Monday, August 27, 2012

NGUYỄN MINH CẦN * CHÍNH LUẬN

Ðảng Cộng Sản Việt Nam
Qua Những Biến Ðộng
Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế

Nguyễn Minh Cần

LTS: Nhậ n thấy cuốn sách "Ðảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Ðộng Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế của ông Minh Nguyễn Cần là một cuốn sách giá trị với nhiều nhận định sâu sắc, chứa đựng nhiều tài liệu lịch sử hữu ích; chúng tôi liên lạc với ông Nguyền Minh Cần và ông đã có nhã ý để đăng trên tờ Tạp Chí Cách Mạng trong việc phổ biến rộng rãi đến mọi người.

Tiểu Sử:
Nguyễn Minh Cần
Sinh năm 1928 tại Huế. Tham gia phong trào giải phóng dân tộc đầu năm 1945, khi còn là học sinh, hoạt động trong một tổ chức bí mật của Việt Minh. Tháng 8 năm 1945, tham gia tổ chức và lãnh đạo khởi nghĩa ở thành phố Huế và vùng phụ cận.
Sau Cách mạng tháng 8, hoạt động trong phong trào công nhân Huế. Vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 5 năm 1946, sau đó là ủy viên Thường vụ Thành ủy Huế. Những ngày đầu kháng chiến chống Pháp hồi tháng 12 năm 1946, ở trong Ban chỉ huy mặt trận B thành phố Huế. Từ năm 1947, hoạt động trong vùng tạm chiếm tỉnh Thừa Thiên, làm bí thư Huyện ủy Hương Trà, về sau là ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên cho đến đầu năm 1951.
Từ năm 1951, được Trung ương Đảng điều động ra Hà Nội, vào hoạt động bí mật ở Hà Nội đang bị Pháp chiếm. Từ tháng 10 năm 1954 đến năm 1962 là thành ủy viên, rồi ủy viên Thường vụ Thành ủy Hà Nội, phó chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội, chủ nhiệm báo “Thủ Đô Hà Nội”.
Năm 1962, đi học Trường Đảng Cao cấp thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tại Moskva. Do bất đồng với đường lối thân Mao của ban lãnh đạo Đảng, bị lãnh đạo Đảng truy bức, tháng 6 năm 1964 đã thoát ly Đảng Cộng sản và xin cư trú chính trị tại Liên Xô. Tại đây, làm nghề phiên dịch và biên tập ở Nhà xuất bản Tiến Bộ, Moskva trong 25 năm.
Khi bắt đầu perestroika, đã tích cực tham gia phong trào dân chủ ở Nga và nhiệt thành ủng hộ cuộc đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Hiện cư trú tại Moskva.
Sách đã xuất bản:
“Công Lý Đòi Hỏi”, NXB Văn Nghệ, năm 1997;
“Chuyện Nước Non”, NXB Văn Nghệ, năm 1999;
“Đảng Cộng sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế”, NXB Tuổi Xanh, năm 2001.

Đảng  cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) qua những biến động trong phong trào cộng sản quốc tế (PTCSQT) là một đề tài khá rộng. Việc nghiên cứu kỹ đề tài này có thể giúp ta hiểu được nhiều vấn đề thuộc về quá khứ không xa, cũng như hiện tại và tương lai của đất nước. Để có thể có cái nhìn bao quát giúp cho việc nghiên cứu được sâu, người viết xin trình bày theo trình tự sau đây:
Đôi điều về đảng cộng sản (ĐCS) và PTCSQT,
Đôi điều về ĐCSVN,
Những thời kỳ biến động lớn nhất trong lịch sử PTCSQT,
ĐCSVN qua những biến động đó.
Những vấn đề này liên quan chặt chẽ với nhau. Có hiểu được thực chất của ĐCS nói chung và PTCSQT thì dễ dàng nắm bắt được những đặc điểm chính của ĐCSVN, và khi biết rõ những đặc điểm đó rồi thì dễ dàng hiểu được thái độ của ĐCSVN trước những biến động lớn trong PTCSQT, và nhất là hiểu được thái độ của ĐCSVN trong tình hình hiện nay trước xu thế chung của thời đại, đồng thời có thể dự đoán phần nào sự chuyển biến tình hình đất nước trong tương lai.
Đây là một bài có tính chất nghiên cứu, nên người viết chủ yếu dựa trên sự kiện thực tế và trình bày thẳng thắn, không thêm bớt, không thiên vị để bảo đảm tính khách quan.
Nhận thức rằng những điều trình bày dưới đây mới chỉ là nét phác họa chưa đầy đủ, sức của người viết thì có hạn, mà đề tài lại lớn cần có sự nghiên cứu sâu hơn và kỹ hơn của nhiều người, nên mong mỏi và hoan nghênh các nhà nghiên cứu cùng các bạn đọc góp sức, góp ý để vấn đề được sáng tỏ thêm. Người viết sẵn sàng đón nhận với lòng biết ơn mọi ý kiến phê bình xây dựng.
I. Đôi điều về ÐCS và PTCSQT

Trước hết, cần biết qua quan điểm của các lãnh tụ cộng sản Marx, Engels, Lenin, Stalin và Mao Trạch Đông về ĐCS, cũng như thực tiễn xây dựng đảng của họ, để dễ hiểu về ĐCSVN, vì xưa nay những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam đều coi quan điểm lý luận  của các lãnh tụ đó là “kim chỉ nam cho hành động” của họ, còn các Đảng cộng sản Liên Xô (ĐCSLX)â, Trung Quốc (ĐCSTQ) là khuôn mẫu để họ rập theo xây dựng ĐCSVN.
A. Quan điểm của Marx-Engels về ĐCS

