BÓNG MA VIỆT NAM
TRONG SÁCH LƯỢC “NATION BUILDING” CỦA HOA
KỲ
Lâm
Lễ Trinh
Đệ
nhị thế chiến vừa chấm dứt năm 1945
thì Hoa kỳ liền bắt tay dân chủ hóa – và
đã thành
công – ba quốc gia thù địch cũ: Đức, Ý và Nhựt bằng
một chính sách chiếm đóng quân sự theo giai
đoạn, viện trợ kinh tế và đặc
biệt, thúc đẩy các tân lãnh tụ thay đổi
cơ chế trong xứ. Sau
Chiến tranh lạnh, sách lược “dựng
nước, nation building” này đã được thử áp
dụng, tại Somalie, Haiti, Bosnie, Kosovo
và Afghanistan. Hoa Thịnh Đốn
và
đồng minh tìm cách giúp tái lập các
hệ thống kinh
tài và chính trị của những quốc gia bị nội
chiến tàn phá. Hoa kỳ giữ vai
trò
lãnh đạo vì cung cấp phần lớn nhân sự, võ
khí và tổn phí.
Cho
đến nay, kết quả khá khiêm tốn: Việc tái
thiết Afghanistan không vượt quá ranh giới thủ
đô Kaboul; tại Phi châu, quân đội Mỹ rút khỏi
Somalie năm 1993 khi dân chúng địa phương bắt
đầu chống đối. Năm sau,
tại Rwanda, Hoa kỳ đẩy
gánh
nặng qua cho các lực lượng quốc tế. Mỹ đã do dự can thiệp với Âu châu
vào
Bosnie và lúc đầu, không mấy sốt sắng tham
chiến ở Kosovo. Tại đây, dân chủ
vẫn chưa ổn định và quyền của
thiểu số Serbe chưa được công nhận
dứt khoát.
Một
trung tâm nghiên cứu danh tiếng về chiến
lược Nation Building
là Rand
Corporation, do
Không lực Hoa kỳ thành lập năm 1948 và nay
đã
trở thành một tổ chức độc lập.
Năm 2003, Rand cho phát hành tại Santa Monica,
Californie,
quyển sách 244 trang “America’s
Role In Nation Building From Germany to Iraq” mà Đại
sứ đặïc
nhiệm của Tổng
thống George W.Bush tại Iraq là Paul Bremer coi
như
một cẩm nang gối đầu.
Theo tài liệu vừa kể, trường hợp
của Đức và Nhựt chứng minh “dân chủ có
thể chuyển nhượng, democracy is transferable” và “trong
một số hoàn cảnh, nên khuyến khích các
xã hội
tự thay đổi trường cửu”. Trên
phương diện tái dựng nước sau chiến
tranh, hai thí nghiệm sáng giá nêu
trên thường
được đề cao. Liên Hiệp Quốc đã can
thiệp 55 lần trên thế giới từ năm 1945
để vãn hồi hòa bình nhưng không thể hiện
được dân chủ theo mong ước.
Trong
giai
đoạn Chiến tranh lạnh – như tác
phẩm của Rand nhắc lại – Hoa kỳ và Nga sô,
mỗi bên ủng
hộ một số nước yếu vì lý do địa
lý chính trị. Khi sự ủng hộ
không còn
nữa, các nước ấy tan rã. Từ ngày xã
hội chủ nghĩa sụp đổ ở Âu châu, Hoa
kỳ tự do can thiệp chẳng những để
buộc ngưng bắn hay tái lập nguyên trạng mà
còn
để áp đặt các thay đổi căn bản
trong các xã hội bị chiến tranh hủy hoại.
Là
siêu
cường duy nhất hiện nay trên địa cầu,
gánh trách nhiệm toàn vũ, Mỹ cân nhắc kỹ
các phí
tổn và rủi ro trong sách lược tái dựng
nước. Năm 2000, ứng cử viên Tổng thống George W.
