Thơ Văn Phản
Kháng Việt Nam Sau Năm 1975
Băng Tâm
Dưới chế độ
cộng sản có hạng thi công, văn công làm
công tác văn nghệ theo chỉ thị
của Đảng Cộng Sản. Danh từ nhà thơ, nhà văn chỉ xứng
đáng để gọi những
người viết văn, làm thơ diễn đạt tư tưởng riêng của
mình một cách tự
do, phóng khoáng mà không bị ràng
buộc vào đường lối, chủ trương của
Đảng Cộng Sản, dù họ sống dưới chế độ cộng sản.
Vào
năm 1956,
sau thời gian Đảng Cộng Sản thực hiện chính sách Cải
Cách Ruộng Đất,
một số nhà văn, nhà thơ đã dấy lên phong
trào chống Đảng bằng văn nghệ.
Đó là hoạt động của các nhóm Nhân
Văn, Giai Phẩm, khá sôi nổi trong một
thời gian rồi bị Đảng Cộng Sản trấn áp bằng cách bắt bớ,
tù đày các văn
nghệ sĩ, hoặc tước bỏ chức vụ, hay truất quyền sáng tác,
khai trừ khỏi
Hội Nhà Văn ... Chúng ta còn nhớ đó
là trường hợp các nhà văn, nhà báo
Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Thụy An Hoàng Dân,
các nhà thơ Phùng Quán,
Trần Dần, Hoàng Cầm, Nguyễn Duy ... luật sư Nguyễn Mạnh Tường,
nhà xuất
bản Trần Thiếu Bảo ...
Tuy vậy,
dòng
máu quật khởi vẫn luôn luôn chảy mạnh trong những
con người có lương
tri và cảm giác nhạy bén nhất là những
người làm văn nghệ. Họ vẫn tiếp
tục chống Đảng bằng ngòi bút, từ thế hệ này sang
thế hệ khác.
Từ năm 1960
về sau, đã có những người muốn vượt khỏi sự kềm kẹp tư
tưởng của Đảng
Cộng Sản. Nhưng thực sự đến năm 1986, họ mới trở thành những kẻ
phản
kháng chế độ cộng sản.
Với
các tác phẩm "thời xa vắng"
(1986), "bên kia
bờ ảo vọng"
(1987), hai tác giả Lê Lựu và Dương Thu Hương được
xem như là đã có
những sáng tác đầu tiên đánh dấu cho
quá trình đổi mới trong nền văn
học xã hội chủ nghĩa. Rồi tiếp theo đó, có những
suy tư bất mãn trong
giới cầm bút, thể hiện bằng những bài báo, văn
phẩm đã làm cho Đảng
Cộng Sản thay đổi thái độ, rồi công bố Nghị Quyết số 05
(tháng 12 -
1987), với đề tài "Đổi Mới Và Nâng Cao Trình
Độ Lãnh Đạo, Quản Lý Văn
Học, Nghệ Thuật Và Văn Hóa, Phát Huy Khả Năng
Sáng Tạo, Đưa Văn Học,
Nghệ Thuật Và Văn Hóa Phát Triển Lên Một
Bước Mới".
Tuy có
chủ
trương như vậy, nhưng Đảng Cộng Sản không thực tâm thực
hiện, nên chỉ
vài năm sau (1989) đã lại đàn áp những
nhà thơ, nhà văn có tư tưởng đổi
mới, hay nói cách khác, có tư tưởng phản
kháng chế độ. Những người này
gồm có, các nhà văn: Nguyễn Minh Châu, Dương
Thu Hương, Lê Lựu, Xuân
Cang, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Phùng Gia Lộc.
Các nhà thơ:
Nguyễn Duy, Ý Nhi, Xuân Quỳnh, Trần Vàng Sao, Trần
Mạnh Hảo. Và nhiều
văn nghệ sĩ khác.