Khi nghiên cứu xã hội tư bản, Karl Marx và Fredrich Engels cho rằng cuộc cách mạng công nghiệp ở các nước Âu Mỹ đã sinh ra giai cấp vô sản, lực lượng xã hội chủ yếu tạo ra mọi của cải vật chất của xã hội tư bản chủ nghĩa. Trong  quá trình sản xuất, giai cấp vô sản tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, và giai cấp tư bản ăn bám đã chiếm đoạt thứ giá trị thặng dư này để trở nên giàu có. Toàn bộ quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho giai cấp vô sản, nhất là vô sản công nghiệp, trở thành giai cấp tiên tiến  nhất, có tổ chức nhất, cách mạng triệt để nhất, nó là giai cấp lãnh đạo cách mạng vô sản, nó sẽ là kẻ đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản và xây dựng nên xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Muốn làm được nhiệm vụ lịch sử đó, theo Marx và Engels, thì “phải tổ chức những người vô sản thành giai cấp (ý nói phải tổ chức đảng của vô sản - NMC), lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền” (1).
Trong bài này, chúng tôi không muốn bàn nhiều đến sai lầm trong luận điểm của Marx và Engels về vai trò của giai cấp vô sản trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, cũng như vai trò lãnh đạo của giai cấp đó trong xã hội, vì đề tài đó thuộc một vấn đề khác rộng hơn. Nhưng vì luận điểm đó là cơ sở đặt nền móng cho toàn bộ học thuyết của hai ông, trong đó có lý luận về đảng của giai cấp vô sản, nên buộc lòng cũng phải nói qua. Luận điểm trên của Marx và Engels về vai trò của giai cấp vô sản là dựa trên sự phân tích xã hội tư bản được trình bày một cách thiên lệch trong bộ “Tư bản” của Marx.  Vì tác giả của nó muốn đề cao vai trò của giai cấp vô sản, nên khi trình bày về kinh tế tư bản chủ nghĩa đã cố tình chỉ nhấn mạnh đến đến vai trò lao động, chủ yếu bằng chân tay, của giai cấp vô sản trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa nói chung, cũng như trong sự cấu thành giá trị và giá trị thặng dư nói riêng, mà coi nhẹ hoặc không đếm xỉa đến thứ lao động quan trọng nhất, quyết định  nhất là lao động bằng trí tuệ của tầng lớp trí thức, nhất là trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, tức là lớp người tạo nên nền sản xuất với kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, và của tầng lớp quản lý, tức là lớp người điều khiển, vận hành toàn bộ nền sản xuất phức tạp đó, trong việc này có cả phần đóng góp của giai cấp tư bản. Do phương pháp luận không khách quan đó, nên Marx đã rút ra những kết luận sai lầm. Thực tiễn thế giới ngay giữa thế kỷ 20 đã hoàn toàn bác bỏ những kết luận của Marx về vai trò của giai cấp vô sản trong xã hội, bác bỏ những điều khẳng định về những tính chất “tiên tiến  nhất, có tổ chức nhất, cách mạng triệt để nhất” của giai cấp này. Còn đến cuối thế kỷ 20, khi nền kinh tế toàn cầu hóa, cuộc cách mạng tin học tiến mạnh, kinh tế tri thức nở rộ thì chẳng còn mấy ai tin vào những kết luận đó nữa. Thế mà, Marx và Engels dựa trên những kết luận sai lầm đó, đã đưa ra trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” (năm 1848) quan niệm về đảng của những người cộng sản và nhiệm vụ xây dựng xã hội cộng sản của giai cấp vô sản.
Công bằng mà nói, trong  các tác phẩm của mình, hai ông thường nhấn mạnh: cách mạng vô sản chỉ có thể tiến hành ở các nước công nghiệp phát triển, nghĩa là những nước thực sự có giai cấp vô sản, và ĐCS phải thực sự là “đảng của giai cấp vô sản” mang tính chất vô sản. Sở dĩ phải nhấn mạnh như thế vì hai ông phòng trước: nếu không có điều kiện căn bản đó,  ĐCS sẽ là đảng của lớp nghèo không phải vô sản, “lớp đáy” của xã hội, mà Marx gọi là “lumpen-proletariat” (vô sản áo rách, vô sản lưu manh), sẽ mang nặng tính chất của các tầng lớp đó và vì thế sẽ làm sai mục tiêu của cách mạng vô sản. Về sau, Lenin và phe cánh của ông ta tự cho mình phát triển chủ nghĩa Marx thì lại coi nhẹ điều này, ông cho rằng cách mạng vô sản có thể diễn ra ở các nước công nghiệp kém phát triển, nơi đang là khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản. Thậm chí Lenin và phe cánh còn cho rằng những nước chưa qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản cũng có thể làm cách mạng vô sản miễn là họ nhận được sự giúp đỡ của một nước mà ĐCS nắm chuyên chính vô sản.
Nếu nghiên cứu kỹ thì có thể dễ dàng nhận thấy một số quan điểm căn bản về ĐCS của Marx và Engels ghi trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” khác với quan niệm và thực hành của Lenin và những lãnh tụ cộng sản khác trong thế kỷ 20. Có những điều hai ông đã viết ra rất ít được những người  theo chủ nghĩa Lenin sau này nhắc tới hoặc đem ra bình luận. Vì thế, xin dẫn ra ở đây vài đoạn đáng chú ý trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”:
“... về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước...” (2)...
“Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng công nhân khác” (3)...
“Họ không đặt ra những nguyên tắc phe phái nhằm khuôn phong trào công nhân theo những nguyên tắc ấy.
Những người cộng sản chỉ khác với các đảng vô sản khác trên hai điểm: một là, trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc mà chung cho toàn thể giai cấp vô sản; hai là, trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, họ luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào” (4).
Qua những điều đó thấy rõ rằng, khi đặt cho đảng của giai cấp vô sản nhiệm vụ làm cách mạng vô sản đánh đổ chế độ tư bản chủ nghĩa bằng bạo lực, rồi dùng chuyên chính vô sản để tiêu diệt giai cấp tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản, Marx và Engels quan niệm ĐCS là một tổ chức xã hội, chứ không phải là một hội kín của những kẻ âm mưu. Cứ nhìn các đảng vô sản dưới thời hai ông, chẳng hạn, công đảng, đảng xã hội chủ nghĩa, đảng xã hội-dân chủ... thì thấy rõ điều này. Marx và Engels quan niệm một nền chính trị, trong đó giai cấp vô sản có nhiều đảng, chứ không phải một ĐCS duy nhất. Dĩ nhiên, không thể coi đây đã là nền chính trị đa nguyên, đa đảng theo quan niệm dân chủ hiện thời, vì hai ông chỉ nói đến “các đảng công nhân khác” mà thôi. Hai ông không quan niệm ĐCS là một tổ chức cao nhất đứng trên các đảng vô sản khác, có độc quyền lãnh đạo hay độc tôn thống trị các đảng và các tổ chức vô sản khác, như Lenin, Stalin và Mao Trạch Đông về sau đã chủ trương. Điều đáng chú ý nữa là Marx và Engels luôn luôn đề cao chủ nghĩa quốc tế, hai ông nhấn mạnh  trong bất cứ trường hợp nào ĐCS không được lấy quyền lợi dân tộc làm gốc mà phải lấy chủ nghĩa quốc tế làm căn bản. Điều này thì càng về sau, các ĐCS hoặc chỉ nói mà không làm, hoặc chỉ lợi dụng chiêu bài chủ nghĩa quốc tế vô sản để che đậy cho quyền lợi tập đoàn của họ.
Về mặt thực hành quan điểm của hai ông về đảng, Marx và Engels đã lập ra hồi năm 1864 “Liên minh công nhân quốc tế” (sau này được mệnh danh là Đệ Nhất Quốc tế), với số phân bộ không nhiều, phần lớn ở châu Âu. Trước đó, Marx và Engels cũng lập ra “Liên đoàn những người cộng sản”, nhưng trên thực tế cả tổ chức này cũng không có hoạt động gì nổi bật, ngoài việc ra “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”. Do cuộc đấu tranh giữa các khuynh hướng trong nội bộ “Liên minh công nhân quốc tế”, tổ chức này dần dần tan rã, và năm 1876 tuyên bố tự giải tán. Đến năm 1889, cuộc đại hội các đảng xã hội chủ nghĩa (ở Việt Nam thường gọi là đảng xã hội) của nhiều nước châu Âu, của Mỹ và Argentina đã thành lập “Liên minh quốc tế của các đảng xã hội chủ nghĩa” (về sau được mệnh danh là Đệ Nhị Quốc tế). Sau khi Engels mất (1895), Đệ Nhị Quốc tế bị Lenin công kích thậm tệ, lên án tổ chức quốc tế này là theo đường lối “xét lại”, cải lương, cơ hội chủ nghĩa, thỏa hiệp giai cấp, tay sai của tư sản và phản bội cách mạng. Lenin tuyên bố là trung tâm cách mạng thế giới đã chuyển sang nước Nga và chỉ có ĐCS “bolshevik” Nga mới thật là cách mạng triệt để.
B. Quan điểm và thực hành của Lenin về ĐCS