Bush đả kích mạnh chính quyền Clinton can thiệâp vào quá
nhiều quốc gia.
Tuy nhiên, vừa đắc cử, ông bị lôi cuốn vào
mê hồn trận Afghanistan và hiện sa
lầy
tại Iraq.
Những thách
đố và khó khăn tại Afghanistan.
Ngày
5.12.2001, để thay thế chế độ Hồi giáo
quá khích Taliban vừa bị đẩy lui, các phe
phái
quốc gia A Phú Hãn nhóm tại Bonn, Đức quốc,
thỏa thuận thành lập một chính phủ tạm
thời (do Đại hộâi Kỳ lão Loya Jirga chỉ
định) và chấp nhận sự có mặt trong xứ
của một lực lượng bão vệ quốc
tế.
Hai năm sau, chính quyền của Tổng
thống Hamid Karzai vẫn bị các sứ quân địa
phương chống đối. Đặc biệt,
tại Hérat, thành phố lớn thứ ba và là thủ
phủ của một tỉnh 2 triệu dân, giáp ranh với
Iran và Turkménistan, thống đốc Ismael Khan, lãnh
tụ
Moudjahidin từ năm 1979, tỏ ra ương ngạnh.
Đương sự
có quân đội riêng, nuôi dưỡng
bằng
tiền buôn bán nha phiến. Tự xưng là Tiểu
vương (Émir) của vùng Đông Afghanistan tự trị,
Ismael Khan liên lạc thẳng với Iran, tìm cách
thôn tính
năm tỉnh lân cận và bổ nhiệm trực tiếp
các công chức.
Hoa
Thịnh Đốn không dám mạnh tay vì Ismael Khan được
dân chúng địa phương và giáo phẩm Hồi
Oulémas
xem như một anh hùng kháng chiến thời Taliban.
Hérat
hiện là một trong số ít vùng an
ninh
nhất của A Phú Hãn. Để tạo uy tín cá
nhân trong
xứ, Ismael Khan tố Tổng thống
Hamid Karzai là bù nhìn của Hoa kỳ. Y khai
thác triệt
để sự tranh chấp giữa các sắc dân
thiểu số Chiite, Pachtounes, Tadjicks, Turkic, Dari, Panchiris,
Kuchis, Uzbeks, Hazaras..., nhưng mặt khác– để trấn
an Hoa Thịnh Đốn - , y cũng khôn khéo tuyên bố
chống lại phong trào Taliban tái sinh, hứa (trên
đầu môi) công nhận chính phủ Kabul, xét lại
đề nghị không kiêm nhiệm trong tương lai hai
chức vụ hành chính và quân sự, mềm dẻo chấp
nhận mẫu tiền tệ do chính phủ trung
ương phát hành vào tháng 10.2002, bồi
hoàn cho ngân sách
quốc gia 20 triệu thuế quan.v.v...
Lịch
dân chủ hóa A Phú Hãn dự trù việc
soạn thảo
một Hiến pháp cho toàn xứ vào tháng chạp
2003 và
tổ chức tổng tuyển cử tháng sáu 2004. Mọi
việc không tiến triển suông sẻ.
Sau ba tuần hội họp để tu chính bản dự
thảo Hiến pháp hầu tăng quyền cho Tổng
thống, công nhận nữ quyền, chia ghế tại
Quốc hội cho các dân thiểu số, tự do hóa kinh
tế..., 500 đại biểu hoãn nhóm vì bất
đồng ý kiến. Hiến pháp sẽ
được thông qua nhưng vấn đề thống
nhất vẫn còn nguyên. Các
lãnh chúa
địa phương liên kết để đưa
người tranh cử với Tổng thống
đương nhiệm Hamid Karzai. Trong khi đó, nhóm
khủng bố của Bin Laden còn ẩn náu và hoạt
động mạnh trong mật khu nằm giữa A Phú Hãn
và lân bang Pakistan.
Tình trạng bấp bênh nêu trên
khiến cho các
nước viện trợ e dè đổ thêm lính và tiền
vào Afghanistan. Nhiều phân tích gia thời
cuộc
tỏ ra bi quan và đặt nghi vấn về chương trình dựng
nước của Hoa Kỳ. Tòa Bạch ốc hiện
dồn nỗ lực vào Iraq đang khủng hoảng trầm
trọng.
Chiến Tranh Iraq Là
Một Việt Nam Thứ Hai
?
Cuộc chiến vũ bảo chống Iraq không
kéo dài quá 26 ngày. Trái với lời tiên
đoán của
Phó Tổng thống Cheney rằng dân chúng Iraq sẽ nghinh đón Quân đội
Mỹ như ân
nhân giải phóng, những vụ tấn công du kích
địa phương không ngớt gia tăng sau đó. Hoa
Kỳ và đồng minh bị xem như
kẻ thù xâm lược. Tổng
số quân chiếm đóng này là 155.000
(trong đó có 130.000 lính Mỹ), đến từ 34
nước, không được Liên Hiệp Quốc ủy
quyền.
Saddam Hussein bị bắt sống đêm
13.12.2003.
Điều này không làm giảm cường độ
chống đối của các đảng viên Baas. Chỉ
trong tháng chạp mà thôi, số lính Mỹ
tử thương tăng lên đến 38. Chính
phủ George W.Bush buộc phải thay đổi kế
hoạch bằng cách quyết định xúc tiến công tác
soạn thảo một hiến pháp mới, chuẩn bị
trả chủ quyền cho một chính phủ Iraq lâm
thời và chấm dứt sự chiếm đóng dân sự
vào cuối tháng sáu năm nay, trước ngày Bush
ứng
cử tổng thống kỳ hai. Mục phiêu thay
đổi nền kinh tế và cơ chế của Iraq để biến xứ này thành
một quốc gia thế tục, đa dạng và theo
kinh tế thị trường, vì
thế, sẽ gặp khó khăn.
Hoa
Kỳ đang xài nhiều trăm triệu đô trích từ
tài nguyên dầu khí Iraq và ngân khoản
tịch thu của
chính phủ Saddam Hussein, cộng với 3,3
tỷ mỹ kim do công dân Mỹ đóng góp, để hoàn tất năm tổ chức
an ninh cho Iraq: cảnh sát, quân đội, nhân dân
tự
vệ, lính biên phòng và cơ quan bảo vệ
công sở,
không kể các hệ thống tòa án và
khám đường.
85.000 cảnh sát viên được huấn luyện
cấp tốc để che chở thường dân.
Vì nhu
cầu quá lớn nên chính phủ Bush đặc cách cho
phép
thuê một số nhân viên an
ninh do
những công ty tư nhân cung cấp để canh gác
các công
thự và tài sản quốc gia. Thí dụ: Erinys tuyển
6.500 chuyên viên để phòng thủ mỏ dầu; Global Risk
phụ trách bảo vệ các ủy viên trong Hội
đồng chấp chính lâm thời; Vinnell huấn luyện
tân quân đội Iraq; Dyncorp chuyên đào tạo cảnh
sát
viên; và Olive lo an ninh cho các cán bộ
làm việc cho những
đại công ty Hoa kỳ. Chi phí
tái thiết Iraq đòi hỏi nhiều
tỷ đô. Một
phúc
trình của Trung tâm Center for Public Integrity tiết lộ
ngày
30.10.2003 rằng phần đông các công ty được
tham gia vào chương trình là những công ty
đã đóng
góp vào quỹ ứng cử của George W. Bush
cuối năm 2000.
Nhà
văn Mark Twain từng viết: “History doesn’t repeat itself, at
best it rhymes, Lịch sử không tự tái diễn, nhiều
lắm thì lịch sử gieo vần”. Nói
cách
khác, chiến tranh Iraq và chiến tranh
Việt Nam không
hoàn toàn giống nhau
nhưng cũng có một số điểm không mấy khác
biệt.