Tác
phẩm của họ có tính chất phản kháng như thế
nào ? Ở tác phẩm "mảnh đất tình yêu"
của Nguyễn Minh Châu (1987) có đoạn mô tả tư
cách của cán bộ cách mạng
(CS) đối với người dân: "cái bọn vừa dốt nát, tham
lam, vừa lắm quỷ kế,
lắm thủ đoạn, có quyền nhân danh cách mạng", "vu
khống, dọa dẫm khiến
người ta phải són đái ra, từ đó mà khuất
phục, mua chuộc ..." Còn người
dân thì " lúc nào cũng mắt trước mắt sau,
nhớn nhác, hốt hoảng, chực
chạy ..." như loài dã tràng.
Trong
tác phẩm "ngày
thứ bảy u ám"
tác giả Trần văn Tuấn đã viết về những người cách
mạng làm đến chức thứ
trưởng mà bản chất rất hung bạo, xấu xa. Cũng như những văn
nhân, tài
tử chỉ là những "kẻ dối trá, ti tiện" trong truyện
"Bên kia bờ ảo vọng
" của Dương Thu Hương.
Một
tác giả
khác, Nguyễn Huy Thiệp, với tác phẩm gồm 3 truyện ngắn,
đã mô tả những
nhân vật lịch sử và văn học danh tiếng là Quang
Trung, Gia Long và
Nguyển Du. Người cộng sản thường vẫn đề cao Quang Trung, Nguyễn Du
và
miệt thị Gia Long. Nguyễn Huy Thiệp không làm như vậy. Với
truyện "phẩm tiết", ông viết về Quang Trung như
sau: "nhà vua thấy Vinh Hoa, thốt nhiên rùng
mình, hoa mắt, đánh rơi cốc rượu quí cầm tay ..."
- "Thằng Khải
kia ... Tao cho mày ăn cứt, xem mày có chê
lợm không".
Nói rồi
nhà vua cầm phất trần quất ngang miệng Khải, quát tả hữu
nọc ra đánh, nhét cứt vào mồm, lột truồng đuổi
Khải về nhà ".
Quang Trung
trong đoạn văn này là một kẻ hiếu sắc, tàn bạo.
Truyện " vàng lửa
" , viết về Nguyễn Du: " mặt nhàu nát vì đau khổ
... Ông hơn người khác
ở nhân cách, nhưng nhân cách ấy có
giá trị gì khi cuộc đời thực ông xúi
xó, túng kiết ", " lòng tốt của ông
là thứ lòng tốt nhỏ, không cứu được
ai ".
Nguyễn Du theo
truyện này, không có khả năng cứu nhân độ thế.
Cũng trong
truyện " Vàng Lửa ", viết về Gia Long là: " khối
nguyên liệu vô giá ",
" ông làm cho lịch sử sinh động hẳn lên. Đấy
là lòng tốt lớn của nhà
chính trị. Lòng tốt lớn của nhà chính trị
không chỉ là làm việc thiện
với một bộ phận đơn lẻ mà còn là sức đẩy của
ông ta đối với cộng đồng
... Không có một sức đẩy mạnh, cả cộng đồng sẽ mọc
rêu, mủn nát ".
Gia long ở
đây là một nhân vật lịch sử, một nhà
chính trị tốt chứ không xấu như người cộng sản đã
nghĩ và phê phán.
Khi viết về ba
danh nhân trên, Nguyễn Huy Thiệp đã có chủ
ý gì ? Hẳn nhiên là ông muốn
mô tả thần tượng này để lật đổ thần tượng khác.
Mà thần tượng đó là ai,
ta dễ hiểu ra, không người nào khác Hồ Chí
Minh. Mặt khác, trong khi
cộng sản đề cao nhân vật này, mạt sát nhân
vật kia thì Nguyễn Huy Thiệp
đã làm ngược lại.
Từ năm 1987,
các văn nghệ sĩ đã thật sự ào ạt xông
vào trận tuyến phản kháng. Các
nhân vật trong văn thơ họ là những người nghèo
đói. Ông thầy giáo ngồi
bán thuốc lá trên đường (của Đỗ Trung Quân),
người ăn xin (của Lê Đình
Cảnh), đứa bé đói ăn trộm cơm cúng trong nghĩa
trang (của Trần Vàng
Sao). Với những bài phóng sự, họ mô tả cuộc sống
của người dân dưới chế
độ xã hội chủ nghĩa như ở địa ngục, bị đói khổ,
hành hạ, vùi dập. Đó là
các bài phóng sự của Trần Huy Quang (lời khai của bị can), Phùng Gia Lộc (cái đêm hôm ấy
đêm gì),
Hoành Hữu Các (tiếng đất),
Hà Văn Thùy (sự nghiệt ngã của nghề nghiệp), Mai Ngữ (chuyện như đùa).
Một
vài tác
giả khác viết lại phong trào cải cách ruộng đất ở
miền Bắc, với những
cuộc đấu tố giết người tàn bạo, vào thập niên 50,
trong tác phẩm " những thiên đường mù " (Dương Thu Hương - 1989), " ác mộng " (Ngô Ngọc Bội - 1990), " ôi cam sao mà đắng " (Ninh Đức Nịnh - 1989).
Tinh thần
phản kháng của các người làm văn nghệ còn
biểu hiện ở tính cách "nói
thẳng nói thật". Họ bảo nền văn học hiện thực xã hội chủ
nghĩa từ sau
năm 1975 là rất nghèo nàn.
Năm 1988,
nhà
văn Lê Ngọc Trà viết trên báo Văn Nghệ: " Thế
là rốt cuộc sau nhiều do
dự, thì thầm, lần đầu tiên chúng ta đã
có can đảm nói to lên, nói công
khai một sự thật: Văn học cách mạng của chúng ta
còn nghèo nàn". Nghèo
nàn vì nền văn học đó đã lệ thuộc
vào sự chỉ đạo của Đảng Cộng Sản, ở
tất cả mọi lãnh vực. Lưu Quang Vũ đã viết về sự độc
tài của Đảng: " Chỉ
cần một người suy nghĩ cho mọi người, một cái đầu tối cao suy
nghĩ cho
mọi cái đầu ", tình trạng độc đoán như vậy tất
bóp chết mọi sáng tạo,
làm khô kiệt văn học nghệ thuật ".
Văn học
đã như vậy, còn văn nghệ sĩ thì sao ?
Nhà
phê bình
Nguyễn Văn Mạnh đã bộc lộ: " Lãnh đạo khinh bỉ sâu
sắc văn nghệ sĩ (Tạp
chí Văn Nghệ - 1987). Nhà văn Mai Văn Tạo cũng có
ý kiến như vậy: "
Chưa bao giờ văn nghệ sĩ bị rẻ rúng như bây giờ" (Văn Nghệ
- 1988).
Bị
lãnh đạo
Đảng trói buộc, người làm văn nghệ có lúc
tự so sánh họ sáng tác còn
thua các nhà văn thời Pháp thuộc. Nguyễn Minh
Châu viết: " ... Nam Cao
chẳng hạn, có lần ông ấy la lối, hô hoán ầm
lên rằng thiên hạ vít hết
lối của ngòi bút ông ấy, viết cây chuối hay
con chó hoặc kẻ say rượu
đều phạm húy, đều có kẻ đe đánh, đe đốt
nhà. Bị o ép đến vậy, tưởng
không viết được gì, thế mà cuối cùng, cả một
đời cầm bút của Nam Cao
trước cách mạng, số năm có là bao nhiêu
đâu, vậy mà đủ để lại khá
nhiều, nhất là có thể có cái quyền viết rất
thực, bao nhiêu lẽ đời, sự
đời, bao nhiêu khuôn mặt người thực đến thế. Chí
Phèo thực đến thế.
Thật là vừa được viết, vừa được nói ". (Văn Nghệ - 1987).
Về văn nghệ
sĩ thì bạc đãi, nhưng dưới chế độ cộng sản, những anh
hùng, lãnh tụ
được thần tượng hóa, mà nhà thơ Nguyễn Duy gọi
là những thần tượng giả:
Thần tượng
giả xèo xèo phi hành mỡ
ợ lên thum thủm cả tim gan
Thần tượng
thì là thần tượng giả, xứ sở thì nghèo
nàn mà khoe là xứ sở phì nhiêu:
Thời hậu
chiến ta vẫn người trong cuộc
Xứ sở
phì nhiêu sao thật lắm ăn mày ( Nguyễn Duy )
Dù
không đến nỗi làm kẻ ăn mày, người dân cũng
không khỏi lâm cảnh túng quẫn:
đứa
không có được một cái áo lành
đứa đi kinh
tế mới ba bảy tám năm trở về xách một
cái bị
lát mặt cắt không có một hột máu
đứa đạp xe
thồ ngồi vắt chân ăn củ sắn chờ khách
ở bến xe
đứa vô
tích sự ở nhà không có việc chi làm
Có đứa
râu tóc dài che kín mặt
Có đứa
tàng không nhớ mình tên chi
Có đứa
chịu không nổi dắt vợ con vào nam
ăn đường ngủ
chợ
mỗi lần gặp
nhau mở to mắt cười
hút
một điếu thuốc lá lắc đầu
hết chuyện
nói ...
( Trần
Vàng Sao )
Không
phải là hết chuyện nói, mà là chuyện
nói không hết, và cái gì cũng
là không thật trong xã hội cộng sản:
Đổi mới thật
chăng hay giả vờ đổi mới
Máu
nhiễm trùng ta có thể thay chăng ?
( Nguyễn Duy )
Không
thật đến cả cái " hiện thực xã hội chủ nghĩa ", nền tảng
của văn học nghệ thuật cộng sản.
Bài "
Hiện thực xã hội chủ nghĩa có phải là của giả
không ", đăng trên báo nhân dân (
tháng 5/1989), tác giả Đỗ Văn Khang đã viết:
"Khái niệm hiện thực xã
hội chủ nghĩa chỉ là sự bày đặt của một số nghệ sĩ, một
số nhà lý luận
". Nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến có
cùng nhận định: " Hiện thực xã hội
chủ nghĩa là một khái niệm giả đã gây đau
khổ kéo dài cho cả nghệ sĩ,
cả nhà nghiên cứu, lãnh đạo ...".
Một vấn đề
mà
các văn nghệ sĩ phản kháng đòi hỏi cấp thiết nhất
là văn nghệ phải độc
lập, tự do đối với chính trị và văn nghệ sĩ không
thể là cán bộ, viên
chức nhà nước ăn lương để làm văn nghệ. Họ quan niệm văn
nghệ không thể
là dụng cụ để tuyên truyền các chính
sách, chủ trương của Dảng và Nhà
Nước.
Vào
năm 1994, ở Việt Nam, Bộ Văn Hóa Thông Tin đã
có quyết định số 2681/QĐ - VHTT ra ngày 4-10-1994, ngưng
phát hành cuốn " 40 truyện rất ngắn
" của Trương Quốc Dũng. Cũng thời gian đó, Ban Trị Sự
Thành Hội Phật
Giáo Việt Nam Thành Phố Hồ Chí Minh cũng đưa ra
văn thư số 480 VT/THPG
ngày 6-10-1994 đề nghị nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam
thu hồi tập " 40
truyện rất ngắn " của Trương Quốc Dũng.
Sở dĩ
có sự
kiện trên là tập " 40 truyện rất ngắn " có truyện "
Đường Tăng " mà bộ
Văn Hóa Thông Tin cho là có nội dungvi phạm
chính sách tôn giáo và đoàn
kết dân tộc của Đảng và Nhà Nước. Thành Hội
Phật Giáo cũng yêu cầu loại
bỏ vĩnh viễn truyện " Đường Tăng " và cấm phổ biến dưới bất cứ
hình
thức nào.
Nội dung
truyện " Đường Tăng " có thể thuật lại như sau: " Đường Tăng
cùng với 3
đồ đệ Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng sau bao nhiêu
ngày gian khổ trên
đường thỉnh kinh đã đến đất Phật. Đêm cuối cuộc trường
chinh, trước
ngày mai vào yết kiến Như Lai Phật Tổ để lên kiếp
Phật, Đường Tăng trằn
trọc không ngủ được. Ông băn khoăn về hậu kiếp không
biết sẽ như thế
nào, không còn là người, ông sẽ
thành Phật hay thành Ma ? Bởi vì trên
chặng đường dài qua Tây Phương, chỉ với mục đích
muốn mau thành chánh
quả, ông đã quên tình cha mẹ, đã nhiều
lần lạy lục cầu khẩn thần thánh
cứu nạn, giẫm đạp lên xác máu yêu ma.
Trái tim ông trở nên chai sạn,
lòng thương người của ông chỉ là sự tính
toán để xây thêm bậc thang tới
Phật đài. Trong đêm cuối cùng này, ông
nhận biết ra, trên đường thỉnh
kinh về cứu rỗi người đời ông đã xa lạ với con người.
Ông thấy nhói
trong tim và khẽ rên lên. Các đồ đệ đến
bên giường thăm hỏi. Ông đáp:
"Ta đau đớn cho mười mấy năm viễn du. Ngộ Không ơi! Một đời con
mong
được thành người thì bị bắt ép theo ta để
thành Phật! Bát Giới tự dối
mình giác ngộ thật ra chỉ là đi tìm một
chốn hoan lạc mới. Sa Tăng rời
cõi u mê này sang cõi hoang tưởng
khác mà lại hy vọng khai sáng. Còn ta
? không còn là người thì làm sao đồng
cảm mà đòi khai sáng, cứu vớt con
người?"
Tìm
hiểu ý
nghĩa truyện " Đường Tăng ", ta có thể biết vì sao Bộ Văn
Hóa Thông Tin
Cộng Sản đã cấm phát hành tập truyện của Trương
Tiến Dũng và Thành Hội
Phật Giáo yêu cầu loại bỏ thiên truyện này.
Thực ra, nội
dung truyện " Đường Tăng " không có gì là vi
phạm chính sách tôn giáo
và đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà
Nước. Đây chỉ là cái cớ để chính
quyền cộng sản dễ bề ngăn cấm phổ biến tác phẩm của Trương Tiến
Dũng.
Hiển nhiên, dụng ý của nhà văn viết về Đường Tăng
là muốn ám chỉ về
lãnh tụ Hồ Chí Minh và các đồng chí
đàn em của ông ta. Giác ngộ cách
mạng để thành loại người không còn nhân
tính (quên tình cha mẹ, tàn hại
đồng bào) thì làm cách mạng chẳng mang lại
hạnh phúc cho con người.
Tất cả
các
tác phẩm của các văn nghệ sĩ phản kháng ở Việt
Nam, từ sau năm 1975,
đều có tính chất sâu sắc ở nhiều mặt, vì họ
đã sống và rút kinh nghiệm
ở nhiều cuộc đấu tranh tư tưởng với cộng sản, khởi từ phong trào
Nhân
Văn - Giai Phẩm. Và cũng do tình hình chính
trị thế giới, sự sụp đổ của
Liên Xô, người ta đều thấy rõ, như lời nhà
văn Nguyên Ngọc đã phát biểu
trong buổi nói chuyện tại Huế vào tháng 4-1989:
"Cái chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam cũng như ở Liên Xô, đã không chứng
minh được tính ưu việt đối
với chế độ nó đã thay thế ". o
No comments:
Post a Comment