Lenin tự cho mình là người kế nghiệp chân chính những di sản lý luận của Marx và Engels, còn Karl Kautsky là renégat (các dịch giả Hà Nội chuyển ngữ là: kẻ phản bội), dù về mặt pháp lý Kautsky được di chúc là người thừa kế chính thức các di cảo của Marx và Engels. Trên thực tế rất nhiều vấn đề Lenin đã làm khác, nếu không muốn nói là xuyên tạc, những tư tưởng của Marx và Engels. Làm như thế, Lenin và phe cánh của ông cho rằng họ đã phát triển chủ nghĩa Marx. Chẳng hạn, về lý luận, Lenin cho rằng cách mạng vô sản có thể giành được thắng lợi ở cái khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản, khâu đó là nước Nga - một nước mà chủ nghĩa tư bản phát triển còn thấp, chứ không nhất thiết phải nổ đồng loạt ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa đã phát triển, như Marx và Engels đã dự kiến, mà muốn thế thì phải có một “đảng kiểu mới” khác hẳn với các đảng vô sản đã có trong các Quốc tế dưới thời Marx và Engels. Quan điểm của Lenin về “đảng kiểu mới”, dĩ nhiên, khác hẳn quan điểm của Marx và Engels.
Khi phân tích quan điểm này của Lenin, chúng tôi không viện dẫn những câu “nhật tụng” “tung hỏa mù” mà giới lý luận xô-viết thường hay trưng ra (như ĐCS là đội quân tiên tiến nhất, giác ngộ nhất của giai cấp vô sản, ĐCS là đội quân có tổ chức nhất của giai cấp vô sản, v.v... và v.v...) để  che đậy quan điểm thật của Lenin về ĐCS, mà chúng tôi dựa vào sách “Làm gì?” do Lenin viết và xuất bản năm 1902 ở Stutgart. Trong tác phẩm đó, Lenin nói rõ nhất về quan điểm của ông và kế hoạch xây dựng ĐCS “kiểu mới” của những người cách mạng chuyên nghiệp. Ông cho rằng ở nước Nga tuy chủ nghĩa tư bản chưa phát triển cao nhưng vẫn có thể làm cách mạng vô sản thắng lợi được, miễn là những người cộng sản xây dựng được ĐCS “kiểu mới” thật bí mật biết dùng bạo lực để cướp chính quyền, nói một cách khác xây dựng được một hội kín  của những kẻ âm mưu. Ngay hồi đầu thế kỷ 20, Lenin đã nói: “Hãy cho tôi một đảng những người cách mạng chuyên nghiệp thì tôi lật ngược cả nước Nga” (còn sau cuộc đảo chính tháng 10.1917, ông mơ ước lật ngược cả thế giới nữa!). Ông cho rằng người muzhich (nông dân) Nga vốn có truyền thống khuất phục, nếu ĐCS cướp được chính quyền rồi thì cả xã hội đều sẽ khuất phục theo và bằng bạo lực của chuyên chính vô sản, ĐCS  sẽ xây dựng được chế độ cộng sản. Để chuẩn bị cướp chính quyền, Lenin đặc biệt chú ý lập ra các nhóm khủng bố võ trang gồm cả những phần tử tội phạm để làm nhiệm vụ “tước đoạt” (ăn cướp), ám sát, v.v... Chỉ huy các nhóm khủng bố này là ba người (gọi là “troika”) rất bí mật trong trung ương Đảng bolshevik, trong “troika” đó có Lenin và Krasin. Nên nhớ rằng, hồi đó, Đảng bolshevik là một bộ phận của Đảng công nhân xã hội – dân chủ Nga, mà Đảng công nhân  xã hội – dân chủ Nga thì cực lực lên án và cấm tuyệt hành động khủng bố, cho nên Lenin và phe cánh phải giữ bí mật tuyệt đối nhóm “troika” và việc ông ta chỉ huy nhóm khủng bố (5). Thực tế đã chứng tỏ rằng với cái “đảng-hội kín-âm mưu” đó, Lenin và những người bolsheviks Nga có được trong tay một công cụ (instrument) hữu hiệu đã làm đảo chính cướp chính quyền và thiết lập chuyên chính vô sản hồi tháng 10.1917. Ngày nay, giới sử học Nga cũng đã khẳng định sự biến tháng 10.1917 là một cuộc đảo chính lật đổ chính quyền dân chủ chứ không phải là một cuộc cách mạng, như những người bolsheviks thường nói. Và chính  Lenin trong mấy năm đầu sau tháng 10.1917 cũng gọi đó là “đảo chính” (tiếng Nga là  “perevorot”, các dịch giả Hà Nội cố ý chuyển ngữ bằng một từ rất lờ mờ là “chính biến” – NMC).
Để xây dựng ĐCS với thực chất hội kín của những kẻ âm mưu như vậy, Lenin đặc biệt nhấn mạnh vai trò “những người cách mạng chuyên nghiệp”. Ông viết: “... tổ chức của những người cách mạng phải bao gồm trước tiên và chủ yếu những người mà nghề nghiệp của họ là hoạt động cách mạng ...” (6). Sự thật chứng tỏ rằng “những người cách mạng chuyên nghiệp” Nga trước tháng 10.1917, phần lớn là những kẻ vô nghề nghiệp, không lao động, hoặc có nghề nghiệp mà không làm việc gì, ngoài “việc làm” cách mạng; cũng có một số đã có quá khứ tội phạm. Ngay cách làm tài chính cho tổ chức của những người chuyên nghiệp này cũng thấy rõ tính chất hội kín của những kẻ âm mưu: dựa vào hoạt động khủng bố để cướp đoạt làm tiền cho đảng (họ gọi bằng từ ngữ của Marx là tước đoạt). Lenin lý giải thật giản đơn cái quan điểm về “những người cách mạng chuyên nghiệp”. Ông viết: “bắt được mười thằng khôn khó hơn bắt một trăm thằng ngốc”, và ông nhấn mạnh: “phải hiểu rằng – như tôi đã nhiều lần vạch rõ – chỉ có những người cách mạng chuyên nghiệp (chữ in đậm của Lenin – NMC) mà thôi” (7). Nhưng cả “những thằng khôn” lẫn  “những thằng ngốc” đó phải đứng vào trong “một tổ chức bí mật hết sức nghiêm ngặt”, và tổ chức này phải do “một ủy ban gồm những người cách mạng chuyên nghiệp” (8) điều khiển. Rõ ràng là theo quan điểm của Lenin, ĐCS thực ra là một hội kín  của những kẻ âm mưu, chứ không phải là một chính đảng với tính cách là tổ chức xã hội của giai cấp vô sản. Bản thân Lenin cũng không giấu giếm điều đó, khi ông nói: “thật  vô cùng ngây thơ khi sợ bị buộc tội chúng ta, là những người xã hội-dân chủ, lại muốn thành lập một tổ chức âm mưu” (9). Ông cho rằng tổ chức đó cần có “một mạng lưới những agents” (từ này trong tiếng Nga có nhiều nghĩa, chúng tôi muốn giữ nguyên dạng từ này, vì nó lột tả thực chất cách đặt vấn đề của Lenin), nhưng - theo ông – “nếu ai đó không thích “cái từ khủng khiếp” này thì có thể thay bằng từ “những nhân viên”, có khả năng bảo đảm “xác xuất lớn nhất của thắng lợi trong trường hợp nổi dậy” (10). Cũng vì tính chất hội kín của những kẻ âm mưu, nên Lenin luôn luôn đưa lên hàng đầu đòi hỏi “đảng kiểu mới” phải là một tổ chức “tập trung nhất”,“bí mật nhất” và phải “có kỷ luật sắt” cực kỳ nghiêm ngặt. Nền tảng để xây dựng “đảng kiểu mới” với tính cách “công cụ” ngoan ngoãn của một lãnh tụ hoặc một nhóm lãnh tụ là nguyên tắc tập trung dân chủ. Chính nguyên tắc này bảo đảm sự phục tùng tuyệt đối của đại đa số đảng viên đối với một nhóm nhỏ những người lãnh đạo, hay nói theo cách của Lenin  “một ủy ban gồm những người cách mạng chuyên nghiệp”, và ủy ban này – đến lượt nó – phải phục tùng tuyệt đối một hay vài lãnh tụ (chẳng hạn, nhóm ba người gọi là “troika” đã nói trên). Nhóm nhỏ lãnh đạo ĐCS này khi cướp được chính quyền rồi trở thành tập đoàn thống trị nhà nước và xã hội.
Lenin còn đưa ra luận điểm về “sự độc quyền lãnh đạo (hégémonie) của giai cấp vô sản, tức là của ĐCS”. Xin chú ý rằng: trong các cụm từ “sự độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản” hay “chuyên chính của giai cấp vô sản”, cái vế “của giai cấp vô sản” chỉ là một cách nói đẹp để dụ hoặc người lao động, còn nghĩa thực của nó là của một hoặc vài lãnh tụ, tức là một nhúm nhỏ “những người cách mạng chuyên nghiệp”, nói cách khác là một tập đoàn thống trị cộng sản. Đối với Lenin, cả giai cấp vô sản, hay nói rộng hơn toàn dân tộc, toàn nước Nga chỉ có thể có một đảng duy nhất, đó là ĐCS của những người bolsheviks, đứa con đẻ quan trọng nhất của “chủ nghĩa Lenin”, hình mẫu cho các ĐCS trên thế giới.
Đấy, quan niệm về ĐCS của Lenin là như thế, và chính quan niệm đó là một trong những cơ sở để xây dựng lên chế độ cực quyền toàn trị khi ĐCS đã cướp được chính quyền.  Sau cuộc đảo chính tháng 10.1917, ĐCS trở thành một yếu tố chính của nhà nước mới xuất hiện. Những người bolsheviks, thông qua ĐCS, nắm quyền thống trị độc tôn chuyên chế vô hạn đã tiêu diệt hết các đảng và các tổ chức đối lập, tiêu diệt “các giai cấp thù địch” –  cụ thể là giai cấp các chủ ruộng đất, giai cấp các nhà công nghiệp, thương nghiệp, giai cấp những người nông dân năng nổ nhất, đắc lực nhất trong nền sản xuất nông nghiệp (tiếng Nga gọi là kulak), giai cấp các nhà trí thức, tiêu diệt hết mọi mầm mống dân chủ trong xã hội. Quyền chuyên chế vô hạn đó đã được thiết lập ở Nga hồi tháng 10.1917 là do trình độ văn hóa chính trị thấp kém của dân chúng, đặc biệt là của người muzhich ở nông thôn, và truyền thống dân chủ quá non yếu của xã hội Nga. Bằng bạo lực đẵm máu, những người cộng sản-bolshevichs duy trì được quyền đó đã hơn bảy thập niên ở nước Nga cho đến khi ĐCS bị hạ bệ hồi tháng 8.1991. Trong suốt thời gian đó, ĐCS đã biến mình trở thành trung tâm liên kết và hình thành một giai cấp thống trị mới, giai cấp quan liêu đặc quyền đặc lợi gọi là “nomenklatura”.
Một điểm quan trọng cần vạch rõ nữa là: sau ngày ĐCS cướp được chính quyền ở Nga, xuất hiện ngay một sự cộng sinh (symbiose) giữa đảng và nhà nước, dựa trên sự kết hợp trước hết giữa đảng và cơ quan công an mật vụ  (lúc đầu gọi là Vecheka - ủy ban đặc biệt toàn Nga, hay Cheka - ủy ban đặc biệt). Điều đó thể hiện rõ trong nhiều “chỉ thị” của Lenin. Xin dẫn một đoạn trong thư Lenin gửi cho Yakov Ganetsky: “hãy thiết lập mối quan hệ khắng khít nhất  giữa các tổ chức đảng với các Cheka... bắt buộc tất cả các đảng viên có chức vụ phải báo cho các Cheka tất cả những tin tức đến họ bằng con đường riêng tư hay chính thức và có ích cho cuộc đấu tranh chống phản cách mạng và gián điệp. Không chỉ hạn chế trong việc đó mà thôi, họ còn phải giúp đỡ một cách hữu hiệu các Cheka, tham gia việc xét xử... dự các cuộc hỏi cung, v.v...” (11). Chính Lenin đã từng viết: “một người cộng sản tốt đồng thời phải là một chekist (công an mật vụ) tốt” (12). ĐCS cầm quyền thực tế trở thành một đảng-nhà nước. ĐCS giống như con bạch tuộc vươn dài các vòi của nó bám chặt vào mọi cơ cấu của bộ máy nhà nước, xoắn quyện nhau, gắn chặt thành một bộ máy đảng-nhà nước của giai cấp thống trị mới, giai cấp quan liêu (nomenklatura) đông hàng nhiều triệu người. Bộ máy này rất to lớn và cồng kềnh đè nặng lên quảng đại dân chúng, trước nhất là các giai cấp mà đảng coi là thành phần cơ bản của xã hội (công nhân và nông dân lao động), cũng như lên quần chúng đảng viên. Bằng bạo lực chuyên chế đẵm máu, bộ máy này nghiền nát chẳng những mọi phản kháng, mọi ý đồ đối lập, mà còn đè bẹp, triệt tiêu cả mọi tư tưởng độc lập, mọi ý hướng dân chủ, mọi tư tưởng khác biệt trong đảng và ngoài xã hội.
Vô hình trung trong cả đất nước rộng lớn bao la chiếm đến một phần sáu địa cầu đã hình thành nên một kim tự tháp xã hội mà kẻ đứng trên đỉnh tháp là “lãnh tụ tối cao” của đảng với quyền lực cá nhân không hạn chế được tôn vinh là “lãnh tụ của giai cấp vô sản toàn thế giới” (Lenin) hoặc “người cha của các dân tộc” (Stalin), thực chất là một Nga hoàng đỏ, một tên độc tài đỏ. Trong kim tự tháp lớn lại có nhiều kim tự tháp nhỏ, trên đỉnh mỗi kim tự tháp nhỏ là một bí thư đảng bộ cộng sản địa phương, tức là một “lãnh tụ con”, một lãnh chúa phong kiến đỏ. Còn ở đáy kim tự tháp là quảng đại dân chúng, bao gồm chủ yếu là  những thành phần gọi là cơ bản của đảng – công nông binh, đảng viên thường. Trong số này một số không ít được giai cấp quan liêu tuyển chọn làm cán bộ để dần dần bổ sung vào giai cấp quan liêu cầm quyền, hoặc làm tay sai cho giai cấp đó. 
Đấy, từ quan niệm của Lenin về ĐCS đã tạo nên chế độ cực quyền toàn trị như thế. Đó là hình mẫu chung cho tất cả các nước gọi là “xã hội chủ nghĩa”.
C. Dựng lên một ĐCS thế giới

Sau khi cướp được chính quyền bằng một cuộc đảo chính khá dễ dàng (1917), Lenin càng say sưa với những kết luận của mình, đã nêu ra trong sách “Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”  (viết năm 1916) mà những kẻ tán dương Lenin gọi là “phát kiến vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới”. Những kết luận đó là: “chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn chủ nghĩa tư bản giãy chết”...”là giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa tư bản”... “là đêm trước của cách mạng vô sản thế giới”. Để kịp đón cái “đêm trước của cách mạng vô sản thế giới”, để  làm “cách mạng vô sản thế giới” và thiết lập “chuyên chính vô sản thế giới”, Lenin và đảng bolshevik thực tế bắt tay chuẩn bị thành lập một “đảng-hội kín-âm mưu” thế giới, tức là một “ĐCS thế giới”, bao gồm nhiều ĐCS theo hình mẫu “ĐCS bolshevik Nga” ở các nước trên thế giới. Đây chính là thực chất của cái gọi là PTCSQT.
Về việc thành lập “ĐCS thế giới” ấy, nhà sử học D. Volkogonov (viện sĩ thông tấn Viện hàn lâm khoa học, tiến sĩ triết học, tiến sĩ sử học, trung tướng của quân đội xô-viết, vốn là một đảng viên cộng sản chính thống về sau đã tỉnh thức và trở thành nhà dân chủ triệt để) đã kể lại như sau: để chuẩn bị thành lập tổ chức quốc tế đó, Lenin và đảng bolshevik phái những agents của công an mật vụ Nga (Vecheka) đến một số đảng xã hội chủ nghĩa để phân hóa, chia rẽ, lôi kéo, tuyển mộ tay chân, cung cấp tài chính, v.v... nhằm tạo ra “phe tả” làm  “hạt nhân” đầu tiên của tổ chức “Quốc tế” mới (13). Volkogonov đưa ra nhiều tài liệu cụ thể về vai trò của công an mật vụ Nga trong việc thành lập và hoạt động của Quốc tế cộng sản, những tài liệu này dẫn từ kho lưu trữ của QTCS, nay là RSKHIDNI - Trung tâm lưu trữ văn kiện lịch sử hiện đại). Hồi năm 1918, ngoài ĐCS bolshevik Nga, ở châu Âu chỉ có một ĐCS Đức nữa mà thôi, còn các nơi khác mới chỉ đang  thời kỳ “thai nghén” “phe tả” trong các đảng xã hội chủ nghĩa. Theo lệnh của Lenin, Bộ trưởng ngoại giao Chicherin ra lời kêu gọi trên đài phát thanh gửi tới tất cả những người cộng sản châu Âu và châu Á mời họ đến Moskva tham dự hội nghị. Không có tiếng vang đáp lại, vì chẳng ai để ý đến lời kêu gọi đó cả. Cuối cùng, chỉ phủ dụ được một số tù binh nước ngoài đang ở Nga tham gia cuộc họp, cộng thêm Eberlain từ Đức đến với một vài người ngẫu nhiên nào đấy nữa. Gần một tuần lễ, cái nhúm người đó, chưa đầy ba chục mống, giống như một bọn âm mưu, bàn cãi nhau: nên lấy danh xưng cho cuộc họp như thế nào? Thế là nhúm người đó quyết định: cuộc họp là “hội nghị cộng sản quốc tế để thành lập Đệ Tam Quốc tế”. Tuyên ngôn ký tên 17 (!?) cái gọi là “đoàn đại biểu”, phần lớn là những kẻ vô danh tiểu tốt, và những người ngẫu nhiên nào đấy. Còn “Đại bách khoa toàn thư xô-viết” thì phịa thêm là đại hội thành lập Quốc tế cộng sản (QTCS – Komintern) hồi tháng 3.1919 tại Moskva “có mặt đại biểu của các ĐCS và các nhóm xã hội chủ nghĩa tả phái của 30 (!?) nước”! Lenin đặt nhiệm vụ chủ yếu cho QTCS là “đấu tranh giành chuyên chính vô sản thế giới”. Tại “đại hội” đó, mọi vấn đề đưa ra đều do Lenin và bộ chính trị (BCT) ĐCS bolshevik Nga quyết định trước cả. Lenin đã tự tay viết ra “21 điều kiện gia nhập QTCS” nhằm chọn lọc các đảng cho vào Quốc tế mới. Thâm ý của ông là muốn tạo cho QTCS một hình thức tổ chức chặt chẽ mà ông và ĐCS của ông có thể nắm chắc được ngay từ đầu. Do đó, những người lãnh đạo chủ chốt QTCS từ trước đến sau phần lớn đều là cán bộ của ĐCS bolshevik Nga hoặc là những tay chân trung thành với họ. Chủ tịch đầu tiên của Ban chấp hành QTCS (từ năm 1919) là Zinoviev, ủy viên BCT của ĐCS Nga, đến năm 1926 Zinoviev bị Stalin phế truất, và về sau bị hành quyết. Còn từ năm 1926 đến năm 1929, chủ tịch kế nhiệm là Bukharin, cũng là ủy viên BCT của ĐCS Nga, đến năm 1929 Bukharin cũng bị Stalin phế truất, và về sau cũng bị hành quyết. Nguyên tắc tổ chức của QTCS là tập trung dân chủ. Như vậy, mỗi ĐCS là một phân bộ (section) của QTCS, phải phục tùng nghiêm ngặt theo hệ thống dọc đến cấp cao nhất là Ban chấp hành QTCS, mà ban này thật ra chỉ là cái dù che đậy sự lũng đoạn của tập đoàn thống trị ĐCS Nga trong QTCS. Hơn nữa, tổ chức quốc tế này bị phụ thuộc hoàn toàn về mặt tài chính, cán bộ... vào TƯ ĐCS bolshevik Nga làm cho nó trở thành một công cụ hoàn toàn ngoan ngoãn để thực hiện những ý đồ của họ.
D.Volkogonov viết: “Ban lãnh đạo bolshevik tin tưởng một cách cuồng tín rằng chỉ cần đốt lên ngọn đuốc cách mạng thế giới ở Nga thì tòa nhà cũ kỹ rệu rã của nền văn minh nhân  loại giống như túp lều gỗ mục nát sẽ nhanh chóng bắt lửa và cháy bùng lên. Khi đọc diễn văn nhân dịp kỷ niệm năm thứ nhất thành lập  Đệ Tam Quốc tế tại phiên họp long trọng của Xô-viết Moskva ngày 6.3.1920, Lenin đã tuyên bố: “phải đoan chắc  (chữ in nghiêng của D.V.) rằng thắng lợi của cách mạng cộng sản là không thể nào tránh khỏi”. Lãnh tụ những người bolsheviks kết thúc bài diễn văn của ông ta bằng những lời sau đây trong tiếng vỗ tay hoan hô nhiệt liệt: “... thắng lợi của QTCS trên toàn thế giới, và trong một thời hạn không xa lắm – thắng lợi đó đã được bảo đảm” (14). Phải có một tầm mắt cận thị và vô trách nhiệm đến kỳ lạ mới có thể tung ra những lời tuyên bố kêu vang mà rỗng tuếch đến thế” (15).
Để gây đám cháy “cách mạng” ở các nước, Lenin và những người bolsheviks đã tung tiền của, vàng bạc cho các đảng tay chân ở các nước, đồng thời phái những nhóm “agents” (hoạt động viên) của mình  đem vũ khí, tài liệu tuyên truyền đến các nước đang có sự sục sôi trong dân chúng (Hungarie, Đức, Italia, Ba Tư (Persia), Ấn Độ, Trung Quốc...), rồi tổ chức các nhóm khủng bố để khích động phong trào, hòng lật đổ các chế độ hiện tồn và thiết lập chuyên chính vô sản, hay nói theo từ ngữ thời thượng của họ hồi đó là “xô-viết hóa các nước”. Họ đặc biệt chú ý hai nước láng giềng Hungarie và Đức đang có biến động. Và đến tháng 3.1919, nước Cộng hòa xô-viết Hungarie ra đời do lãnh tụ cộng sản Bela Kun đứng đầu. Lenin và những người bolsheviks Nga hân hoan cực độ. Lenin gửi điện nhân danh đại hội 8 ĐCS bolshevik Nga chào mừng với những câu như sau: “Đại hội đảng chúng tôi tin tưởng rằng chẳng bao lâu nữa chủ nghĩa cộng sản sẽ thắng lợi trên toàn thế giới. Giai cấp công nhân Nga sẽ dốc toàn lực vội vã giúp đỡ các bạn... Nước cộng hòa cộng sản quốc tế muôn năm!” . Ông còn gửi điện mật cho Bela Kun: “Hãy cứng rắn. Nếu trong số bọn xã hội chủ nghĩa hay bọn tiểu tư sản, mới theo các đồng chí ngày hôm qua, mà tỏ ra giao động đối với chuyên chính vô sản thì hãy đàn áp ngay không thương tiếc. Bị xử bắn  - đó là số phận đúng luật của tên hèn nhát trong chiến tranh” (16).
Chưa đầy một tháng sau ở Bavaria (Đức), một chính phủ do người cộng sản Evgheni Levine đứng đầu lên nắm quyền. Chính phủ này gấp rút tiến hành những nhiệm vụ cấp bách của chuyên chính vô sản: quốc hữu hóa các ngân hàng, thành lập Hồng quân, quy định ngày làm việc 8 tiếng, võ trang giai cấp vô sản, cô lập giai cấp tư sản. Lenin cũng vội vàng gửi điện ngay với một loạt chỉ thị như sau: “... đã võ trang công nhân chưa, đã tước võ khí của giai cấp tư sản chưa, đã tăng gấp đôi, gấp ba tiền công cho bần nông và lao công chưa, đã tịch thu toàn bộ giấy in và tất cả các nhà in chưa... đã dồn nhà ở của giai cấp tư sản ở Munich để cho công nhân dọn đến ở các nhà giàu chưa... đã bắt con tin của giai cấp tư sản chưa... đã động viên toàn thể công nhân  để phòng thủ và để tuyên truyền tư tưởng cho các vùng nông thôn lân cận chưa?” (17). Lenin gửi những phái viên của ông mang theo chỉ thị và những va li vàng đến ngay những nơi đang “xô-viết hóa” đó. Ông tin tưởng là cách mạng đã bắt đầu ở châu Âu, và cho rằng ngọn lửa cách mạng đang bùng cháy ở Đức. Ông đã bí mật chuẩn bị một đội quân do Toukhachevsky chỉ huy để thấm nhập vào Đức, nhưng quân chưa kịp vào thì cuộc biến động ở Bavaria đã bị dẹp yên. Điều mong ước về cách mạng bùng lên ở Đức đã được Trotsky bộc tuệch nói ra: “... nước Đức xô-viết thống nhất với nước Nga xô-viết thì ngay lập tức sẽ mạnh hơn tất cả các nước tư bản gộp lại!”. Trong óc của các lãnh tụ cộng sản Nga hiện lên giấc mơ rõ nét về một “Liên bang xô-viết Âu châu”, rồi một  “Liên bang cộng sản Thế giới” mà họ sẽ làm chủ. Chính tay Lenin đã ghi vào lời mở đầu của “Hiến pháp Liên Xô” (được công bố năm 1924) câu sau: “Nhà nước mới xô-viết là... một bước quyết định mới trên con đường thống nhất những người lao động tất cả các nước vào Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô-viết Thế giới”. Xin nhắc lại một lần nữa: thực chất của PTCSQT là thế đó!
Thế nhưng, cả ở Hungarie lẫn ở Bavaria, chính quyền xô-viết đã sụp đổ, và châu Âu, châu Mỹ – nơi thực tế có giai cấp vô sản – thì yên ổn, các lãnh tụ Moskva bèn hướng về phương Đông: Ấn Độ, Trung Quốc, Mông Cổ, Triều Tiên... Nhưng sau sự kiện Hungarie và Bavaria thì “cuộc cách mạng thế giới” mà Lenin đã tiên đoán “rất thiên tài” cứ tàn lụi dần. May thay cho nhân loại, cái mộng tưởng của Lenin và những người bolsheviks Nga đốt lên đám cháy cách mạng thế giới, thành lập “Liên bang xô-viết Âu châu”, “Liên bang cộng sản Thế giới” chỉ là ảo mộng còn nằm lại trên những bài báo, những chỉ thị của họ mà thời gian đã phủ lên một lớp bụi dày. Trong lúc đó, đã xảy ra chuyện oái ăm của lịch sử: “Liên hiệp Âu châu” với đủ mọi cơ cấu, kể cả nghị viện, tòa án, đồng Euro... đang hoạt động hữu hiệu mà lại không do những người cộng sản bolsheviks Nga lập ra và không có chuyên chính của giai cấp vô sản!
D. Stalin đối với ĐCS và QTCS