Trước hết, khác chỗ nào?
Mỹ
can thiệp vào Iraq để kiểm soát nguồn sản
suất dầu khí. Tại VN, để ngăn chận
cộïng sản
và tránh hậu quả Domino. Mặt khác,
quân
đội của Saddam Hussein không thể sánh với Quân
đội Nhân Dân Bắc Việt về tổ chức,
kỷ cương, kinh nghiệm hành quân và tinh thần
chiến đấu. Vì sao? Vì đảng
Baas không ăn sâu vào
quần chúng như
đảng cộng sản VN và không được toàn
khối Á-rập hồi giáo ủng hộ. Hơn nữa,
Hồ Chí Minh vượt xa Saddam Hussein về lãnh đạo
và đặc biệt, Bắc Việt được
sự hỗ trợ nhiệt tình của Nga, Tàu và phe xã
hội chủ nghĩa trên thế giới. Dân
tộc VN không gồm có quá nhiều sắc tộc phức
tạp và không bị tôn giáo chi phối nặng như Iraq. Ngay trước giai đoạn
cộng sản nắm quyền, xã hội VN đã từng
là một xã hội cởi mở, có kinh nghiệm về dân
chủ và nhân quyền trong khi
các chế độ độc tài tiếp nối nhau cai
trị Iraq nhiều thế kỷ. Xứ này thiếu giai
cấp trung lưu và là thí trường dai
dẳng giữa ba sắc dân Sunni, Chiite và Kurde. Hoa Kỳ
bị lôi cuốn vào chiến tranh Đông Dương, thay
thế thực dân Pháp, để rồi, sau 30 năm
đọ sức, tháo chạy khỏi VN. Hoa Kỳ hiện
sa lầy vì hấp tấp đồng
hóa phong trào quốc gia Iraq với khủng bố Hồi giáo Islam
và Al Qaida.
Tình trạng Iraq
ngày nay, tuy nhiên, cũng
có vài điểm nhắc đến thảm cảnh
Việt Nam:
1
– Thanh
minh lý do can thiệp. Năm
1966, TT Johnson tuyên bố: “Nếu chúng ta không chận
bọn
Quỷ Đỏ tại Miền Nam VN, ngày mai chúng sẽ có
mặt ở Hawaii, và tuần tới, chúng sẽ
đến San
Francisco.”
Ngày 26.8.3003, TT Bush xác nhận: “Quân đội
chúng ta
đối đầu khủng bố tại Iraq và Afghanistan và những nơi khác để cho
dân
ta khỏi trực diên sự tàn bạo của khủng
bố tại New
York
hay Saint
Louis
hay Los
Angeles.”
Johnson đã tạo
vụ tàu Việt cộng tấn công tuần dương
hạm Maddox tại Vịnh Bắc Việt đầu tháng
2.1964 để dội bom Hànội. Bush đến nay
vẫn không trưng được bằng chứng Iraq có võ khí tàn
phá tập thể (WMD, weapons
of mass destruction).
2
–
Một cuộc chiến thất nhân tâm. Chiến tranh
Đông Dương, từ 1964 đến 1972, gây sóng gió
qua
ba cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ. Chiến tranh
chống
khủng bố có thể kéo dài ba thập niên, theo
giới
thông thạo. Năm 2004, đề tài này sẽ
được cử tri Hoa Kỳ chú ý hàng đầu
dưới mọi khía cạnh: sự thiếu sót về
tình báo, ngân sách thâm hụt,
lý do gây chiến, dân tình chia
rẽ, phương thức kết thúc cuộc chiến
v.v... Cuộc tranh luận giữa Bush và các ứng cử
viên thuộc đảng Dân chủ
chắc chắn sẽ
rất gay cấn.
3
– Thái
độ lạc quan của giới cầm quyền Hoa
Kỳ. Sau 10 tháng chiếm đóng Iraq, trên 470
lính Mỹ
thiệt mạng. Trong khoảng thời gian
đó, số tử vong Hoa kỳ tại VN lên đến
2.000. 58,300 quân
Mỹ hy sinh trong chiến cuộc VN. Ngũ
Giác Đài sẽ phải tăng quân mặc
dù đã tuyên bố tháng năm 2003 rằng
không cần quá
30.000 lính để vãn hồi trật tự tại Iraq. Thái độ
này nhắc
lại thái độ của Tòa Bạch ốc trước
ngày Mỹ hóa, rồi Việt Nam hóa chiến
tranh ở
Miền Nam VN.
4
– Quân
đội Mỹ trong tình trạng cô lập ở Iraq. Cũng như tại VN trước
đây, các cơ sở và quân trại cũa Mỹ tại
Iraq được phòng
thủ, canh gát kiên cố và tâïp trung ở
những khu riêng
biệt, cấm nhặt người lạ xâm nhập,
bị dân và báo chí Iraq
nhạo
báng đặt tên “các bức tường Bá Linh.” Quân đội không
trà trộn với dân, không thông hiểu phong tục,
đời sống Iraq và cần xử dụng
thông dịch viên địa phương.
5 – Hoa Kỳ xoay lưng với phần lớn
dư luận thế giới. Được
phỏng vấn gần đây, Robert McNamara, Bộï
trưởng Quốc phòng của Kennedy và Johnson, tuyên
bố: Thập niên 60, nếu Hoa Kỳ lắng nghe lời
khuyên của các đồng minh đừng can thiệp
ở VN thì cóø lẽ đã tránh được sự
thảm bại.
Năm 2003, Anh quốc ủng hộ Mỹ tấn
công Iraq, dù một số
đồng minh phản đối. Tòa Bạch ốc hiện
phải khó nhọc thuyết phục Liên Hiệp Quốc
chia sẻ gánh nặng tại Iraq.
Để kết
luận, chiến tranh VN làm suy yếu kinh tế Hoa Kỳ,
gây ngờ vực về khả năng của Quân
đội Mỹ và góp phần không ít tạo sự bất
tín nhiệm của một thế hệ đối với
chính phủ nước này. Còn sớm để
khẳng định Hoa kỳ không rút kinh nghiệm về
sự thất bại ở Đông Dương. Thật
vậy, thời cơ đã thay đổi nhiều sau ngày
cộng sản khánh tận ở Âu châu. Sách
lược dân chủ hóa Iraq mới bắt
đầu, chưa kết thúc. Siêu cường Hoa kỳ còn những
lá bài tẩy
trong tay và có đủ quyết
tâm
để thích hợp chiến thuật. Thái
độ dịu giọng gần đây của Lybie, Iran và Bắc Triều
Tiên là
những dấu hiệu khích lệ.
Sách
Lược Dựng
Nước Của Hoa Kỳ Sẽ Thiết Lập Một
Trật Tự Thế Giới Mới?
Sau 1945, với sự trợ giúp của Mỹ, hai
nước Nhựt và Đức trở thành những
mẫu thành công về kinh tế. Tuy
nhiên, điểm hệ trọng không phải là tái thiết
kinh tế mà là biến đổi chính trị. Sự
thất bại của Hoa Kỳ thiết lập dân chủ
vững mạnh ở Somalie, Haiti hay Afghanistan bắt
nguồn từ những xung đột sắc tộc, xã
hội, bộ lạc và đặc biệt, từ sự
vắng bóng dân chủ trong lịch sử các xứ này. Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng
tại Bosnie và
Kosovo – nơi mà lịch trình dân chủ hóa
đã gặt hái
được một số thành quả – những hận
thù giữa các cộng đồng trở nên nghiêm trọng.
Tổ hợp Rand Corporation ghi chú:
Sau Đệ nhị Thế chiến, Hoa Thịnh
Đốn và các đồng minh đầu tư ở Kosovo nhiều
hơn ở Afghanistan: 25 lần về tiền bạc và 50
lần về quân lực. Mỗi đầu người
ở Kosovo nhận 800 mỹ kim trong lúc
chỉ có 200 ở Đức Năm 1945, Hoa Kỳ nắm
trong tay phân nữa tổng sản lượng thế
giới. Năm 1990, tỷ lệ sụt còn
22%. Về
mặt quốc tế, sự phân chia chi phí trở nên
một vấn đề chính trị hệ trọng
đối với Mỹ và dễ chấp nhận hơn
đối với những xứ khác. Trong
thập niên 90, Hoa Thịnh Đốn tranh đấu
để giữ vị thế lãnh đạo trong khi
thuyết phục các đồng minh chia sẻ thêm gánh
nặng tái thiết thế giới. Tại Somalie và Haiti, Mỹ chủ trương Liên Hiệp
Quốc tài trợ một lực lượng võ trang quốc tế.
Tại Bosnie và Kosovo, Hoa Thịnh Đốn đề
nghị phối hợp chỉ huy thống nhất với
một sự tham gia quân sự rộng rãi của khối OTAN
(Organisation du Traité de l’Atlantique Nord).
Đến nay, Kosovo là trường hợp dung hòa
tốt nhất “Mỹ lãnh đạo + Âu châu tham gia”. Hoa Kỳ chỉ huy trong khi chỉ trả 16%
tổng chi phí tái thiết và dự chiến với 16%
tổng binh lực. Sự thành công này tùy
thuộc
khả năng của Mỹ và các đồng minh chính
thỏa hiệp với nhau về mục tiêu chung
trong phạm vi các cơ chế liên hệ (Liên Hiệp
Quốc, OTAN, Liên hiệp Âu châu). Mô
thức
hành động đa phương (opérations multilatérales)
vừa nói có cái lợi là ít gây
tốn kém nhưng có tính cách
phức tạp và đòi hỏi thời gian vì phải
thương thảo với các nước tham dự
về tốc độ thi hành và phương tiện
xử dụng. Tình trạng chống đối Hoa
Thịnh Đốn
lúc sau này trong Hội đồng An ninh
Liên Hiệp
Quốc thúc đẩy Hoa kỳ
quyết định đơn phương để thực hiện
những kế hoạch xem
như cấp thiết.
Iraq là cuộc
hành quân thứ
năm của Mỹ tại một nước hồi giáo
trong mười năm gần đây. Một cuộc hành quân tối hệ trọng
về chính trị đối với riêng Hoa Thịnh
Đốn: đặt một thí điểm quảng bá dân
chủ trong thế giới Hồi giáo, đồng thời
lập một căn cứ chiến lược và kiểm
soát nhiên liệu. Giấc mơ này sẽ tan thành
mây khói
nếu không có sự hổ trợ nhiệt tình của
phần còn lại của lương tri nhân loại. Hoa
Kỳ cần thuyết phục và nhân
nhượng.
LÂM LỄ TRINH
Thủy Hoa Trang
Xuân Giáp Thân
TƯ LIỆU:
Đọc “Irak, le merdier” của Ignacio
Ramonet; “L’Afghanistan vu d’Hérat” của Julien Bousac và
“Parole
d’Expert” của Dominique Vidal trong Le Monde Diplomatique,déc. 2003
“A forced retreat, The attacks have
changed US
plans for Iraq » của Rajiv Chandrasekaran ;
«New Iraqi Forces’ Flaws are
showing » của Ariana Eunjung Cha ; «Iraq and
Vietnam, Rhyme and
Reason » của Robert Kaiser và «Iraq’s Sunni
Majority Fears a Grim
Future » của Anthny Shadid trong The Wahington Post, January 5-11, 2004
‘America’s Role in Nation Building,
From Germany to
Iraq” Rand, Santa Monica, 2003
No comments:
Post a Comment