Friday, August 24, 2012

THƠ NGUYỄN TRÃI


 記友
半生世路嘆屯邅,
萬事惟應付老天。
寸舌但存空自信,
一寒如故亦堪憐。
光陰焂忽時難再,
客舍凄涼夜似年。
十載讀書貧到骨,
盤惟苜蓿坐無氈。

 Ký hữu
Bình sinh thế lộ thán truân chiên,
Vạn sự duy ưng phó lão thiên.
Thốn thiệt đãn tồn không tự tín,
Nhất hàn như cố diệc kham liên.
Quang âm thúc hốt thời nan tái,
Khách xá thê lương dạ tự niên.
Thập tải độc thư bần đáo cốt,
Bàn duy mục túc, toạ vô chiên.

Gửi bạn 
 (Người dịch: Trúc Khê) 
Truân chuyên từng ngán bước đường đời,
Muôn việc đành thôi phó mặc trời.
Tấc lưỡi còn đây thường tự tín,
Thân nghèo mãi thế đáng thương thôi.
Lạnh lùng khách xá đêm dài mấy,
Vùn vụt quang âm bóng xế rồi.
Đọc sách mười năm nghèo đến tuỷ,
Ăn không rau đậu, chẳng chiên ngồi. 


 


題南花禪房
 半生丘壑羨幽凄,
禪法分明聽鳥啼。
萬里南來山水遠,
一生能幾過曹溪。 

Ðề Nam Hoa thiền phòng
Bán sinh khâu hác tiện u thê,
Thiền pháp phân minh thính điểu đề.
Vạn lý Nam lai sơn thuỷ viễn,
Nhất sinh năng kỷ quá Tào Khê. 

Đề ở phòng thiền Nam Hoa 
 (Người dịch:Nguyễn Thiên Thụ)
 Nửa đời nương náu chốn sơn khê, 
Chim kêu vượn hú thảy đều nghe..
 Phương Nam sông núi xa ngàn dặm,
Một đời mấy bận đến Tào Khê!

 


聽 雨
寂寞幽齋裏
終宵聽雨聲
蕭騷驚客枕
點滴數殘更
隔竹敲窗密
和鐘入夢清
吟餘渾不寐
斷續到天明

Thính Vũ 
Tịch mịch u trai lý
Chung tiêu thính vũ thanh
Tiêu tao kinh khách chẩm
Điểm tích sổ tàn canh
Cách trúc sao song mật
Hoà chung nhập mộng thanh 
Ngâm dư hồn bất mị
Đoạn tục đáo thiên minh

Nghe Mưa
 (Người dịch:Nguyễn Thiên Thụ)
Vắng vẻ chốn thư trai
Suốt đêm nghe mưa rơi
Tiếng mưa lay gối khách
Tí tách suốt đêm dài
Mưa rơi ngoài song cửa
Tiếng chuông hòa giấc mộng
Đứt nối đến sáng mai 

 


崑山歌

崑山有泉
其聲冷冷然
吾以為琴弦
崑山有石
雨洗苔鋪碧
吾以為簞席
岩中有松
萬里翠童童
吾於是乎偃息其中
林中有竹
千畝印寒綠
吾於是乎吟嘯其側
問君何不歸去來
半生塵土長膠梏
萬鐘九鼎何必然
飲水飯蔬隨分足
君不見董卓黃金盈一塢
元載胡椒八百斛
又不見伯夷與叔齊
首陽餓死不食粟
賢愚兩者不相侔
亦各自求其所欲
人生百歲內
畢竟同草木
歡悲憂樂迭往來
一榮一謝還相續
丘山華屋亦偶然
死後誰榮更誰辱
人間箬有巢由徒
勸渠聽我山中曲


Côn sơn ca

Côn Sơn hữu tuyền,
Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền.
Côn Sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô bích,
Ngô dĩ vi đạm tịch.
Nham trung hữu tùng,
Vạn lí thuý đồng đồng
Ngô ư thị hồ yển tức kì trung.
Lâm trung hữu trúc,
Thiên mẫu ấn hàn lục,
Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kì trắc.
Vấn quân hà bất quy khứ lai
Bán sinh trần thổ trường giao cốc?
Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiên,
Ẩm thuỷ phạn sơ tuỳ phận túc.
Quân bất kiến: Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ,
Nguyên Tái hồ tiêu bát bách hộc.
Hựu bất kiến: Bá Di dữ Thúc Tề,
Thú Dương ngạ tự bất thực túc ?
Hiền ngu lưỡng giả bất tương mâu,
Diệc các tự cầu kì sở dục.
Nhân sinh bách tuế nội,
Tất cánh đồng thảo mộc.
Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai,
Nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục.
Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên,
Tử hậu thuỳ vinh cánh thuỳ nhục.
Nhân gian nhược hữu Sào Do đồ,
Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc. 



CÔN SƠN CA 
Bản dịch của học giả Đào Duy Anh

Côn Sơn có khe,
Tiếng nước chảy rì rầm.
Ta lấy làm đàn cầm.
Côn Sơn có đá,
Mưa xối rêu xanh đậm,
Ta lấy làm chiếu thảm.
Trên núi có thông,
Muôn dặm rờn rơn biếc một vùng,
Ta tha hồ ngơi nghỉ ở trong.
Trong rừng có trúc,
Nghìn mẫu in biếc lục,
Ta tha hồ ca ngâm bên gốc.
Ngươi sao còn chửa về đi!
Nửa đời bụi bặm hoài lăn lóc,
Muôn chung, chín đỉnh có làm gì?
Nước lã, cơm rau miễn tri túc,
Ngươi chẳng thấy Ðổng Trác ngọc vàng chất đầy nhà?
Nguyên Tải hồ tiêu tám trăm hộc?
Lại chẳng thấy Bá Di với Thúc Tề?
Thú Dương chết đói không ăn thóc?
Hiền ngu dù chẳng giống nhau đâu,
Cũng đều muốn thoả lòng sở dục.
Người đời trong trăm năm,
Rốt cuộc như thảo mộc.
Vui buồn lo sướng đổi thay nhau,
Một tươi một héo vẫn tương tục.
Cồn hoang lầu đẹp cũng ngẫu nhiên,
Chết rồi ai vinh với ai nhục?
Nhân gian nếu còn bọn Sào Do,
Khuyên hãy nghe ta ca một khúc.
 







No comments: