Sunday, August 26, 2012

NGUYỄN VĂN SÂM * THANH NAM

Giới thiệu ngắn về một nhà văn:
Thanh Nam
và Con Người Bất Hạnh Cô Đơn
Nguyễn văn Sâm
Nhà văn
Thanh Nam
hoàn tất cuộc
lữ hành văn
nghệ hơn ba
mươi năm
trời. Thời gian
đủ xây dựng
một số công
trình và tiếng
tăm trong văn
giới và độc
giả. Trong ba
mươi năm
nhập cuộc với ông chỉ có văn nghệ và văn
nghệ mà thôi. Những hoạt động khác đều
trở nên thứ yếu. Văn nghệ là cuộc sống, là
cuộc đời của Thanh Nam. Văn nghệ, khu
rừng ông đến, thưởng thức, trồng thêm cây
và cất nhà ở đó, khác với một số đông nhà
văn khác, chỉ ghé tạt ngang qua, liếc thoáng
một cái nhìn rồi trở về nhà riêng, lâu lâu
quay trở lại thật ngắn để có mặt nhưng sự
ràng buộc với văn chương chữ nghĩa thật
lỏng lẻo, lợt lạt…
Trong nhịp sáng tác Thanh Nam từ từ đi,
không vội vàng, không chểnh mảng, tác
phẩm xuất hiện không ào ạt, nhưng gần
như năm nào cũng có. Con đường viết
riêng, không thắc mắc khó khăn (Huỳnh
Phan Anh, Nguyễn Thị Hoàng, ặng Phùng
Quân…) cũng không lè tè dễ dãi (Ngọc
Linh, Ngọc Sơn, An Khê, Lê Xuyên). Thái
độ trung dung của ông – hay nhu cầu đề ra
của các chủ báo – khiến Thanh Nam không
vượt lên được trên số ít oi những cây viết
nổi bật của giai đoạn Việt Nam Cộng Hòa
1954-1975.
Nói chung ông không có tác phẩm lớn làm
thay đổi bước đi của lịch sử văn học hay
đánh dấu một đoạn đường đặc biệt nào đó
trong tiến trình văn chương Việt. Ông chỉ để
lại một vài vết tích nhỏ trên con sông văn
chương Việt bát ngát dàn trãi mà ai từng đi
dọc dòng sông đó cũng đều nhận ra ngay.
Đó không là những thác cao, những cù lao
lớn, những hòn dài, những mảng đất bao la
chẻ sông ra làm hai, làm ba, làm chín. Tác
phẩm của ông chỉ là một vài mũi đất, cái
voi, cái vịnh nhỏ trong khúc sông hẹp,
nhưng có mặt và người ta nhận ngay ra đó
là những doi vịnh Thanh Nam.
Tôi không muốn đặt vấn đề địa vị nhà văn
cao thấp ở đây. Sự đánh giá bất kỳ nhà văn
nào cũng đều không tránh khỏi được sự
chủ quan và trong tình trạng đặc biệt của
việc viết lách hải ngoại hiện nay, sự xếp đặt
vị trí nầy nọ là chuyện khôi hài. Điều quan
trọng là tác giả có đóng góp hay không vào
kho tàng văn chương Việt. Với thời gian,
mỗi người một vài tác phẩm, dân tộc chúng
ta nói chung, người Việt hải ngoại nói riêng,
sẽ có nền văn học riêng. Chiếu trên, chiếu
dưới, đỉnh cao, ngọn núi chỉ là những lời trơ
trẻn, chỉ có giá trị rao hàng. Vì vậy tôi chỉ
muốn nhân dịp này phóng bút nói những
điều thật chủ quan về Thanh Nam.
Cách đây một phần tư thế kỷ, trong một bài
viết cho tờ báo sinh viên của trường, tờ Văn
Khoa (hay Đối Thoại?) do anh Phạm
Trường Thiên, con trai ông chủ nhà sách
Việt Hương ở đường Lê Lợi Sàigòn lúc ấy
chủ trương, viết về tình hình văn chương
Việt Nam trong năm 1961, tôi có nhắc đến
sự thành công của Thanh Nam trong tập
truyện “Buồn Ga Nhỏ” sau khi nhận xét rằng
“Người Viễn Khách Thứ Mười” của Nghiêm
Xuân Hồng cũng xuất hiện năm đó là tác
phẩm trội nhất trong năm.
Với tôi Buồn Ga Nhỏ đặc biệt đã nói lên
được một tâm trạng, một mối tình. Tâm
trạng người thiếu phụ chấp nhận đời mình
đứng lại như một sân ga. Người đến, người
đi, tàu dừng, tàu chạy, riêng mình ở lại chờ
sự tàn phá của thời gian, không ai buồn chú
ý. Vì sao? – Hoàn cảnh. Một người chồng
già, tầm thường, vô học, không có một điểm
nhỏ điều kiện nào để vươn lên. Tâm trạng
đó lại đau đớn hơn, lại được làm cho sắc
nét hơn khi người xưa trở lại hé cho thấy
một mối tình, một sự tiếc rẻ. Văn trong
-2-
truyện thật đơn sơ, sự kiện mô tả thật giản
dị nhưng hình ảnh đã tạo được xúc động
trong tôi lúc đó, đến giờ đọc lại vẫn còn cảm
giác, ấn tượng tương tợ.
Tôi ưa đặt vấn đề phía sau của tác phẩm?
Tôi muốn truyện ngắn phải chuyên chở một
nội dung? Tôi để lòng mình trôi theo thân
phận của nhân vật? Không rõ. Chỉ biết
Buồn Ga Nhỏ đã đem đến cho tôi trạng thái
lâng lâng, cái lâng lâng kéo dài hơn hai
mươi lăm năm và chắc chắn sẽ còn kéo dài
nữa sau này nếu có dịp đọc lại.
Về sau Vai Phụ cũng gảy vào cung bậc đó
trong tôi. Thân phận kẻ không tên bất hạnh
trong cuộc đời, sẵn sàng đem tấm lòng
mình, tài năng mình dàn trải ra cho người
đời nhưng không ai nhận, người đời chỉ đi
theo những bóng đèn sáng đã được chấp
nhận, ngoảnh mặt lại với những tài năng
mới mà vì hoàn cảnh chưa có khả năng
phát huy. Truyện viết ra từ năm 1959 nhưng
sau này tôi mới được đọc và tự hỏi nếu
trước đây được đọc, tôi có chăng sự xúc
cảm đó về số phận của “con người bất hạnh
cô đơn”, một con người luôn luôn đứng
trong bóng tối, luôn luôn giữ “ Vai Phụ”?
Thanh Nam chỉ đến với tôi bằng hai truyện
ngắn đó (Nhiều nhà văn khác cũng ảnh
hưởng lên tâm hồn tôi bằng một vài truyện
ngắn mà thôi. Bình Nguyên Lộc: Lò Chén
Chùm Sao, Nhốt Gió, Ba Con Cáo, Rừng
Mắm; Hồ Hữu Tường: Con Thằn Lằn Chọn
Nghiệp; Thạch Lam: Sợi Tóc; Phạm Duy
Tốn: Câu Chuyện Một Tối Tân Hôn…Nhiều
người chỉ là một đoạn ngắn: Thanh Tịnh:
Ngày Khai Trương…) Hai truyện, quá ít
nhưng đủ để tôi thấy Thanh Nam có đủ khả
năng đặt vấn đề thân phận con người bị sa
lầy trong hoàn cảnh hẩm hiu. Các truyện dài
của Thanh Nam trái lại qua lòng tôi không
để lại dấu vết, đi qua như những bữa cơm
bình thường hằng ngày, về sau có nhớ
cũng không thể nói cảm nghĩ mình bữa đó.
Có lẽ vì văn trong truyện dài của Thanh
Nam, kỹ thuật dựng truyện của ông và
không khí trong truyện tương tợ với tác
phẩm của bạn bè ông lúc đó: Văn Quang,
Hoàng Hải Thủy…(và cả Viên Linh?)
Tôi chỉ nhớ Thanh Nam có vài bài thơ rải
rác đó đây. Những bài thơ tình, đủ để gọi là
thi sĩ nhưng chưa vượt lên được trên đỉnh
cao nghệ thuật, với những bản sắc riêng
như Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Vũ
Hoàng Chương, hay đặc biệt như Trần Dạ
Từ, Nguyễn Đức Sơn, Bùi Giáng, Phạm
Thiên Thư.
Trong dịp ra mắt tập thơ của Thanh Nam
(do Mai Thảo đại diện) cùng với tập truyện
Tan Theo Ngày Nắng Vội của Du Tử Lê ở
Houston hai năm trước đây, được mời phát
biểu trước độc giả, tôi đã nói đại khái Đất
Khách là tâm trạng của chúng ta, những
người ly hương suốt đời hoài vọng về
khung trời cũ, suốt đời cảm nhận chúng ta
đã mất quê hương. Ở xứ người thành công
hay thất bại một cảm thức đau đớn cũng
luôn dày xéo hồn ta, nhắc nhở rằng ta đang
ở ngoài quê hương, ở trọ, sống nhờ, ghé
chơi, và ước mong được trở về quê cũ,
một quê cũ nghìn trùng xa cách mà trong
sâu thẳm của tri thức, ta lờ mờ thấy rằng
khó đạt được…
Thanh Nam với bài thơ thôi, với vài hình
ảnh thật gợi xúc động đã giúp ta kéo dài
thời gian trở về ngày cũ, đem không gian
nghìn trùng của quê nhà về cho ta nơi Đất
Khách. Ô sống với quá khứ, với Saigon,
ông phủ nhận thời gian và không gian bây
giờ, ông diễn tả hộ ta tâm sự tư cố hương,
ông trình bày với đời hoài cảm vọng minh
nguyệt giùm cho thế hệ ly hương thứ nhất
bằng những từ ngữ chững chạc, đứng đắn,
với một thái độ thật trầm tĩnh, nghiêm túc,
rất phù hợp với thơ.
Những ngày đánh vật với bệnh trạng ở
Seattle, Thanh Nam vẫn thiết tha cùng văn
nghệ như thuở nào. Ông viết hồi ký. Ông kể
những kỷ niệm về nhà văn kháng chiến
chống Pháp của giai đoạn 45-50, ông nói về
Lý Văn Sâm, Vũ Anh Khanh…Hình như ông
đã lờ mờ muốn đặt vấn đề đem đến một sự
công bằng cho những nhà văn không may
viết và sống trong một hoàn cảnh vô cùng
đặc biệt về chính trị và văn học này. Ở
phạm vi bài này tôi không thể đi sâu vào
vấn đề. Đại khái các nhà văn kháng chiến
chống Pháp đã bị CS loại ra khỏi các cuốn
-3-
sách viết về văn học đấu tranh mà họ gọi là
văn học cách mạng Việt Nam vì những nhà
văn nầy không được chỉ thị khi viết, nên đã
viết từ một ý thức tự phát. Trong khi đó
sách vở miền Nam cũng rất ít nói đến các vị
nầy do thiếu thốn tài liệu và ngại ngùng
những hiểu lầm, quy chụp. Trong suốt hai
chục năm của nền Cộng Hòa, chúng ta chỉ
có hai cuốn nói về giai đoạn văn học nầy,
một của Thế Phong và một của Nguyễn
Văn Sâm. Qua thời gian, vấn đề tài liệu
càng trầm trọng hơn và nếu tình trạng này
kéo dài, vài mươi năm nữa thôi, không ai
biết gì về những người đã đánh Pháp bằng
ngòi bút, bằng suy luận, bằng tư tưởng như
Hồ Hữu Tường, Thẩm Thệ Hà (đã mất),
Sơn Khanh, Thê Húc (hiện ở một tiểu bang
miền Bắc), Nguyễn Đạt Thịnh (ở Hawaii).
Đặng Thị Thanh Phương (tức nhà văn nữ
Thanh Phương ở Pháp) và người bên kia
sẽ mặc tình nói rằng lúc đó chỉ có những
nhà văn CS mới dám đặt vấn đề chống
thực dân Pháp, chỉ có nhà văn CS mới yêu
nước!
Sẵn đây cũng nên nói thêm để chứng tỏ sự
trầm trọng của vấn đề tài liệu.
1. Bài phỏng vấn nhà văn Xuân Vũ của
Nguyễn Mộng Giác đăng trên Văn Học số 4
ngày 5/86, Xuân Vũ có câu “Vũ Anh Khang
của Nửa Bồ Xương Khô, Trắc Bá Diệp và
những bài thơ nổi tiếng khác…” Thật ra Vũ
Anh Khanh không có viết bài thơ nào tên
Trắc Bá Diệp. Nửa Bồ Xương Khô là tên
truyện dài trong đó, ở quyển 2, Vũ Anh
Khanh đã vụng về tuyên truyền cho chế độ
CS – Sau này ông đã trả giá sự sai lầm của
mình bằng cái chết khi toan vượt sông Bến
Hải vào năm 1957 – và Cây Ná Trắc là tên
tập truyện ngắn ca tụng sự kháng chiến
không có một chút hơi hướm nào của CS
trong đó. Cũng nên nhắc lại Vũ Anh Khanh
đã cống hiến cho chúng ta bài thơ Tha La
(đã được phổ nhạc từ lâu) nổi tiếng như
Màu Tím Hoa Sim hay Đôi Mắt Người Sơn
Tây ở Miền Bắc cùng giai đoạn.
2. Báo Làng Văn số tháng 5/86 trong bài
phỏng vấn Cựu Thủ Tướng Nguyễn Văn
Lộc, tức nhà văn Sơn Khanh cho biết Sơn
Khanh có viết cuốn Toàn Binh (1950). Thật
ra Tàn Binh là một cuốn tiểu thuyết rất khá
của Sơn Khanh diễn tả tâm trạng của một
người vì hoàn cảnh bỏ chiến đấu trở về
thành nhưng không lúc nào nguôi được
mặc cảm đã không làm tròn bổn phận với tổ
quốc. quê hương…
Trở về chuyện Thanh Nam, điều làm tôi chú
ý và suy nghĩ, đó là tình thương vô bờ của
đa số bạn văn. Khi ông nằm xuống, rất
nhiều người viết về ông, về tình bạn, về kỷ
niệm, về lòng mến tiếc. Mới đây bài của
Phan Lạc Tiếp cũng rất xúc động, mấy câu
thơ của Vĩnh Lộc (Quãng đường tri kỷ
thoáng qua. Trạm buồn ga nhỏ còn ta ngậm
ngùi) cũng rất…ngậm ngùi.
Tại sao?
Không hẳn vì Thanh Nam đã cầm bút. Hồng
Liên Lê Xuân Giáo mới mất, Xuân Hiến đã
từ trần sao không được một sự bày tỏ thân
tình rộng rãi như vậy?
Phải chăng nhờ một thứ tình bằng hữu tốt
đẹp của Thanh Nam đối với bạn bè văn
giới? Phải chăng vì tư cách của ông trong
suốt cuộc đời ông? Phải chăng vì tính
phóng khoáng của nhà thơ, khi đánh canh
bạc đời?
Chỉ có thể giải thích thỏa đáng và đưa ra
lời đáp có giá trị từ các thân hữu của Thanh
Nam, kẻ viết bài này rất tiếc trong suốt đời
mình chưa bao giờ được hân hạnh gặp
ông. Đó là một sự thiệt thòi, một điều quá
uổng, đáng tiếc bởi vì được gặp, được tiếp
chuyện với nhà văn mà tác phẩm của họ đã
tạo được ấn tượng sâu đậm trong lòng
mình lúc còn trẻ là một điều đáng thú vị biết
bao.
Biết đâu được sự gặp gỡ đó tôi đã có thể
thêm vào bài loạn bút này vài dật sử về
ông để đỡ nhạt.
Nguồn: Tạp chí Văn, California, số 49,
tháng 7 năm 1986, trang 83-87

No comments: