không cộng sản, vì lẽ cộng sản là
quốc tế. Nhưng cộng sản
Việt Nam trong quá khứ
lại thường gian trá đội lốt quốc gia,
và triệt để khai thác tình tự dân tộc. Thực tế phũ
phàng là đối với cộng sản Việt Nam, chủ nghĩa
cộng sản mới là cứu cánh, còn quốc gia chỉ
là chiêu bài, dân tộc chỉ là phương
tiện. Tuy vậy, cộng sản Việt
Nam
ngày nay vẫn tiếp tục lừa mị quần chúng
ngây thơ, nhất là trí thức và tuổi trẻ nhiệt
tình, sử dụng các hình thái văn nghệ
tâm lý chiến
để kích động lòng yêu nước thương
dân của các thành phần này, đồng thời mập
mờ khoác trở lại lên mình cái lốt mới quốc
gia dân tộc. Bởi vậy, người
Việt Nam chúng ta
ngày nay
vẫn cần phải cảnh giác thủ đoạn
quỉ quyệt của người cộng sản
để ý thức rằng người cộng sản
luôn luôn đặt quyền lợi Đảng Cộng
sản của họ lên trên quyền lợi quốc gia và
không đếm xỉa gì đến phúc lợi dân tộc. Mọi
hành vi và ngôn
ngữ yêu nước thương nòi chỉ là những màn
kịch khéo đóng.
Quốc gia là chống
cộng, nhưng ngược lại, không phải bất
cứ cơ cấu chống cộng nào cũng có thể
gộp chung lại thành một tổng
thể để mệnh danh là quốc gia. Thực
vậy, nếu có những cơ cấu chống cộng
ở phạm trù cả nước thì cũng có những
cơ cấu chống cộng mang tính chất quốc
tế hoặc địa phương. Mặt khác,
đã từng có những cơ cấu chống cộng
tự nhận là quốc gia nhưng không lấy quyền
lợi quốc gia làm cứu cánh, lấy phúc lợi dân
tộc làm đối tượng, mà trong thực tế,
chỉ nhằm vào việc đấu tranh với
đảng cộng sản cầm quyền để tranh
giành đặc quyền đặc lợi cho một
thiểu số thành phần nhân dân mang tính chất
giai
cấp, tôn giáo, địa phương, hoặc chủng
tộc. Quốc gia và chống cộng có chung một
mục tiêu đấu tranh là thực hiện sự
giải thể chế độ cộng sản và
triệt tiêu chính quyền chuyên chính vô
sản, nhưng
quốc gia với chống cộng cực đoan có sự
khác biệt tế nhị là quốc gia chống cộng
nhưng không bao giờ vì sự nghiệp chống cộng
mà đi ngược quyền lợi tối thượng
của quốc gia và hy sinh phúc lợi của đại
khối dân tộc.
Tinh thần quốc
gia là yếu tố căn bản để thực
hiện và củng cố sự thống nhất quốc
gia và tình đoàn kết dân tộc. Song song với
sự
nghiệp bảo vệ đất nước chống
lại các hình thái xâm lược hoặc áp
đảo
của các thế lực quốc tế, người
Việt Nam chúng ta ngày nay cần phải nhanh chóng
tìm cách
giải tiêu tinh thần địa phương vốn là
uyên nguyên của tình trạng kỳ thị và chia rẽ
nam
bắc của đất nước chúng ta xuyên suốt
chiều dài lịch sử phát triển dân tộc. Các
yếu tố lịch sử và địa lý đã hình
thành
trên quốc gia Việt Nam hai khu vực
lớn chung
quanh Hà Nội và Sài Gòn. Hai trung tâm này kèn
cựa nhau để tranh giành ngôi vị thủ đô
nước Việt Nam thống nhất. Tình trạng này quả
tình là không thuận lợi cho chính
sách trung ương
tập quyền. Muốn củng cố
sự thống nhất thì cần thực hiện ngay
sự phân quyền rộng rãi cho địa phương.
Trung ương chỉ cần nắm chính cương chính
sách, và một vài lĩnh vực trọng yếu trên
phạm trù quốc gia như ngoại giao, quốc phòng,
tiền tệ, năng lượng v.v... Mọi
việc khác nên để cho địa phương tự
trị. Địa phương sẽ tùy nghi huy
động nhân tài vật lực cơ hữu để
phát triển khu vực của mình dưới sự
điều hợp của trung ương cho ăn nhịp
với chính sách chung của cả
nước.
Hà
Nội và Sài Gòn đều là đại địa, là
trung
tâm của những miền rộng đất, đông dân
và nhiều của. Tuy vậy, chính
quyền trung ương của nước Việt Nam thống nhất không
nên đóng ở Hà Nội hoặc Sài Gòn. Nếu thủ
đô đóng ở
một trong hai trung tâm lớn này thì trung tâm
kia sẽ
cảm thấy bị thua thiệt, bị lấn ép, bị
khai thác, vì nghĩ rằng trung ương qui tụ nhân
tài
và tập trung vật lực của cả nước vào
việc tô bồi, tân tạo và phát triển thủ
đô. Cứ cái đà này
thì mâu thuẫn bắc nam
mỗi ngày một thêm trầm trọng, tinh thần kỳ
thị địa phương mỗi ngày một thêm sâu
sắc, nguy cơ cát cứ và phân ly mỗi ngày một
thêm
đè nặng lên nền thống nhất quốc gia và tình
đoàn kết dân tộc. Bởi vậy,
song hành với việc để các địa
phương nam bắc được tự trị
rộng rãi, chính quyền trung ương của
nước Việt Nam thống nhất nên
đặt ở một nơi khác, không nam không bắc. Nếu Việt Nam chia làm hai miền
tự trị thì chính quyền trung ương đặt
ở Huế. Nếu
Việt Nam chia làm ba miền
Trung Nam Bắc thì chính quyền trung ương đặt
ở Đà Lạt.
Nếu
Việt Nam chia làm hai miền
thì từ Quảng Trị trở ra thuộc về Hà
Nội, từ Quảng Nam trở vào thuộc
về Sài Gòn.
Nếu Việt Nam chia làm ba miền thì Thanh Hóa thuộc
về miền Bắc, Bình Thuận thuộc về miền
Nam, từ Nghệ An đến Ban Mê Thuột và Khánh
Hòa là
miền Trung. Để phát triển khu vực miền Trung
ngang tầm với hai miền Nam Bắc, cần gộp hai
thành phố Huế và Đà Nẵng thành một phức
hợp đô thị có một tổ chức quản lý hành
chánh duy nhất. Huế-Đà Nẵng sẽ vừa là trung
tâm địa lý, chính trị, kinh tế và văn
hóa của
miền Trung, vừa là nền móng vững chãi để
củng cố sự thống nhất lãnh thổ và sự
hòa hợp nhân tâm của quốc gia và dân
tộc Việt
Nam. Huế có thế mạnh lịch sử và
văn hóa, Đà Nẵng có thế mạnh địa lý
và
kinh tế. Tổ chức lại thành
một phức hợp đô thị, Huế-Đà Nẵng
sẽ bổ khuyết cho nhau để tự giải hóa
các mặt yếu, đồng thời phát huy được
tối đa các mặt mạnh. Nằm
ở đầu mối giao thông hàng không hàng hải
quốc tế, Đà Nẵng lo việc giao lưu với
bên ngoài. Nằm ở đầu mối hành lang đông tây, Huế phụ trách
việc
thâm nhập và khai thông nội địa.
Mỗi khi đề
cập các vấn đề chính trị và văn hóa của
đất nước, cũng như thảo luận các
vấn đề phát triển kinh tế và cải tiến
dân sinh, người Việt Nam chúng ta ngày nay
nên nâng tầm
nhìn lên cao để bao quát toàn bộ lãnh
thổ quốc
gia, từ bắc xuống nam, từ biển lên rừng,
chứ không nên khư khư tự khép mình trong
khuôn khổ
một khu vực, một địa phương. Nhìn
lại quá khứ, chúng ta không nên tự giới hạn
lãnh
thổ ban đầu của chúng ta trong mỗi một
huyện Tây Vu hoặc quận Giao Chỉ. Nước
Văn Lang hay Môn Lang, có nghĩa là làng của
người
Môn, đất nước của người Môn, vươn
dài lên tới hồ Động Đình. Cha rồng họ
Lạc, mẹ tiên họ Âu, rõ ràng đất nước
thời hồng hoang đã bao gồm cả Bắc Việt
(Lạc Việt) lẫn Lưỡng Quảng (Âu Việt).
Công nghiệp của
Thục Phán và Triệu Đà đều nên được
xem như là nỗ lực thống nhất dân tộc,
nghĩa là thâu gồm các lãnh thổ vụn vặt
thành một
đất nước rộng lớn, tập hợp các
vương quốc nhỏ bé thành một quốc gia hùng
mạnh, trên nền móng một quốc dân hợp nhất
là chủng tộc Bách Việt. Sự kiện này
được nhìn nhận trong bức thư của Hán
Văn Đế gửi Triệu Vũ Vương, cũng
như qua quyết định của Hán Vũ Đế
duy trì toàn thể lãnh thổ Nam Việt trong một tổ
chức riêng biệt gọi là Giao Chỉ Bộ, mà về
sau được đổi lại là Giao Châu. Nếu
Thục Phán đã dược nhận là người sáng
lập nhà Thục, nếu Sĩ Nhiếp đã
được tôn là Sĩ Vương, là Nam Giao Học
Tổ, thì lẽ nào Triệu Đà, người đã
đưa dân ta từ văn minh đồ đồng
tiến lên văn minh đồ sắt, lại không
được thừa nhận là vua chúa Việt Nam.
Cũng cùng một
chiều hướng, việc Khu Liên ở huyện
Tượng Lâm dựng nền tự chủ, lập ra
nước Lâm Ấp, phải được xem như là sự
nghiệp giải phóng cư dân bản địa thoát
khỏi sự đô hộ của người Tàu. Vào
thời điểm này, cư dân bản
địa ở huyện Tượng Lâm không có gì khác
biệt với cư dân bản địa ở huyện
Tây Quyển hoặc ở huyện Tây Vu. Mặt khác,
một số vua chúa Lâm Ấp buổi đầu như
Phạm Văn, Phạm Phật, Phạm Hồ Đạt
lại là di dân gốc Hán, y hệt Triệu Đà ở Nam
Hải, Sĩ Nhiếp ở Thương Ngô, Lý Bôn ở Giao
Chỉ. Vua Lâm Ấp Phạm Dương Mại II lại
đã từng đòi hỏi nhà Tống (Nam Bắc
triều) giao trả quyền thống lĩnh toàn bộ
Giao Châu. Bởi vậy, cuộc chiến tranh
ở biên cương giữa Lâm Ấp với Giao Châu
phải được người Việt Nam chúng ta
ngày nay xem là
cuộc đấu tranh với quân giặc xâm lược
để tiếp tục hoàn chỉnh sự nghiệp
giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước.
Nếu Thục Phán và Triệu Đà đã được
sử cũ xem là vua chúa Việt Nam thì vua chúa
Lâm Ấp
cũng như vua chúa Chiêm Thành về sau phải
được người Việt Nam chúng ta ngày nay
thừa nhận là vua chúa Việt Nam, ít nhất cũng ngang
tầm với vua chúa các thời đại đất
nước qua phân Mạc, Lê Trung Hưng, Trịnh,
Nguyễn, và Tây Sơn.
Với góc nhìn và
thế đứng được điều chỉnh
lại, song hành với việc tái tổ chức lãnh
thổ và việc phân quyền rộng rãi cho các địa
phương, người Việt Nam chúng ta ngày nay, một
mặt sẽ gột bỏ được tinh thần
kỳ thị địa phương, chia rẽ nam
bắc, mặt khác sẽ rũ sạch tâm lý phục Tàu,
sợ Tàu, chạy theo đuôi Tàu, đồng thời
sẽ có thái độ thân ái hơn, cư xử bình
đẳng hơn, không còn mang nặng đầu óc tự
tôn quá đáng trong khi giao tiếp với các sắc
tộc
anh em trong cộng đồng dân tộc. Chúng ta nâng tầm
nhìn lên cao để bao quát cả khu vực cư dân
Bách
Việt, rọi ánh sáng tìm tòi lùi xa
trở lại thời
sơ sử mịt mù, chúng ta sẽ hóa giải mưu mô
thâm độc của người Hán cứ tìm mọi cách
để chúng ta tự mình đồng hóa với
người Tàu. Cha rồng họ Lạc,
mẹ tiên họ Âu đều là người đồng
chủng. Làm gì có
chuyện Âu cơ
vốn là người bắc (người Hán), muốn
đem 50 con về bắc nhưng bị Hoàng Đế
đem binh ngăn trở. Lúc bấy
giờ, Hoàng Đế còn ở tận trên thảo nguyên Cam
Túc, đâu đã có mặt ở Giang Nam. Thực tế lịch
sử là không hề có liên hệ huyết thống giữa
Việt tộc và Hán tộc vào thời bấy giờ.
Chỉ từ khi Tần Thủy Hoàng sai
Đồ Thư mang quân đi đánh Bách Việt, sự
hỗn chủng mới xẩy ra. Do yếu tố di
dân Hán mà phát sinh sự phân
hóa cư dân Tiền Việt thành
hai tộc Việt Mường riêng rẽ, nhưng
người Việt vẫn không phải là người Hán,
người Việt vẫn bảo lưu được
nhiều đặc điểm nhân chủng và yếu
tố văn hóa cội nguồn, nhờ vậy mà
người Việt không bị tuyệt giống.
Người Việt
Nam chúng ta ngày nay cần ý thức rằng cho
dù gia phả
chúng ta còn ghi tiên tổ xa xưa vốn người
Chân
Định (Triệu Đà) hay người nước
Lỗ (Sĩ Nhiếp), người đất Mân (Trần
Thủ Độ) hay người Triết Giang (Hồ Quý Ly),
thì trong máu thịt chúng ta cũng vẫn có
ít nhiều
yếu tố bản địa, khiến đầu chúng
ta đa số có chỉ số sọ dài, khiến máu chúng
ta đa số thuộc nhóm máu loại O. Dứt khoát
chúng ta
là người Việt chứ không phải là người
Hán. Chúng ta phải chấm dứt việc sử dụng
góc nhìn và thế đứng rập khuôn theo
người Tàu mỗi khi đề cấp đến các
vấn đề chính trị và văn hóa Việt Nam.
Chúng ta đừng theo
đuôi người Tàu gọi bà Triệu là con mụ
Triệu (Triệu Ẩu). Chúng ta cũng đừng theo
đuôi người Tàu gọi người Lâm Ấp là dân
man, gọi các đạo binh Lâm Ấp đánh vào Nhật
Nam, Cửu Chân và Giao Chỉ là quân giặc cướp,
bởi lẽ tiên tổ người Lâm Ấp-Chiêm Thành
cũng là di dân người Môn Nam Á đợt hai
đã
từ Hoa Nam tiến vào bờ biển Tượng Lâm cùng
thời với đám di dân tiến vào bờ biển Giao
Chỉ, và thực tế lịch sử đã chứng minh
rằng mục đích tiến quân của Lâm Ấp lên
phía
bắc là để đánh đuổi quân Tàu xâm
lược ra khỏi Giao Châu, giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước.
Người Việt
Nam chúng ta thường xuyên phải đối đầu
với âm mưu của người ngoài luôn luôn toan
tính xé
nát quốc gia Việt Nam làm nhiều mảnh, chia rẽ
quốc dân Việt Nam thành nhiều nhóm, bằng nhiều
hình thức tinh tế và đa dạng nhằm mục
đích khoét sâu các dị biệt nam bắc,
các bất
đồng địa phương, các mâu thuẫn sắc
tộc. Với góc nhìn và thế đứng
được
điều chỉnh lại như thế, chúng ta dễ
dàng phát huy tinh thần quốc gia, vun quén
tình tự dân
tộc, và củng cố sự đoàn kết quốc dân, để
vô hiệu hóa các kế hoạch thâm độc của
người ngoài. Thực tế lịch sử là không
hề có sự kiện vương quốc Đại
Việt thôn tính vương quốc Chiêm Thành, sắc
dân Kinh
đồng hóa sắc dân Thượng. Quốc gia Việt
Nam ngày nay là kết quả của sự thống nhất
An Nam với Việt Thường, được hình thành
từ thuở hồng hoang trên cùng chung một cơ sở
đất nước và con người :
Văn Lang, hay Môn Lang, làng của người Môn,
đất nước của người Môn.
Minh Vũ Hồ Văn Châm
No comments:
Post a Comment