Thụy Khuê - Nhân Văn Giai Phẩm Nguyên nhân đưa đến cuộc cách mạng mùa thu của tư tưởng
Thụy Khuê
Từ mùa xuân 1956 sang mùa thu 1956
Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn I gắn bó với Giai phẩm mùa xuân và giai đoạn II gồm toàn bộ những tờ báo phát hành từ tháng 8/1956 đến tháng 12/56.
Giai đoạn I có thể tóm tắt như sau:
Giai phẩm mùa xuân ra đời cuối tháng 1/1956. Hơn một tuần sau, nhiều sự kiện quan trọng liên tiếp xẩy ra:
- 28 Tết Nguyên đán: Tố Hữu sai người tìm gọi Lê Đạt lên Tuyên Huấn.
- 4 Tết: Trần Dần và Tử Phác bị bắt tại Yên Viên, nơi đang học tập cải cách ruộng đất.
- 5 Tết: Lê Đạt ăn Tết xong mới lên trình diện Tố Hữu. Bị giữ lại kiểm thảo 15 ngày.
- Trần Dần, sau
ba ngày bị giam dưới một căn hầm, dùng dao cạo cứa cổ, được đưa đến bệnh
viện. Tại đây, ngày 21/2/56 Trần Dần viết một lá thư dài cho đại tướng
Nguyễn Chí Thanh. Tướng Thanh can thiệp, Trần Dần, Tử Phác được tha ngày
5/5/56.
Trong tháng 2/56,
một "hội nghị lớn" luận tội Trần Dần (vắng mặt) được tổ chức. Chiến
dịch đánh Trần Dần bắt đầu ngày 7/3/1956 với bài viết của Hoài Thanh
trên báo Văn Nghệ số 110.
Giai đoạn II bắt nguồn từ những biến cố lớn trong các nước cộng sản và trong nội bộ của đảng cộng sản Việt Nam:
Ngày 24/2/1956, tại đại hội XX của đảng Cộng sản Liên xô: Khrouchtchev đọc bản tường trình mật về tội ác của Staline. Ngày 26/5/1956, Mao Trạch Đông phát động phong trào "Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng". Ngày 28/6/1956, Ba Lan nổi dậy.
Những biến cố trên đây ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình Việt Nam: Theo đường lối của Liên Xô và Trung quốc, Đảng Lao Động mở rộng chính sách học tập tự do dân chủ.
Một mặt khác, trong nội bộ Đảng cũng đang có những bất ổn chính trị:
Trong hội nghị
lần thứ 10 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (họp từ ngày 25/8/56 đến
24/9/56), Trường Chinh bị "nghiêm khắc kiểm điểm sai lầm" trong công tác
cải cách ruộng đất, phải tự kiểm thảo và xin từ chức. Hoàng Quốc Việt
và Lê Văn Lương, bị loại ra khỏi Bộ Chính trị, Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban
Chấp Hành Trung ương Đảng. Hồ Chí Minh kiêm nhiệm hai chức Chủ Tịch
Đảng và Tổng bí Thư từ (9/1956 đến 9/1960). Sau đó là thời kỳ Lê Duẩn
làm Tổng Bí Thư (9/1960 đến 7/1986), xẩy ra vụ Xét Lại Chống Đảng.
Vụ NVGP xẩy ra dưới thời Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng kiêm Tổng bí thư.
Vậy ai là người trách nhiệm chính?
Ai trách nhiệm vụ Nhân văn giai phẩm?
Trả lời câu hỏi chủ tịch Hồ Chí Minh có trách nhiệm như thế nào về vụ NVGP, Nguyễn Hữu Đang tuyên bố: "Cái
việc mà người ta cứ nói là việc nọ việc kia là người dưới làm chứ cụ Hồ
không biết, cụ Hồ không thực tiễn làm, đó là một cách nói không đúng sự
thật. Người ta thấy việc gì mà có dư luận kêu ca, thắc mắc thì không
muốn để cái kêu ca thắc mắc đó hướng vào vị lãnh tụ mà người ta suy tôn
tuyệt đối. Có thể nói là người ta thần thánh hóa cụ Hồ. Vì cái lý do nó
là như thế. Thực chất thì cụ Hồ không phải là người bị vô hiệu hóa trong
bộ máy lãnh đạo của đảng và của dân tộc. Cụ Hồ lúc nào cũng là người có
đầy đủ quyền hành, lúc nào cụ cũng sáng suốt, linh lợi, lúc nào cụ cũng
có uy tín với dân và cũng có quyền đối với các đồng chí trong đảng, đối
với những người lãnh đạo khác. Chắc bà cũng biết rằng những vị lãnh đạo
khác của đảng, đối với cụ Hồ là học trò chứ không phải như ở các đảng
Cộng sản khác đâu. Cho nên uy tín của cụ Hồ, quyền hành của cụ Hồ bao
giờ cũng rất vững, cụ Hồ biết hết cả, và việc đó cụ Hồ cũng đồng tình
làm.
Có thể nói
tóm một câu là cho đến mấy năm sau cùng, vì cụ yếu cụ ít chăm nom công
việc, cụ khoán cho Bộ chính trị, cụ ít can thiệp trực tiếp, chứ còn
trước đó thì bất cứ việc gì cũng là trong phạm vi chỉ đạo của cụ cả. Hay
cũng ở cụ, dở cũng ở cụ. Cụ phải gánh trách nhiệm đó, điều đó rõ ràng.
Có khi nào
một lãnh tụ tối cao đối với dân tộc, lãnh tụ tối cao của Đảng mà lại
không có trách nhiệm về việc nọ, việc kia. Điều đó không đúng. Chế độ
gọi là "báo cáo thỉnh thị" rất chặt chẽ trong nội bộ đảng Cộng sản và
trong bộ máy chuyên chính của nhà nước cũng thế, nghiêm ngặt lắm". (Nguyễn Hữu Đang, trả lời phỏng vấn RFI, ngày 3/9/1995).
Nhận định trên
đây của Nguyễn Hữu Đang phù hợp với một số nhận định khác về vai trò của
chủ tịch Hồ Chí Minh trong đời sống văn hóa văn nghệ:
Hà Xuân Trường nói về vai trò của Đảng trong "Mặt trận văn hoá văn nghệ" : "Tôi
muốn trở lại ý cơ bản này: buổi đầu cách mạng và kháng chiến, tờ báo
Đảng đã có sự quan tâm thích đáng đến mặt trận văn hoá - văn nghệ.(...)
Sự đầu tư công sức và tâm huyết của Đảng vào mặt trận này là đáng kể: từ
Bác, đến các anh Trường Chinh, Tố Hữu. Cần nhắc thêm vai trò của Bác và các ý kiến của Bác căn dặn giới báo chí và văn hoá - văn nghệ ngay từ buổi đầu này. Bác thường gửi bài cho báo Đảng, trên Sự Thật lúc ấy, cũng như trên tờ Nhân Dân sau này [Nhân Dân, tiếp tục tờ Sự thật, ra số 1, ngày 11/3/1951] dưới
các bút danh ta đã quen thuộc: C.B, X.Y.Z, A.G (chúng tôi thường gọi
Anh Già)... Điều đặc biệt là Bác viết rất ngắn và mỗi lần gửi bài cho
báo, Bác thường viết luôn một loạt có đánh số thư tự. Bác dặn anh em
chúng tôi là đánh số như thế để cho bạn đọc và cả Bác dễ nhớ, bao giờ
gần hết bài thì Bác chỉ cần xem trên báo là Bác biết để Bác kịp viết
tiếp, "các chú không cần phải nhắc". (Hà Xuân Trường, Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập II, nxb Tác Phẩm Mới, 1987, trang 44-45).
Và ông xác định vị trí và trách nhiệm của từng người trong cấp lãnh đạo:"Công
tác văn hoá - văn nghệ lúc bấy giờ nằm trong sự chỉ đạo của Tiểu ban
tuyên truyền do anh Trường Chinh đứng đầu. Anh Tố Hữu lúc này được Trung
Ương giao trực tiếp tổ chức, chỉ đạo công tác văn nghệ. Tôi là người
của Tiểu ban tuyên truyền, làm tờ Sự thật, do vậy mà có trách nhiệm liên
lạc giữa Trung ương và bộ phận văn hoá - văn nghệ, giữa anh Trường
Chinh và anh Tố Hữu. Trách nhiệm chính là làm sao giúp Trung ương nắm
tình hình văn nghệ, và từ góc độ báo Đảng, mà góp phần gợi giúp cho
người văn nghệ mạnh dạn đi vào quần chúng, dần dần nắm hiểu đời sống,
tham gia công tác cách mạng, và khắc phục từng bước các ảnh hưởng của
cách nhìn và thói quen cảm xúc tiểu tư sản..." (Hà Xuân Trường, bđd, trang 41)
"Anh [tức Trường Chinh] còn cho biết thêm là bản báo cáo [Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam] tuy là do anh trực tiếp soạn thảo, nhưng đã được ban thường vụ Trung ương thông qua và Bác đã xem và góp ý kiến" (Hà Xuân Trường, bđd, trang 42).
Hoàng Trung Thông cho biết: "Sau này tôi mới biết cuốn truyện về chiến sĩ thi đua đầu tiên là do Bác Hồ viết để làm mẫu cho những người khác viết theo" (Hoàng Trung Thông, Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học,Tập I, nxb Tác Phẩm Mới, 1985, trang 191).
Tháng Giêng năm 1956, Giai Phẩm Mùa Xuân vừa
ló dạng thể hiện tự do sáng tác, đã bị dập tắt ngay. Vậy có thể hiểu là
Trường Chinh đã giao cho Tố Hữu, người có tư thù với Hoàng Cầm, Trần
Dần và Lê Đạt trong việc phê bình tập thơ Việt Bắc, xử lý vụ Giai phẩm mùa xuân theo chỉ thị của Hồ Chí Minh.
Trong tháng 8 và 9 năm 1956, có hai sự kiện trùng hợp đáng kể:
Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí thư. Phong trào NVGP phát triển trở lại.
Quyết định cho
phép Hội văn nghệ tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày, theo đường lối
Liên Xô, trong tháng 8/1956, đến từ ai, nếu không phải là Hồ Chí Minh?
Lớp học này do
Nguyễn Hữu Đang phụ trách. Vai trò của Nguyễn Hữu Đang sẽ nổi bật trong
lớp học này và bài tham luận ông đọc ngày 26/8/56 tổng kết lớp học sẽ là
cái mốc quan trọng đẩy mạnh tiến trình đòi hỏi tự do dân chủ, việc
thành lập báo Nhân Văn và tục bản tờ Giai Phẩm, tạo nên cuộc Cách mạng mùa thu của tư tưởng.
Tháng 10/56 Hungary nổi dậy. Tháng 11/56 xe tăng Xô Viết tiến vào Budapest.
Ngày 9/12/1956 Hồ Chí Minh ký sắc lệnh báo chí. Đóng cửa Nhân Văn.
Phong trào NVGP bị dập tắt lần thứ nhì, tháng12/56.
Tháng 2/57 trong
Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai, họp từ 20 đến 28/2 tại Hà Nội,
Trường Chinh kêu gọi đấu tranh "đập nát âm mưu phản động" của nhóm NVGP.
Cuối năm 57: Mao
Trạch Đông hạ lệnh đánh phái hữu. Huy Cận và Hà Xuân Trường được cử đi
học tập chính sách của Trung Quốc. Khi họ trở về, tháng 2/58 việc thanh
trừng NVGP được tổ chức quy mô và toàn diện trong hai lớp đấu tranh Thái
Hà.
Lần này nữa, trách nhiệm hẳn cũng đến từ từng cao nhất của cấp lãnh đạo: Chủ tịch Hồ Chí Minh?
Khảo sát bị kịch
Nhân Văn, chúng ta thấy rõ sự đối lập giữa hai nhân vật: Nguyễn Hữu Đang
và Trường Chinh, cả hai đều được Hồ Chí Minh tin dùng.
Trường Chinh là Tổng bí thư đảng Cộng sản, còn Nguyễn Hữu Đang là ai?
Tại sao ông lại
được Hồ Chí Minh giao cho trách nhiệm tổ chức ngày lễ độc lập 2/9/45. Vì
bất đồng ý kiến với Trường Chinh, năm 1948, ông đã bỏ đảng. Nhưng sau
khi hoà bình lập lại, năm 1954, ông lại được gọi về làm việc và đến
tháng 8/56, ông được phép đứng ra tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày.
Phong trào Nhân
Văn Giai Phẩm chống lại toàn bộ chính sách văn hoá văn nghệ của đảng
Cộng sản. Vì vậy, chúng ta cần tìm hiểu chính sách văn hoá văn nghệ ấy
như thế nào?
Nói đến đường lối
văn hoá văn nghệ của đảng Cộng sản là phải nói đến Trường Chinh, vì
chính Trường Chinh (chứ không phải Hồ Chí Minh) đã viết bản đề cương văn
hoá văn nghệ và cũng chính Trường Chinh trực tiếp lãnh đạo văn hoá văn
nghệ.
Trường Chinh
Trường Chinh Đặng
Xuân Khu (1907-1988) là nhà chính trị, nhưng trước tiên, ông là nhà
báo, viết văn và làm thơ (bút hiệu Sóng Hồng). 1927, gia nhậpViệt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội (tiền thân của đảng cộng sản). 1940 là chủ bút báo Cờ Giải phóng, cơ quan của xứ ủy Bắc Kỳ. Sau đó làm chủ bút tờ Sự thật, cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản. Từ tháng 5/1941 đến tháng 9/ 1956, làm Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam.
[Đảng này thành
lập tháng 2/1930. Từ tháng 9/1930 đến tháng 11/1945, lấy tên là Đảng
Cộng sản Đông dương (theo chỉ thị của quốc tế cộng sản). Tháng 11/1945
Đảng "tự giải thể", rút vào bí mật. 1951, Đảng công khai trở lại với tên
Lao Động và đến năm 1976, mới chính thức lấy tên là đảng Cộng sản VN]
Hà Xuân Trường kể lại: "Đảng lúc bấy giờ, sau khi tuyên bố "tự giải tán", để chuyển thành Hội nghiên cứu chủ nghiã Mác ở Đông Dương (ngày 11/11/1945). Anh
Trường Chinh lúc bấy giờ là Tổng bí thư Đảng, Trưởng tiểu ban tuyên
truyền của Trung ương, kiêm chủ bút (tức Tổng biên tập) tờ Sự thật" (ra số 1, ngày 5/12/1945 ở Hà Nội)" (Hà Xuân Trường, Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập II, trang 31).
Đảng trải qua hai
biến cố quan trọng: Ngày 2/9/1945: Tuyên ngôn độc lập. Hơn hai tháng
sau, ngày 11/11/1945, Đảng tuyên bố "tự giải tán", đổi tên thànhHội nghiên cứu chủ nghiã Mác ở Đông Dương. Đó là chiến thuật chính trị của Hồ Chí Minh: Chính phủ lâm thời tạm giấu cái gốc quốc tế cộng sản, lấy danh nghĩa Mặt trận Việt Minh để tập hợp mọi thành phần dân tộc cả quốc gia lẫn cộng sản trong công cuộc kháng chiến chống Pháp.
Nguyễn Hữu Đang cho biết: "Vai trò của Hồ chủ tịch rất quan trọng. Cụ có thành lập Mặt trận Việt Minh thì mới có Cách mạng tháng Tám. Nếu
đảng Cộng sản đứng ra vận động cuộc Cách mạng tháng Tám, tôi tin là
không được kết quả như là Mặt trận Việt Minh, đó là một mặt trận gồm
nhiều thành phần, nhiều tầng lớp tham gia cho nên phát triển mạnh, được
nhân dân ta hưởng ứng hơn chứ còn nếu đảng Cộng sản đứng ra thì vẫn bị
hạn chế đấy". "Đảng Cộng sản lúc bấy giờ có 5000 người chứ ăn thua gì đâu".(Nguyễn Hữu Đang, trả lời phỏng vấn RFI)
Về mặt thực tế, đảng cộng sản vẫn lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp.
Trường
Chinh là người thảo đề cương, vạch rõ đường lối văn hoá và văn nghệ
Mác-xít của đảng cộng sản Việt nam qua hai văn bản quan trọng: "Đề cương
văn hoá Việt Nam" (1943) và Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam đọc tại
Đại hội Văn hóa toàn quốc lần thứ nhì, ở Việt Bắc, ngày 19/7/1948.
Tầm quan trọng và
ảnh hưởng của hai văn bản này trong đời sống văn hoá văn nghệ Việt Nam
dưới chế độ cộng sản, được Hà Xuân Trường so sánh với lập thuyết của
Mao: "Chúng ta chỉ cần nghiên cứu Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943,
báo cáo Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam năm 1948 của đồng chí Trường
Chinh, và so sánh những văn kiện đó với phần "Văn hóa dân chủ mới" và
"Tọa đàm văn nghệ ở Diên An" của Mao Trạch Đông thì rõ ràng khác nhau
lắm, khác từ gốc, khác từ mục tiêu đến phương pháp nhận thức". (Hà Xuân Trường, bđd, trang 46).
Như vậy, Trường
Chinh là người được Hồ Chí Minh giao cho trọng trách khai thảo đường lối
văn học mác-xít của đảng cộng sản Việt Nam. Trường Chinh chính là người
khai sinh và chỉ đạo chính sách văn hoá văn nghệ kháng chiến. Tố Hữu, trách nhiệm phần lãnh đạo văn nghệ:
"Công tác văn hoá
- văn nghệ lúc bấy giờ nằm trong sự chỉ đạo của Tiểu ban tuyên truyền
do anh Trường Chinh đứng đầu. Anh Tố Hữu lúc này được Trung Ương giao
trực tiếp tổ chức, chỉ đạo công tác văn nghệ" (Hà Xuân Trường, bđd,
trang 41).
Vai trò của Trường Chinh trong giai đoạn đầu cách mạng được xác định như sau: "1943,
ông đã chỉ đạo việc thành lập hội văn hoá cứu quốc-tổ chức văn nghệ
cách mạng đầu tiên ở Việt Nam, và là người soạn thảo "Đề cương văn hoá
Việt Nam" (Nguyễn Hoành Khung, Từ điển Văn Học).
Bản Đề cương văn hoá Việt Nam
Bản Đề Cương Văn Hoá Việt Nam có 5 phần chính:
1- Cách đặt vấn đề.
2- Phân đoạn văn hoá VN.
3- Những nguy cơ văn hoá dưới ách phát- xít Nhật Pháp.
4- Xác định văn hoá cách mạng VN.
5- Nhiệm vụ của các nhà văn hoá mác-xít VN.
[in trong Tiên Phong số 1, ra ngày 10/11/45, và in lại trong Sưu tập trọn bộ Tiên Phong 1945-1946 của Lại Nguyên Ân, nxb Hội Nhà Văn, 1996]
Phần đầu, Trường Chinh giới hạn lãnh vực của văn hoá: "Văn hoá bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật". Và xác định sự lãnh đạo của đảng:"đảng tiên phong phải lãnh đạo văn hoá tiên phong" .
Phần hai, phân chia văn hoá VN làm ba giai đoạn: từ Quang Trung trở về trước "phong kiến", "nô lệ", "phụ thuộc vào văn hoá Tàu"; từ Quang Trung đến thời Pháp thuộc "phong kiến, tiểu tư sản"; từ Pháp thuộc đến1943: "phong kiến, tư bản, thuộc địa".
Phần ba, tác giả vạch rõ "những thủ đoạn phát-xít trói buộc văn hoá và giết chết văn hoá Việt Nam".
Phần bốn, ông đặt hai tiêu đề chính:
- "Cách mạng văn hoá muốn hoàn thành phải do đảng C.S.Đ.D. lãnh đạo"
- Và "Nền văn hoá mà cuộc cách mạng văn hoá Đông Dương phải thực hiện sẽ là văn hoá xã hội chủ nghiã".
Và phần năm, xác định "nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hoá mác xít Đ.D và nhất là những nhà văn hoá mác xít V.N", qua hai công việc chính phải làm:
a/ Tranh đấu
về học thuật tư tưởng (đánh tan những quan niệm sai lầm của triết học
Âu, Á có ít nhiều ảnh hưởng tai hại ở ta: triết học Khổng, Mạnh,
Đê-các-tơ (Descartes), Béc-son (Bergson), Căng (Kant), Nít-sờ
(Nietzsche), v.v...; làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử thắng.
b/ tranh đấu
về tông phái văn nghệ (chống chủ nghiã cổ điển, chủ nghiã lãng mạn, chủ
nghiã tự nhiên, chủ nghiã tượng trưng v.v... làm cho xu hướng tả thực xã
hội chủ nghiã thắng).
Đây là văn bản chính thức của đảng cộng sản, xác định đường lối văn hoá văn nghệ mác-xít. Văn bản này là đầu mối trách
nhiệm tình trạng suy đồi của văn hoá văn nghệ Việt Nam: bắt buộc sáng
tác và phê bình phải theo con đường duy nhất là tuyên truyền và phục vụ
sự lãnh đạo độc tôn của đảng cộng sản. Triệt hạ những đường hướng tư
tưởng khác. Triệt hạ những tài năng có tư tưởng tự do.
Nguyễn Hữu Đang
Qua hoạt động
chính trị và ngòi bút, Nguyễn Hữu Đang (1913-2007) được xác định như một
nhà chính trị và văn hoá: Theo cách mạng từ những buổi đầu, có óc tổ
chức và tài hùng biện, Nguyễn Hữu Đang được coi là "cánh tay phải" của
Hồ Chí Minh.
Năm 1929, Nguyễn
Hữu Đang gia nhập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội. Hoạt động
đắc lực trong Hội truyền bá quốc ngữ từ năm 1938. Từ 1937 đến 39, làm
báo cùng với Đặng Xuân Khu (tức Trường Chinh) và Trần Huy Liệu. 1943:
Tham gia đảng Cộng sản Đông dương, liên lạc mật thiết với Trường Chinh
(Tổng bí thư) và thành ủy Hà Nội, nhưng chưa được kết nạp. 1943-46: Cùng
Trường Chinh sáng lập và lãnh đạo Hội Văn hóa cứu quốc. Tổ chức ngày
tuyên ngôn độc lập 2/9/1945. Tham gia Chính phủ lâm thời, làm thứ trưởng
Bộ truyên truyền, rồi Bộ thanh niên, Chủ tịch uỷ ban vận động mặt trận
văn hoá. Tổ chức Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ nhất tại Hà Nội, "Khai mạc Đại hội văn hoá toàn quốc lần thứ nhất vào chiều 24/11/1946 có Bác Hồ đến nói chuyện" (Hà Xuân Trường, bđd, trang 40).
Vị trí và uy tín của Nguyễn Hữu Đang, được Nguyễn Huy Tưởng ghi lại trong nhật ký như sau:
"Anh Nguyễn
Hữu Đang xuống làm việc cho Truyền bá quốc ngữ từ hơn hai tháng nay. Anh
xin nghỉ ở sở Tài chính [Hà Nội] xuống đây làm việc nghĩa. Đức hi sinh
của anh thực không thể nào tả được. Nhờ anh mà phong trào quốc ngữ ở Hải
Phòng chết đi nay sống lại. Anh như một ông tướng khuyến khích được cả
một đạo quân chiến bại". (Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng ngày 16/6/1942).
Nguyễn Huy Tưởng ghi: "Chuyện
Tham Ý phục các cán bộ Việt Minh. (...) Phục Đang. Hỏi thầm một người:
Có phải là cánh tay phải của Cụ Hồ không? Băn khoăn không biết bây giờ
Đang về khu này thì phải vào chức gì cho xứng? Theo ý anh tham biện ấy,
thì ở đây không có một chức gì cao hơn để Đang làm cả, vì Đang trên cả
ủy ban kháng chiến". (Ngày 15/11/1947)
Năm 1947, Nguyễn Hữu Đang mới được chính thức kết nạp vào Đảng.
Năm 1948, ông rời mọi sinh hoạt của Đảng, lui về Thanh Hoá.
Từ vị trí được coi là "cánh tay phải của cụ Hồ", "trên cả ủy ban kháng chiến", tại sao năm 1948, Nguyễn Hữu Đang rút lui về Thanh Hoá?
Sự chia tay xẩy ra trong Đại hội
văn hoá toàn quốc lần thứ hai (khai mạc ngày 15/7/48 ở Việt Bắc). Trong
hội nghị này Trường Chinh đọc bản báo cáo nổi tiếng Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam.
Hoàng Cầm kể về đại hội này: "Vào
khoảng tháng 7 năm 48, có Đại hội văn hóa toàn quốc do ông Trường Chinh
đề xướng và làm chủ tịch. Hội nghị văn hóa toàn quốc được tổ chức để
động viên và hướng dẫn trí thức và văn nghệ sĩ chuẩn bị đi sâu vào cuộc
kháng chiến. (...) Tức là lúc bấy giờ hội nghị mới đề ra Văn nghệ kháng
chiến. (...) Tôi cũng được mời, nhưng không đi dự vì bị ốm, trong hội
nghị có mặt anh Nguyễn Hữu Đang. Sau hội nghị đó, không hiểu vì lý do gì thì anh Đang không làm công tác kháng chiến nữa,anh
về Thanh Hóa, ở nhà người bạn là anh Trần Thiếu Bảo, giám đốc nhà xuất
bản Minh Đức(...) Anh Đang không làm công việc gì của nhà nước cả, tôi
cũng không hiểu rõ nguyên nhân. Mãi sau này, hòa bình rồi, về Hà Nội tôi
cũng chỉ nghe phong phanh anh em bàn tán thôi chứ hỏi anh Đang thì anh
ấy cũng không nói, là hình như trong Hội nghị văn hóa toàn quốc, anh
Đang có mâu thuẫn về đường lối văn nghệ, văn hóa với ông Trường Chinh.
Do mâu thuẫn không giải quyết được, cho nên anh Đang không làm việc nữa,
anh nghỉ. Anh về Thanh Hóa". (Hoàng Cầm trả lời phỏng vấn RFI)
[Xin nhắc lại: tháng 7/48 có hai đại hội: Đại hội Văn hoá toàn quốc lần thứ hai tại Việt Bắc, khai mạc ngày 15/8/48, do Trường Chinh chủ trì và đọc bản bán cáo Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam, Nguyễn Hữu Đang có tham dự. Hội nghị Văn nghệ toàn
quốc lần thứ nhất, cũng họp tại Việt Bắc, từ 23 đến 25/7/48, chính thức
thành lập Hội Văn Nghệ Việt Nam, Nguyễn Hữu Đang không tham dự].
Nguyễn
Hữu Đang, vì không đồng ý với Trường Chinh trong Hội nghị Văn hoá toàn
quốc, nên đã bỏ về Thanh Hoá, không tham dự đời sống văn hoá chính trị
nữa.
Mà không đồng ý thì chắc chắn là về bản báo cáo của Trường Chinh.
Vậy bản báo cáo mà Trường Chinh đọc tại hội nghị này có nội dung ra sao?
Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam
Bản báo cáo Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam được
nhà xuất bản Sự thật in thành sách (Chúng tôi không có văn bản này).
Nhưng Phần VII, được in trên báo Văn Nghệ số 6 tháng 11/48, dưới tiêu
đề "Mấy vấn đề thắc mắc trong văn học nghệ thuật" và sau này in lại trong cuốn Cách Mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập II, đổi tên thành "Mấy vấn đề cụ thể trong văn học và nghệ thuật".
Bài "Mấy vấn đề thắc mắc trong văn học nghệ thuật" đặt trọng tâm trả lời những thắc mắc của người làm văn học nghệ thuật, trên một số điểm:
1- Xác định nghệ thuật và tuyên truyền:
"Nghệ thuật
phục vụ cho mục đích chính nghĩa là nghệ thuật hợp chân lý. Nghệ thuật
phục vụ cho mục đích phi nghĩa là nghệ thuật phản chân lý".
"Tuyên truyền
của phe xâm lược, phản động là tuyên truyền phản chân lý. Tuyên truyền
của phe cách mạng là tuyên truyền chân thật, phù hợp với chân lý rõ
ràng".
2- Khẳng định khuynh hướng sáng tác: Hiện thực xã hội chủ nghĩa.
3- Chỉ ra đường lối "phê bình đúng nguyên tắc","chú trọng đả kích tư tưởng, văn học, nghệ thuật phản động của địch".
4- Cho rằng "Quần
chúng là nhà phê bình nghệ thuật sành hơn ai hết, chính vì quần chúng
gồm nhiều tai, mắt, óc khôn và có cảm giác chung đấu lại. Không một nhà
phê bình nào sánh được với quần chúng về mặt đó".
5- Chỉ ra 4 điều cho nhà văn noi theo để "làm sao cho sáng tác văn nghệ được tốt".
6- Xác định: "Đối tượng sáng tác văn nghệ của ta là nhân dân"."Sáng tác văn nghệ có cả một nguồn cổ vũ mạnh mẽ là phong trào thi đua".
Tóm lại, Trường Chinh đã vạch sẵn con đường văn học nghệ thuật xã hội chủ nghiã.
Con đường này,
gồm những yếu tố chính: Văn nghệ phục vụ cách mạng. Văn nghệ tuyên
truyền. Văn nghệ thi đua. Hiện thực xã hội chủ nghĩa. Đả kích tư tưởng
phản động của địch. Sáng tác cho nhân dân. Nhân dân làm chủ phê bình.
Đường lối văn nghệ tuyên truyền cách mạng này đã tạo ra nhiều lớp người viết với những sáng tác mà nhạc sĩ Tô Hải, trong cuốn Hồi ký của một thằng hèn (Tủ sách Tiếng Quê Hương, Virginia, Hoa Kỳ, 2009) đã gọi là thời kỳ "bồi bút, bồi nhạc". Cao điểm là cuốn Bọn Nhân văn giai phẩm trước toà án dư luận mà chúng ta đã biết. Và ảnh hưởng của nó còn kéo dài tới ngày nay.
Là người làm văn hoá, Nguyễn Hữu Đang bỏ đi từ năm 1948 là phải.
Sự rời đảng của Nguyễn Hữu Đang không chỉ vì bất đồng ý kiến về văn hoá mà còn cả những bất đồng về chính trị nữa.
Nhưng trong kháng
chiến không chỉ có một Nguyễn Hữu Đang chống lại đường lối văn hoá văn
nghệ của đảng Cộng sản, mà còn có những tiếng nói khác, như Nguyễn Mạnh
Tường:
Hoàng Trung Thông kể: "Năm 1949, Đại hội văn nghệ Khu Bốn được tổ chức và Chi hội văn nghệ Liên khu Bốn được thành lập (...)
"Cuộc tranh
đấu tư tưởng duy nhất ở Liên Khu Bốn trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp là cuộc đấu tranh với một số quan điểm của Nguyễn Mạnh Tường. Trong
một cuộc nói chuyện Nguyễn Mạnh Tường cho rằng văn nghệ ta như một cái
chuồng nhốt các văn nghệ sĩ trong đó". (Hoàng Trung Thông, bđd, trang 181)
Như Trương Tửu:
"Đồng chí
Nguyễn Chí Thanh - bấy giờ là bí thư Đảng bộ Liên Khu Bốn, đã có ý kiến
về những luận điểm tơ-rốt-kít của Trương Tửu trong buổi lễ kỷ niệm ngày
thành lập đảng Cộng Sản Đông Dương. Trong cuộc đấu tranh chính trị năm
1952, Trương Tửu bị đưa ra phê phán gay gắt." (Hoàng Trung Thông, bđd, trang 187).
Như Tô Ngọc Vân:
"Anh Tô Ngọc
Vân tỏ ý không đồng tình về sự phân tích của đồng chí Trường Chinh về
chủ nghiã "quy-bít". Nhưng anh Trường Chinh không trực tiếp trả lời, và
tờ Sự thật không lên tiếng, để tránh gây các mặc cảm không cần thiết đối
với anh chị em văn nghệ đang đến với Đảng, và tự giác chấp nhận sự lãnh
đạo của Đảng. Bài viết của tôi thảo luận với anh Tô Ngọc Vân, ký tên Lê
Trọng Lâm, lại đăng trên tạp chí Văn nghệ" (Hà Xuân Trường, bđd, trang 42-43).
Thái độ của Trường Chinh đối với những người chống đối rất khôn khéo: ông không ra mặt trả lời và khuyên cấp dưới "cần
phải đấu tranh tư tưởng nhưng đừng nặng lời quá; vì lúc bấy giờ chúng
ta đang cần phải đoàn kết để kháng chiến chống Pháp, mặc dầu đoàn kết
không có nghiã là thủ tiêu đấu tranh" (Hà Xuân Trường, bđd, trang 42-43).
Tóm lại, đã có những người làm văn hoá văn nghệ bắt đầu thắc mắc về đường lối văn hoá văn nghệ của đảng Cộng sản ngay trong kháng chiến. Nhữngthắc mắc này càng lớn mạnh khi hòa bình lập lại sau 1954, kết hợp thành sự phản kháng toàn bộ trong phong trào NVGP.
Sự trở lại của Nguyễn Hữu Đang
Nguyễn Hữu Đang, vì bất đồng ý kiến với Trường Chinh, bỏ về Thanh Hoá, cộng tác với nhà xuất bản Minh Đức từ 1948.
Nhưng tại sao năm 1954, ông trở lại hoạt động? Việc gọi ông trở lại có thể từ lệnh của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hoàng Cầm kể: "Đến
khi hòa bình lập lại, năm 1954, tôi cũng chỉ được nghe kể lại chứ không
được chứng kiến, là như sau: Ông Trường Chinh có hỏi ông Tố Hữu: Anh
Đang anh ấy đã không làm việc gì từ lâu rồi, từ mấy năm nay, thì bây giờ
hòa bình thắng lợi rồi, ta phải mời anh ấy ra làm việc chứ. Thế là anh
Tố Hữu cũng nghe theo và mời anh Đang ở Thanh Hóa ra"(Hoàng Cầm trả lời phỏng vấn RFI).
Theo hồi ký Nguyễn Huy Tưởng, chính ông là người được
cử vào Thanh Hoá mời Nguyễn Hữu Đang. Và theo Hoàng Cầm: Khi Nguyễn Hữu
Đang ra đến Hà Nội, Tố Hữu đề nghị chức Giám đốc sở Văn hóa Thông tin
Hà Nội, nhưng Nguyễn Hữu Đang từ chối, ngỏ ý muốn làm báo Văn Nghệ, Tố
Hữu đành phải bằng lòng.
Những thắc mắc
Hoàng Cầm kể:"Anh
Đang về báo Văn Nghệ, nhưng anh Đang là người đặc biệt có tài tổ chức:
trong kháng chiến anh ấy đã tổ chức thanh niên xung phong, tổ chức mặt
trận bình dân học vụ, sau đó lại là tổ chức hội nghị văn hóa toàn
quốc.(...) Vì anh ấy có tài tổ chức cho nên anh ấy tổ chức ngay hai cuộc
phê bình trong văn học:
Thứ nhất là cuộc
phê bình tác phẩm Vượt Côn Đảo của Phùng Quán (...) Và tổ chức một lớp
học tập chính trị, đầu đề tài liệu học tập là "Những tài liệu của Mác,
Lê- nin, Staline nói về vấn đề văn nghệ". (Hoàng Cầm trả lời phỏng vấn RFI).
Về không khí của lớp học này, Hoàng Cầm nhớ lại:
"Đầu đề tài liệu
học tập là "Những tài liệu của Mác, Lê- nin, Staline nói về vấn đề văn
nghệ". Buổi sáng học, buổi chiều làm việc cơ quan. Tôi nhớ học 18 ngày.
Nhưng từ hôm mở lớp đến độ ngày thứ năm thì có cái mục gọi là liên hệ
thực tế. Tất cả các văn nghệ sĩ ở các tỉnh hoặc đi tập kết về Hà Nội, thì họ đều nêu lên những thắc mắc, mà phải nói là những thắc mắc ghê gớmvề vấn đề văn nghệ và lãnh đạo văn nghệ. Nó gần như là một cuộc tố khổ: các văn nghệ sĩ đều nói ra những thắc mắc về việc lãnh đạo địa phương, cả lãnh đạo trung ương nữa, đối với văn nghệ (...) Toàn là những thắc mắc mà anh em lôi ra từ thực tế trong kháng chiến và thực tế trong hòa bình lập lại"(Hoàng Cầm trả lời phỏng vấn RFI).
Georges Boudarel, đặt trọng tâm trên hai chữ thắc mắc này, theo ông đây là một thứ mây mù của ý thức, một kỹ xảo nói mà như không nói, một nghệ thuật không gọi sự vật theo tên của nó.
Hai chữ thắc mắc không
thể dịch sang tiếng Pháp, Boudarel cho là trung tâm của vấn đề: Trong
một nước mà cuộc đấu tranh chống thực dân, giành độc lập, bảo vệ truyền
thống dân tộc, được phất lên dưới ngọn cờ của chủ nghiã Mác-Lê-Mao, như
một nghịch lý, thì thắc mắc là đứa con lai lạ lùng, sinh ra từ cuộc tình vừa nóng bỏng vừa tương phản vừa không thể thú nhận được giữaquốc tế vô sản và lòng ái quốc cực đoan.
Chủ nghiã cộng
sản mà người ta du nhập vào đã thủ tiêu nhanh chóng mọi hình thức tự do
phát biểu của xã hội dân sự kể cả những người ủng hộ nhiệt thành. Năm
1950, khi chủ nghiã Mao ào ạt tràn vào, với những đợt chỉnh huấn, phát
hiện, tố giác, kiểm thảo, tự kiểm thảo... mang lại những hậu quả tai
hại.
Nếu năm 1946, hầu
hết mọi thành phần dân tộc đều đi theo kháng chiến chống Pháp, thì tới
1950, nhiều trí thức văn nghệ sĩ nổi tiếng trong đó có Phạm Duy, Vũ
Hoàng Chương... đã không thể chịu được, họ phải quay "về thành".
Sự phản kháng của
họ mang tính chất bi đát, bởi phải chọn lựa giữa hai con đường: hoặc
tiếp tục chống thực dân Pháp thì phải theo chủ nghiã cộng sản Mao; hoặc
chống cộng sản Mao thì phải vào vùng Pháp đóng. Bị xâu xé giữa, một bên
là, lòng yêu nước thúc đẩy họ phải chấp nhận tất cả để chiếm lại tổ quốc
đã mất và một bên là cái vốn văn hoá Tây phương thúc đẩy họ đòi hỏi một
thứ tự do không thể có được với đảng Cộng sản. Người trí thức, những
năm tháng ấy, vừa như sống một bản hùng ca, lại vừa chịu một bi kịch gậm
nhấm từ bên trong.
Đại đa số thành phần dân tộc, trong đó có người trí thức, tìm cách hoà mình với đời sống mới, từ đó nẩy sinh những thắc mắc: Nền dân chủ cộng hoà, do Hồ Chí Minh tạo dựng, có mang lại độc lập thật sự cho nước Việt không? Những người có thắc mắc trong lòng muốn tin vào lãnh đạo của họ nhưng trong thâm tâm vẫn không thể nào tin được. Chỉ biết là mình có những thắc mắckhông thể nói ra. Cái
hình thức đối lập bị dồn nén, sự phản kháng bị chôn vùi, chỉ được nói
thầm, nói một nửa, đọc giữa hai hàng chữ, đoán ngầm những ngụ ý... trở
thành một phần của đời sống Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Và những vấn
đề mở ra từ năm 1956, với NVGP, vẫn còn đúng với hôm nay. (Theo phân
tích của Boudarel, trong cuốn THĐNTĐVN, từ trang 9 đến 20).
Những thắc mắc ấy tạm ngủ yên trong thời chiến, nhưng bừng lên khi hoà bình lập lại.
Và trong lớp học
18 ngày, Nguyễn Hữu Đang là người đã thấy rõ tình thế, mạnh bạo đứng
lên, đặt với lãnh đạo những câu hỏi cần thiết.
Lớp học 18 ngày
Về lớp học này, Người Quan Sát tường thuật trên Nhân Văn số 1 (20/9/56), như sau:
"Trong tháng Tám vừa qua, Hội Văn nghệ đã tổ chức tại thủ đô một đợt học tập mười tám ngày nhằm mục đích nâng cao trình độ lý luận văn nghệ của anh chị em công tác trong ngành. [...] Ý định của Thường vụ Hội là như vậy, nhưng trên ba trăm người tham gia học tập đã dần dần từ thảo luận nguyên tắc sáng tác chuyển sang kiểm điểm phong trào, đem lý luận đối chiếu với thực tế, liên hệ bản thân cũng có, nhưng chủ yếu là liên hệ lãnh đạo.
Mà phê bình lãnh
đạo ngày nay, nhờ có ảnh hưởng của Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên xô,
thường là rất mạnh bạo chứ không còn e dè, quanh co như cái thời phục
tùng mù quáng hoặc có thắc mắc thì trước mặt cả nể, kể lể sau lưng nữa. Anh chị em đã phát huy tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, đem hết nhiệt tình cách mạng ra mà nói thẳng, nói thật, nói hết.
Thế là việc học tập trở nên sôi nổi, nhất là ở bước cuối thì người ta
có thể nói đến một không khí bừng bừng đấu tranh, làm cho chẳng những
giới văn nghệ như cựa mình một cái thực mạnh mà nhiều ngành khác ở thủ
đô cũng như thấy rung động lây.
Qua những sự việc mà
anh chị em phát hiện cũng như qua những ý nghĩ, tình cảm mà anh chị em
bộc lộ, chúng ta đã thấy phong trào văn nghệ trong sáu bảy năm nay đã có
những sai lầm nghiêm trọng về mặt lãnh đạo. Quyền tự do tư tưởng, tự do
ngôn luận, tự do sáng tác đã bị vi phạm một cách có hệ thống". (Trích
bài "Chuẩn bị Đại Hội Văn nghệ Toàn quốc - Một đợt học tập và đấu tranh
của giới văn nghệ", Nhân Văn số 1, ra ngày 20/9/56).
Bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang đọc ngày 26/8/56 chỉ trích đường lối văn nghệ của Đảng trên ba điểm chính:
- Đường lối lãnh đạo văn nghệ của Trung ương Đảng hẹp hòi, gò bó, do nhận thức không đúng về mối quan hệ giữa chính trị và văn nghệ.
- Trung ương Đảng chưa có một chính sách cụ thể về văn nghệ.
- Bộ phận lãnh đạo văn nghệ không hợp lý, không trong sạch, có tính bè phái, nguy hiểm.
Nguyễn Hữu Đang được "cử toạ hoan hô nhiệt liệt". Qua lời tổng kết của Nguyễn Đình Thi và lời tự kiểm thảo của Tố Hữu, bộ phận lãnh đạo văn nghệ đã phải "thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sẽ sửa chữa".
Vai trò lãnh đạo
phong trào NVGP của Nguyễn Hữu Đang đã rõ: Dựa vào những biến động ở
Liên xô và Trung quốc, vào sự đồng thuận của đông đảo trí thức văn nghệ
sĩ, vào thế yếu của lãnh đạo sau thất bại Cải cách ruộng đất, Nguyễn Hữu
Đang, với tài hùng biện nổi tiếng, đứng ra cổ động trí thức, hướng dẫn
phong trào và chủ trương báo Nhân Văn, với ý định cải tổ lại nền chính
trị của miền Bắc Việt Nam.
Ba mươi chín năm sau, Nguyễn Hữu Đang tuyên bố: "Thực
chất phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, nếu đứng về mặt chính trị, thì đó
là một cuộc đấu tranh của một số người trí thức, văn nghệ sĩ và một số
đảng viên về chính trị nữa, là chống -không phải chống Đảng Cộng Sản
đâu, mà đấy là chống- cái chủ nghĩa Staline và chống chủ nghĩa Mao Trạch
Ðông. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Staline và chủ nghĩa Mao Trạch Đông
đưa đến nhiều hiện tượng -nói là chuyên chính thì chưa đủ- phải nói là
cực quyền toàn trị, nó gay gắt ghê lắm. Nó gay gắt ghê lắm! Ðảng Cộng
Sản đã phạm sai lầm trong Cải cách ruộng đất, rồi thì Chỉnh huấn, Chấn
chỉnh tổ chức, Ðăng ký hộ khẩu v.v... Tất cả những cái đó đều do những
cái quá tả, từ phương Bắc nó xâm nhập vào, chứ không phải chờ đến bây
giờ nó mới đem cái tả khuynh hữu trí vào nước Việt Nam. Cái thời mà cụ
Hồ chưa về nước và ông Trần Phú làm Tổng bí thư, thì làm cái cuộc gọi là
Xô Viết Nghệ Tĩnh, đưa ra cái khẩu hiện rất quái gở tức là "Trí, phú,
địa, hào đánh tận gốc, trốc tận rễ". Nó quá tả như thế thì còn làm sao
giành được độc lập! Như thế là chia rẽ dân tộc. Lúc bấy giờ chúng tôi
cũng cảnh giác, chúng tôi theo đảng Cộng sản nhưng chống chủ nghĩa
Staline và chống chủ nghĩa Mao Trạch Ðông. Nhưng rất tiếc là lúc bấy
giờ, thế lực của Liên Xô rất mạnh, áp lực của Trung Quốc cũng rất mạnh
cho nên cuộc đối thoại ấy không có kết quả" (Nguyễn Hữu Đang, trả lời phỏng vấn RFI tháng 9/1995).
Từ cuối tháng 8 đến cuối tháng 11 năm 1956: không những Giai phẩm mùa xuân được in lại mà còn ra tiếp 4 số nữa, tổng cộng là 5 số Giai phẩm và 5 số Nhân Văn. Ngoài ra, còn có 1 số Đất Mới của sinh viên và 10 số Trăm Hoacủa Nguyễn Bính (từ tháng 10 đến tháng 12/56), thêm báo Nói Thật của Hoàng Công Khanh và Tập san phê bình,
xuất hiện tới cuối năm 1957. Cuối tháng 11/56, trên các báo Nhân Văn và
Giai Phẩm, nhà xuất bản Minh Đức còn quảng cáo mời độc giả tìm đọc Tự do diễn đàn và Sáng tạo (chuyên về điện ảnh kịch trường). Nhưng rút cục Tự do diễn đàn in xong bị cấm. Nhưng Văn, báo chính thức của Hội Nhà Văn, sang năm 57 vẫn còn in bài của những người trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, đến số 36 (10/1/58) Văn mới bị đình bản vì đăng bài Ông Năm Chuột của Phan Khôi.
Cuộc cách mạng mùa thu của tư tưởng đã xẩy ra.
© Copyright Thụy Khuê 2004 - 2009
No comments:
Post a Comment