Ở đây, người viết sẽ chỉ nói một vài sự kiện cụ thể làm nổi bật thái độ và hành động của kẻ độc tài với ĐCS và QTCS, mà không nhắc đến những quan điểm thường được tán tụng trên sách báo chính thức của ĐCSLX (vì thật ra Stalin chỉ lặp lại những điều Lenin nói).
Đối với ĐCS:

Khi Lenin còn sống, Stalin đã thấy rất rõ toàn bộ tính chất lợi hại của bộ máy đảng-nhà nước xô-viết với tính cách một công cụ sắc bén, ngoan ngoãn trong tay một nhúm người để thống trị đất nước và xã hội. Cho nên khát vọng mãnh liệt nhất của ông là nắm bằng được bộ máy ấy để thu tóm được toàn bộ quyền lực tối thượng trong nước và xã hội. Trên thực tế, Stalin không đưa ra một quan điểm “lý luận”  nào khác những điều ông đã thừa kế của Lenin về ĐCS và về chế độ cực quyền xô-viết mà Lenin đã đặt cơ sở, còn ông thì “hoàn thiện” chúng đến cao độ khi trị vì trên một đế quốc rộng lớn nhất thế giới.
Để nói về quan điểm “lý luận” riêng của Stalin về ĐCS, người ta thường nhắc tới lời tuyên bố sau đây của ông: “ĐCS cũng là một loại như  giáo đoàn những chevaliers de l’ordre des Porte-Glaive” (18), (các bản dịch ra tiếng Việt đều ghi là “đoàn kỵ sĩ mang kiếm”, không rõ nghĩa lắm, nên xin phép dùng nguyên tiếng Pháp với vài lời giới thiệu. - NMC). Xin nói qua vài nét lịch sử. Giáo đoàn này gồm những hiệp sĩ Đức được thành lập năm 1202 để xâm  chiếm vùng Đông Baltic và sau đó tiến công vào lãnh thổ Nga. Tên như thế là do phù hiệu của họ trên mũ giáp là một thanh kiếm và thánh giá. Đến năm 1236, giáo đoàn bị đánh bại nặng nề và năm 1237 tàn quân nhập vào một giáo đoàn khác. Vì thế sự ví von này của Stalin lộ rõ ý đồ “quân sự hóa đảng” để thực hiện âm mưu bành trướng. Điều này thể hiện rõ nét nhất từ những năm 30 dưới thời Stalin – đảng cộng sản đã là một “tổ chức quân sự hóa” đến cao độ và hoàn toàn mất hết những dấu vết dân chủ ít ỏi còn sót lại trước đây. Tại hội nghị trung ương đảng hồi tháng 2.1937, tức là trong thời kỳ đại khủng bố ác liệt nhất, Stalin tuyên bố: “Trong đảng ta, có 3­­-4 ngàn người lãnh đạo cao cấp, có thể nói đó là hàng tướng lĩnh của đảng. Sau đó, là  30-40 ngàn người lãnh đạo trung cấp, đó là hàng sĩ quan của đảng. Rồi đến khoảng 100-150 ngàn cán bộ chỉ huy cấp dưới. Có thể nói đó là những hạ sĩ quan của đảng” (19). Cố nhiên, tổng tư lệnh tối cao “đạo quân” đó là Stalin.
Một lời tuyên bố khác của Stalin nữa cũng rất đáng được chú ý vì nó lộ rõ tư tưởng thật của kẻ độc tài: “ĐCS là công cụ của chuyên chính vô sản” (20). Công cụ như thế nào, sau này lịch sử đã chứng tỏ. Và quan điểm của Stalin về “chuyên chính vô sản” như thế nào thì xin bạn đọc hãy suy xét qua câu nói sau đây của ông ta mà Boris Bazhanov, cựu thư ký riêng của Stalin (từ 9.8.1923 đến 1.1.1928), đã kể lại trong hồi ký: ngày 17.6.1924, tức là sau đại hội 12,  Stalin đọc báo cáo ở lớp huấn luyện các bí thư huyện ủy, ông ta đã nói thẳng rằng: “hiện nay chuyên chính vô sản về thực chất được thay thế bởi chuyên chính của đảng (21). Nếu nói trắng ra thì chuyên chính của đảng có nghĩa là chuyên chính của một người: Stalin. Vì thế, ông ta phải chiến đấu để giành quyền chuyên chính đó.
Sau đây, chỉ xin nói đến mấy việc:
a. Giành cho bằng được vị thế chính thống để “nối ngôi” và nắm lấy ĐCS.

Đọc tiểu sử Stalin, ta thường gặp những nhóm từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần -“Stalin là người bạn chiến đấu gần gũi nhất của Lenin”, “người học trò kiệt xuất của Lenin”, “người kế tục sự nghiệp của Lenin”,  hoặc thường được nghe kể nhiều về “tình bạn vĩ đại giữa hai lãnh tụ” trước cuộc đảo chính tháng 10.1917. Những điều đó là sự xuyên tạc lịch sử có dụng ý.
“Tình bạn vĩ đại” như thế nào? Sự thật là trước tháng 10.1917, đối với Lenin thì Dzhugashvili-Stalin  chỉ là một người nào đấy trong đám “những người cách mạng chuyên nghiệp” mà thôi. Tháng 12.1905, Stalin đi họp hội nghị đảng ở Tammerfors và ở đấy có Lenin đến dự họp. Trước tháng 10.1917, cũng có vài lần Stalin được đi dự đại hội đảng và có gặp Lenin, nhưng Lenin cũng chẳng để ý. Thế mà sau này (1931),  Stalin lại “phịa” là: “Bao giờ cũng vậy, mỗi lần tôi đi ra nước ngoài để gặp Lenin – hồi năm 1906, 1907, 1912, 1913...” (22). Hồi năm 1915, Lenin cũng chỉ nhớ mang máng ai đó có bí danh là “Koba” ở trong nhóm khủng bố của đảng bolshevik vùng Caucase. Ông nhớ vì có một việc “động trời” hồi năm 1907 ở thành phố Tiflis (sau này là Tbilisi), Koba (tức là Dzhugashvili-Stalin) đã tham gia  cùng Kamo một vụ ăn cướp tiền lớn (những người bolsheviks gọi những cuộc ăn cướp này là “tước đoạt” – dựa theo khẩu hiệu của Marx “tước đoạt kẻ đi tước đoạt”)  đến 350 ngàn rúp để “làm tài chính” cho đảng bolshevik. Hồi đó, những người bolsheviks ở Gruzia (còn gọi là Georgia) nhiều lần đã làm việc “tước đoạt” như thế, nhưng vụ năm 1907 là lớn nhất.  Để hiểu rõ hơn sự thật về “tình bạn vĩ đại” giữa Lenin và Stalin, xin trích dẫn một bức thư của Lenin gửi Zinoviev hồi năm 1915 đăng trong tập 49 bộ Lenin Toàn tập, trong thư Lenin hỏi Zinoviev: “Anh có nhớ họ của Koba không?”. Zinoviev viết thư trả lời là không biết. Lúc đó Lenin mới viết thư cho Karspinsky để hỏi về điều đó: “Tôi thiết tha yêu cầu anh tìm hiểu (có thể hỏi qua Stepko hay Mikha và v.v...) họ của “Koba” (Iosip Dz... ?? Chúng tôi quên mất)...” (23). Tài liệu lịch sử đó cho thấy “tình bạn vĩ đại giữa hai lãnh tụ” trước tháng 10.1917 chỉ là huyền thoại, dù rằng giữa hai người sau đó thỉnh thoảng cũng có trao đổi thư từ với nhau.
Cả sau khi những người bolsheviks đã cướp được chính quyền, “tình bạn vĩ đại” đó giữa hai “lãnh tụ” cũng không có. Đây là một sự việc nữa mà ban lãnh đạo cộng sản Liên Xô cứ giấu kín mãi cho đến ngày khai mạc đại hội 20 (1956). Khi Lenin bị ốm nặng, Stalin cho tay chân theo dõi sát “người thầy vĩ đại” của mình, thậm chí đưa cả vợ là Nadezhda Allilueva đến làm thư ký riêng cho Lenin. Biết  Lenin hồi đó đang viết “cái gì đấy” có lẽ là không có lợi cho mình, Stalin lấy cớ Lenin ốm nặng, đưa ra  BCT thông qua nghị quyết hạn chế việc thông báo tình hình chính trị cho Lenin, hạn chế việc ghi chép giúp Lenin những điều do ông đọc ra... Có một lần, ngày 21.12.1922, Lenin muốn viết thư cho Trotsky, ông mới nhờ vợ là Krupskaya ghi bức thư ngắn do ông đọc. Bà vợ đã cẩn thận xin phép bác sĩ của Lenin rồi mới làm việc này. Đến khi Stalin biết được, Stalin đã mắng Krupskaya một trận cực kỳ thô bỉ, lại còn dọa trừng trị bằng kỷ luật đảng. Ngày 23.12.1922, Krupskaya viết thư cho Kamenev và Zinoviev – theo lời bà – “là những người bạn gần gũi nhất của Ilich” (tức là Lenin – NMC) để cầu cứu sự bảo vệ. Hai tháng rưỡi sau, Lenin biết được chuyện này, ngày 5.3.1923, ông đã viết thư cho Stalin một bức thư với lời lẽ như sau: “... Tôi không thể dễ dàng quên được việc đó, và chẳng cần nói gì thì đồng chí cũng phải hiểu là những gì chống lại vợ tôi, tôi cũng coi như chống lại tôi. Vì thế, tôi yêu cầu đồng chí cân nhắc xem đồng chí có sẵn sàng rút lui những lời đã nói và xin lỗi vợ tôi hay là muốn đoạn tuyệt mọi quan hệ giữa chúng ta” (24).
Không phải là “bạn” của Lenin, cũng không phải là một trong những lãnh tụ nổi bật nhất của đảng bolshevik, thế thì tại sao “quyền trượng” lại “lọt” vào tay Stalin sau khi Lenin qua đời? Đây là một vấn đề lịch sử với nhiều tình tiết. Nhưng trong phạm vi bài này chỉ xin đề cập tới những vấn đề liên quan đến phương diện tổ chức của ĐCS mà thôi.
Hồi còn sống, Lenin không có chức vụ gì khác trong đảng, ngoài chức vụ ủy viên BCT, còn về mặt chính quyền ông là chủ tịch Hội đồng dân ủy. Nhưng ông là cha đẻ của ĐCS bolshevik, nên về mặt tinh thần ông có vị trí cao nhất trong đảng và ông cứ mặc nhiên sử dụng cái vị thế đó. Lãnh tụ đứng thứ hai sau Lenin hồi đó là Trotsky. Kamenev và Zinoviev cũng là những lãnh tụ được Lenin đánh giá cao, Kamenev là ủy viên BCT, phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng dân ủy, Zinoviev là ủy viên BCT, chủ tịch Ban chấp hành (BCH) QTCS. Còn Stalin, vào cuối đời Lenin, đã được bầu làm tổng bí thư TƯ đảng vào ngày 3.4.1922. Nhưng hồi đó chức vụ tổng bí thư  chỉ có chức năng tổng hợp các vấn đề để đưa ra BCT giải quyết và điều khiển bộ máy hành chính, văn phòng  của TƯ. Lenin cần một người tổ chức công việc của bộ máy TƯ đảng. Vì quan niệm chức năng của tổng bí thư như thế, nên chính Kamenev và Zinoviev đã nhường cho Stalin chức vụ đó. Nhưng khi Stalin đã là tổng bí thư trung ương đảng rồi thì ít lâu sau, Lenin lại thấy rất lo ngại, ông muốn đại hội 13 đưa Stalin ra khỏi chức vụ tổng bí thư, thay bằng một người khác. Dù đang bị ốm nặng, hồi tháng 12.1922, đã Lenin đọc cho thư ký viết một bức thư gửi đại hội đảng và yêu cầu chỉ được bóc ra sau khi ông chết, vì thế sau này người ta gọi nó là “di chúc chính trị của Lenin”. Trong thư có đoạn viết: “Stalin là người thô lỗ quá đáng, và nhược điểm này – hoàn toàn có thể chịu đựng được giữa chúng ta với nhau và trong quan hệ giữa những người cộng sản – nhưng không thể chấp nhận được trong cương vị tổng bí thư đảng. Vì thế, tôi đề nghị các đồng chí hãy suy nghĩ để chuyển Stalin ra khỏi trọng trách ấy. Hãy cử vào vị trí của Stalin một đồng chí khác, có tính nết tốt hơn Stalin: kiên nhẫn hơn, trung thực hơn, lịch sự hơn và chu đáo hơn đối với các đồng chí, tính khí ít thất thường hơn, v.v...” (25).
Khi Lenin qua đời, chức vụ tổng bí thư đã ở trong tay Stalin, nên việc đầu tiên ông ta phải làm là làm sao giành được vị thế “chính thống” để được “nối ngôi”. Muốn thế phải gạt cho được nhân vật thứ hai sau Lenin ra khỏi việc tổ chức và tiến hành tang lễ của Lenin. May cho Stalin là khi Lenin chết, Trotsky đang còn bận công tác ở miền Nam nước Nga. Stalin ra lệnh điện cho Trotsky báo sai ngày cử hành tang lễ cốt để Trotsky về Moskva sau khi tang lễ đã xong. Stalin quyết định làm những nghi lễ vô cùng trọng thể và ông giành được việc đọc diễn văn trong tang lễ để xác nhận trước toàn đảng, toàn dân sự thừa kế chính thức ngôi vị của Lenin. Trong việc kế vị này, Stalin tỏ rõ là người hiểu biết trình độ văn hóa thấp kém và tâm lý sùng bái lãnh tụ của đảng viên và dân chúng Nga. Trong bài diễn văn trước thi hài Lenin, Stalin lặp đi lặp lại đến bảy  lời thề theo một lối rất “tôn giáo” gây xúc động cho nhiều người (chắc nhiều người còn nhớ, năm 1969, Lê Duẩn cũng bắt chước Stalin đọc năm lời thề với văn phong y hệt như vậy trước quan tài Hồ Chí Minh), nên trước mắt dân chúng và toàn đảng, ai cũng mặc nhiên thấy ngay chính Stalin là người có tư cách “chính thống” duy nhất để nhận lãnh “quyền trượng” và “ngai vàng” trên đất nước Nga. Đến khi Trotsky trở lại Moskva thì mọi việc đều đã an bài đâu vào đấy rồi: Stalin đã thâu tóm toàn bộ quyền lực trong tay mình.
Cố nhiên, Stalin còn phải đối phó với bức thư của Lenin gửi đại hội 13 của đảng. Trước đây, Lenin đã phòng trước sự theo dõi của Stalin, nhưng ông không ngờ là người nữ thư ký L.Fotieva của ông lại là tay chân của Stalin. Lenin đã dặn dò bà ấy và Krupskaya phải tuyệt đối giữ bí mật bức thư, chỉ bóc nó và đưa ra khi đại hội đảng khai mạc. Nhưng Fotieva đã kịp báo ngay cho Stalin về nội dung bức thư. Thế là  với sự “lèo lái” khéo léo của Stalin, hội nghị TƯ đảng dưới sự chủ tọa của ông, họp ngày 22.5.1924 đã quyết định không đưa “thư gửi đại hội” ra thảo luận ở đại hội 13 nữa. Trước đó, Stalin còn “đóng kịch” vờ vĩnh xin từ chức tổng bí thư đề mọi người nài kéo ông ta ở lại.
Khi đã nắm toàn bộ quyền lực rồi, Stalin tìm mọi cách làm cho dư luận trong và  ngoài đảng đều coi ông là người bạn chiến đấu gần gũi nhất của Lenin từ những năm đầu tiên xây dựng đảng và là người duy nhất hợp pháp để kế tục sự nghiệp của Lenin, đồng thời tìm mọi cách thanh trừng các địch thủ của ông, thậm chí tiêu diệt họ cả về thể xác và đưa tay chân của mình vào cơ quan lãnh đạo tối cao của đảng.
b. Biến ĐCS thành  công cụ hoàn toàn ngoan ngoãn trong tay Stalin

Có một số người cộng sản nghĩ rằng giá như sau khi Lenin qua đời, quyền bính lọt vào tay người khác thì chế độ xô-viết đã không phải là chế độ chuyên chế cực quyền đảng trị khủng khiếp như vừa qua, và lịch sử nước Nga đã không ghi tên kẻ độc tài đẵm máu Stalin-Dzhugashvili. Không phải thế! Với một ĐCS dựa trên một ý thức hệ như thế, tổ chức theo những nguyên tắc như thế, với mục tiêu và phương pháp hành động như thế thì  không thể nào không đẻ ra chế độ độc tài toàn trị, không thể nào không đẻ ra những tên độc tài đẵm máu. Nếu không có một Stalin-Dzhugashvili thì sẽ có một “stalin” khác, có thể không khát máu bằng Stalin-Dzhugashvili, nhưng vẫn là một kẻ độc tài chính cống. Vả lại, cũng cần nói thẳng rằng chính Lenin cũng là một kẻ độc tài độc ác đầu tiên đã đặt nền móng cho chế độ cực quyền toàn trị cộng sản để Stalin thừa kế.
Sau khi chính thức kế thừa ngôi vị của Lenin, việc đầu tiên Stalin làm là nắm chắc ngay bộ máy đảng và bộ máy công an mật vụ (hồi đó vẫn gọi là Vecheka, về sau mới đổi tên nhiều lần). Rồi Stalin dựa vào bộ máy công an mật vụ đó để vu khống, bao vây, đàn áp, triệt hạ dần các cán bộ cốt cán của ĐCS dưới thời Lenin, đồng thời là những địch thủ của ông trong đảng. Stalin dùng chiến thuật liên kết với một số người để cô lập và đánh đổ từng đối tượng, rồi đưa tay chân mình vào thay thế chỗ trống, sau đó quay lại hạ uy thế những người vừa mới liên kết, rồi đánh đổ họ, cứ như thế đến khi bộ máy đảng-nhà nước thật sự trở thành “công cụ” riêng của ông. Đối với các địch thủ, Stalin không chỉ đánh đổ họ về mặt chính trị, mà thường tìm cách tiêu diệt cả về thể xác để trừ hậu họa. Trong thời kỳ đầu, TƯ đảng, cũng như đại hội đảng họp tương đối đều đặn vì Stalin cần dựa vào danh nghĩa đảng, dùng sức mạnh toàn đảng để triệt hạ địch thủ của mình.
Hỏa lực đại pháo trước tiên tập trung vào nhân vật đứng thứ hai sau Lenin, tức là Trotsky, “đại công thần” đã từng gánh vác những việc nặng nề nhất để dựng lên chế độ xô-viết.Trotsky từng làm bộ trưởng ngoại giao, bộ trưởng quốc phòng và hải quân, chủ tịch Hội đồng quân sự cách mạng, người thành lập Hồng quân. Mấy kỳ đại hội liền kể từ đại hội 13 (5.1924), 14 (12.1925), 15 (12.1927) Stalin đều nhằm triệt hạ Trotsky – đến năm 1926 Trotsky đã bị khai trừ khỏi đảng, năm 1928 - bị trục xuất khỏi Liên Xô. Để đánh Trotsky, Stalin lúc đầu liên kết với Kamenev và Zinoviev, hai ủy viên BCT. Khi Trotsky đã bị đánh bại về chính trị rồi, thì ngay trong năm 1926, đến lượt Zinoviev, lúc bấy giờ là ủy viên BCT, chủ tịch đầu tiên của BCH  QTCS: Zinoviev bị ghép chung vào khối với Trotsky để đánh tại đại hội 15 (1927). Triệt hạ xong Zinoviev, Stalin lại quay ra đánh Kamenev. Đến năm 1926, ba ủy viên BCT dưới thời Lenin, là Trotsky, Kamenev và Zinoviev, đã vĩnh viễn rời khỏi võ đài chính trị. Cũng năm đó Dzherzhinsky qua đời.  Còn lại Bukharin, người  được  Lenin gọi là “con cưng của đảng”. Khi vị thế của Stalin vững vàng rồi thì đến lượt Bukharin, ủy viên BCT, chủ tịch BCH QTCS (thay thế Zinoviev từ năm 1926) bị đánh. Về sau cả ba “đại công thần” nữa là Kamenev, Zinoviev và Bukharin đều bị hành quyết trong cuộc đại khủng bố, còn Trotsky thì Stalin phái tay sai ám sát tại Mexico hồi năm 1940. Stalin đưa vây cánh của mình hết lớp này đến lớp khác vào các cơ quan lãnh đạo của bộ máy đảng-nhà nước. Cứ thế, những cán bộ bolsheviks  của đảng Lenin, những “đại công thần” đã dựng lên bộ máy đảng-nhà nước và chế độ cực quyền xô-viết chưa hoàn toàn chịu khuất phục hoặc không chiếm được lòng tin của vị chúa tể mới, thì cứ lần lượt hết lớp này đến lớp khác đều bị triệt hạ. Cố nhiên, có phản ứng chống lại. Nhưng vì nguyên tắc tập trung dân chủ của đảng-nhà nước loại trừ mọi tính chất dân chủ, nên bất cứ sự phản ứng nào của những người trung thực cũng đều bị vu khống, bị quy kết vào những tội danh “chết người” và bị đàn áp khủng bố vô cùng ác liệt. Bộ máy công an mật vụ được “bật đèn xanh” để vu khống, tra tấn, đánh lừa, dựng lên những hồ sơ giả mạo, rồi bày ra những vụ án khủng khiếp trong “cuộc đại khủng bố” hồi những năm 1937-1938 và hành quyết nhiều ủy viên BCT, nhiều cán bộ đảng viên là “đại công thần” của chế độ xô-viết.
Cần nói thêm về sự kiện này, vì nó là nguyên cớ cho trận đại khủng bố nói trên. Tại đại hội 17 của đảng (tháng 1-2.1934), một số cán bộ kỳ cựu của đảng Lenin đã cố làm một hành động, mà nhiều nhà sử học coi như là trận đánh quyết định chống Stalin và phe cánh: một nhóm đại biểu trong đại hội, do B.Sheboldaev và I.Vareikis thay mặt, đã đề nghị S.Kirov ra ứng cử vào chức vụ bí thư TƯ đảng, họ đề nghị bỏ chức vụ tổng bí thư và chuyển Stalin vào chức vụ chủ tịch Hội đồng dân ủy. Theo lời của A.Mikoyan kể lại tại đại hội 20 (1956), Kirov đã thẳng thắn báo trước chuyện đó cho Stalin, mặc dù vậy Stalin càng thêm nghi ngờ Kirov. Tại đại hội 17, Stalin và phe cánh đã dùng  OGPU (tên của cơ quan công an mật vụ thời đó - NMC) để theo dõi đại hội đảng. Đến khi bầu các cơ quan lãnh đạo thì Stalin là người bị phiếu chống nhiều nhất. Cũng theo lời Mikoyan, khi kiểm phiếu thấy thế, chủ tịch ban kiểm phiếu là Zatonsky lo lắng, đến báo cáo ngay với Kaganovich, ủy viên BCT là tay chân của Stalin. Kaganovich cương quyết ra lệnh chỉ được ghi ba phiếu chống Stalin mà thôi. Theo lời của Mikoyan và Shatunovskaya, một phần số phiếu đã bị Kaganovich lấy mất, không còn trong hồ sơ đại hội nữa. Sau đại hội 20, ủy ban điều tra của BCT báo cáo là trong hồ sơ đại hội thiếu mất 166 phiếu, như vậy chứng tỏ là có kẻ muốn phi tang việc gian lận phiếu bầu. Một số đại biểu hồi đó còn sống sót khai rằng đại hội đã dành sự tín nhiệm cao nhất cho Kirov. Rõ ràng đây là sự gian lận trắng trợn nhất trong lịch sử các ĐCS, chứng tỏ tên độc tài đã coi ý chí của đại hội –  cơ quan cao nhất của đảng – chẳng ra cái gì cả!
Một vấn đề cấp bách đặt ra cho kẻ độc tài - muốn nắm giữ quyền lực thì phải trừ ngay kẻ cạnh tranh. Ngày 1.12.1934, Kirov bị ám sát ở Leningrad. Kẻ sát nhân trực tiếp bắn vào Kirov là Leonid Nikolaev bị bắt và xử tử. Vợ, anh em, bạn bè của y cũng bị giết sạch. Kẻ thủ mưu vụ này thì... không ai biết được! Vụ này mãi mãi vẫn còn là một “mảng tối” của lịch sử. Tuy nhiên, điều rõ ràng là Stalin đã lợi dụng ngay vụ ám sát này để dựng lên một loạt “vụ án” chính trị, đem xử công khai hàng loạt ủy viên BCT, ủy viên TƯ và cán bộ cao cấp dưới thời Lenin, dựa trên những hồ sơ và bằng chứng giả mạo. Stalin cho phép tra tấn để lấy khẩu cung, lập hồ sơ, rồi tự mình phê duyệt án tử hình đối với các ủy viên BCT, như Zinoviev, Kamenev, Radek, Piatakov, Bukharin, Rykov, Tomsky (ông này đã tự tử trước), v.v..., hai chủ tịch và nhiều ủy viên BCH QTCS, nhiều “đại công thần” của chế độ xô-viết, nhiều tướng lĩnh (ba nguyên soái là Toukhachevsky, Blucher, Egorov, nhiều đại tướng, như Alknis, Bielov, Kachirin, Kork, Ouborevitch, Eideman, Feldman, Primakov, Putna, v.v... nhiều đô đốc hải quân, như  Orlov, Viktorov, Sivkov, v.v...) và nhiều cán bộ cấp cao khác của đảng-nhà nước và quân đội. Họ đều bị ghép tội “phản cách mạng”, thậm chí “gián điệp”, “tay sai của nước ngoài”. Hàng triệu cán bộ, đảng viên, những nhà trí thức, nhân sĩ, nhiều sĩ quan cao cấp, các quân nhân, những người bình thường đã bị bắt bớ, bắn giết hoặc bị quẳng vào các trại tập trung giăng khắp Liên bang xô-viết, gọi là GULAG. Đấy, Stalin đã trả thù việc đại hội 17 định phế truất ông ta như vậy đó.
Trong bản báo cáo bí mật tại đại hội 20, Khrutshev đã cho biết: “Cuộc điều tra cho thấy: 98 người trong số 139 ủy viên TƯ chính thức và dự khuyết do đại hội 17 bầu ra, tức là 70%, đã bị bắt và bị xử bắn (phần lớn vào những năm 1937-38)”... và: “Không những các ủy viên TƯ, mà đa số đại biểu dự đại hội 17 của đảng cũng chịu chung số phận. Trong số 1961 đại biểu chính thức và dự bị thì 1108 người bị bắt và ghép tội phản cách mạng, tức là hơn một nửa số đại biểu đại hội (tính chính xác là 56,5% - NMC). Sự kiện này tự nó vạch rõ tính chất kỳ quái và ngược đời của những lời buộc tội “phản cách mạng” gán cho đa số đại biểu đại hội”. Khrutshev đã cho biết là 80% đại biểu đại hội 17 đã vào đảng trong thời kỳ bí mật, trước tháng 10 năm 1917, đã tham gia nội chiến, nghĩa là trước năm 1921, còn về nguồn gốc xã hội thì 60% là công nhân, lao động. Trên thực tế, Stalin đã tiêu diệt ĐCS của Lenin và dựng lên ĐCS của mình.
Sau cuộc “đại khủng bố” 1937-1938, ĐCS đã hoàn toàn trở thành một công cụ ngoan ngoãn trong tay của Stalin. Từ đó, chúng ta càng thấy rõ thái độ trịch thượng, coi thường của kẻ độc tài đối với ĐCS. Nếu trước đây, Stalin thấy cần thiết họp đại hội, họp TƯ đảng hay BCT tương đối đều kỳ chẳng qua chỉ để dựa thế vào cái “cơ chế dân chủ trong nội bộ đảng” nhằm đè bẹp và tiêu diệt những địch thủ của mình, còn bây giờ cái gọi là “sinh hoạt dân chủ” của ĐCS không còn cần thiết cho ông ta nữa: ông đã là chủ của ĐCS rồi. Đây là một ví dụ rất dễ thấy. Khoảng cách giữa đại hội 14 và 15 là 2 năm (1925-1927),  giữa đại hội 15 và 16 là 3 năm (1927-!930), giữa đại hội 16 và 17 là 4 năm (1930-1934), giữa đại hội 17 và 18 là 5 năm (1934-1939), giữa đại hội 18 và 19, đại hội cuối đời của Stalin, là 13 năm (1939-1952). Và hội nghị TƯ đảng thì rất ít họp, đặc biệt từ hội nghị TƯ tháng 2.1947 bàn về nông nghiệp mãi đến 5 năm sau, tháng 8.1952 mới có hội nghị TƯ tiếp theo để bàn về đại hội 19 của đảng (26). Còn BCT thì hầu như không khi nào họp đủ thành phần. Những quyết nghị của BCT được thực hiện chủ yếu bằng cách lấy chữ ký các ủy viên dưới văn bản dự thảo do Stalin sai người chuẩn bị sẵn. “Dân chủ” kiểu này thì ai mà dám không “tán thành” ý kiến của “lãnh tụ”!
Đấy, ĐCS theo quan niệm của Marx cuối cùng đã biến hóa (metamorphose) thành “công cụ”, “kẻ đầu sai” trong tay tên độc tài thực tế đã ngồi chồm hổm trên đầu ĐCS. Còn chế độ cộng sản mà Marx và Engels mô tả và Lenin khẳng định là “một triệu lần dân chủ hơn các chế độ dân chủ tư sản” thì hóa ra là một chế độ độc tài chuyên chế nhất trong lịch sử mang nặng tàn dư phong kiến, chế độ nông nô, thậm chí chế độ chiếm hữu nô lệ! Người viết không nói ngoa tí nào. Xin các bạn cứ nghĩ xem, việc ướp xác lãnh tụ để tôn thờ, có phải là thứ văn hóa pharaon thời cổ đại không? Việc bắt hàng 5 triệu người, có năm lên đến 7 triệu (ở đây, người viết dẫn số liệu “thận trọng nhất” của các sử gia Nga, còn các nhà nghiên cứu nước ngoài thì cho số liệu cao hơn, thấp nhất là 8 triệu, cao nhất là 15 triệu, còn theo báo cáo của chính phủ Anh tại Hội đồng Kinh tế và Xã hội của LHQ ngày 15.8.1950 thì 10 triệu)  (27) nhốt vào các trại tập trung để khai thác triệt để lao động không công của những tù nhân này, có phải là hình thức bóc lột của chế độ chiếm hữu nô lệ không? Việc tổ chức các tòa án chính trị hồi những năm 30, có phải là áp dụng mẫu mực của các tòa án giáo hội (inquisition) thời Trung cổ không? Việc Stalin không cho nông dân được có giấy thông hành (tiếng Nga là passport) để buộc chân nông dân, không cho rời khỏi nông thôn có phải là chế độ nông nô không? Cái kiểu tôn ty trật tự trong ĐCS và chế độ xô-viết với những đặc quyền đặc lợi quái gỡ nhất, có phải là tàn dư của văn hóa phong kiến hay không?
Hồi đầu thế kỷ 20, Plekhanov đã từng cảnh báo những người cách mạng Nga rằng trong điều kiện nước Nga còn lạc hậu, nền công nghiệp chưa phát triển cao, giai cấp vô sản công nghiệp chưa trưởng thành mà đòi làm cách mạng vô sản thì nhất định không tránh khỏi đưa đến một chế độ độc tài không hạn chế. Lời cảnh báo linh nghiệm biết bao đã bị Lenin và những người bolsheviks gạt bỏ!
Đối với QTCS và PTCSQT:

Càng ngày Stalin càng thấy rõ “tiên đoán thiên tài” của Lenin về cách mạng vô sản thế giới sắp bùng nổ là chuyện vớ vẩn, viễn vông. Nhưng ông ta cũng còn cần  mạng lưới tay sai ở các nước, cho nên vẫn gắng gượng duy trì QTCS trong chừng mực cần thiết cho đường lối chính trị của ông. Vì thế, tiền, vàng, châu báu đổ ra để cấp cho tổ chức này tuy vẫn tiếp tục như trước, nhưng khối lượng ngày càng giảm bớt. Hơn nữa, Stalin e ngại tổ chức này có thể là “hang ổ” cho những lực lượng đối lập chống lại ông, vì hai chủ tịch BCH QTCS là Zinoviev (1919-1926) và Bukharin (1926-1929) và nhiều cán bộ QTCS đã bị ông hành quyết, nên ông cũng muốn sớm kết liễu tổ chức này. Không phải Stalin không còn ý định chinh phục thế giới nữa, nhưng ông tính làm việc đó bằng cách khác, thông qua cơ quan công an mật vụ, mạng lưới gián điệp, cùng với sự liên hệ trực tiếp với các nhóm khủng bố, các ĐCS đã hình thành trên các nước và được Liên Xô nuôi dưỡng, đào luyện. Chính Dimitrov, chủ tịch cuối cùng của BCH QTCS cũng cảm thấy thái độ lạnh nhạt của Stalin đối với tổ chức mà ông đang phụ trách, nên cũng “tự nguyện” đề nghị giảm bớt “chức năng” của QTCS đi. Đến năm 1943, Stalin vin cớ cần làm yên lòng các nước đồng minh để mở rộng mặt trận chống phát xít, đã tự ý tuyên bố giải tán QTCS mà chẳng thấy cần phải tuân theo “nghi thức dân chủ” của một tổ chức quốc tế “độc lập”. Còn Dimitrov, chủ tịch BCH QTCS, thì được chuyển sang làm trưởng ban đầu tiên của Ban quốc tế của TƯ ĐCSLX (28). Trong cung cách Stalin giải tán QTCS, ta thấy rõ toàn bộ tính chất bù nhìn, bung xung, đầu sai của tổ chức này.
Đến năm 1947, Stalin thấy cần có một tổ chức quốc tế để phối hợp lực lượng cộng sản thế giới dưới sự chỉ huy của ĐCSLX, hơn nữa ông ta muốn các ĐCS cầm quyền, nhất là ở Đông Âu, đều thống nhất (unification) chế độ của mình theo một mẫu mực chung, nên mùa thu năm ấy một tổ chức bao gồm 9 ĐCS Âu châu (Liên Xô, Nam Tư, Bulgaria, Rumanie, Hungaria, Ba Lan, Tiệp Khắc, Pháp và Ý) gọi là “Cục thông tin quốc tế” (Kominform) đã được lập ra. Có thể nói, Kominform có tham vọng trong chừng mực nào đó kế tục sự nghiệp của QTCS (Komintern).
Cái mẫu mực chung mà Stalin muốn phổ biến cho các nước dưới quyền cai trị của các ĐCS cố nhiên là mô hình xô-viết. Nhưng Tito và một số lãnh tụ ĐCS ở Đông Âu ngay từ đầu đã cảm thấy không thể rập khuôn theo mô hình chế độ xô-viết được. Gomulka hồi đó đã nói đến “con đường Ba Lan” tiến tới chủ nghĩa xã hội; những người cộng sản Bulgaria cũng nói khéo nước họ là “cộng hòa nhân dân” chứ không phải là “cộng hòa xô-viết”; nhà hoạt động Hungarie Rivai nói: ở Hungarie mà tính chuyện thành lập nông trang tập thể (kolkhoz), tức  là “việc làm của bọn khiêu khích và phá hoại”... Một điều nên nhắc lại là sau thế chiến thứ hai, uy tín của Tito và ĐCS Nam Tư  (tên chính thức là Liên minh những người cộng sản Nam Tư) rất lớn, chỉ đứng sau Stalin và ĐCSLX mà thôi. Vì ĐCSNT dưới sự lãnh đạo của Tito đã kiên cường “đơn thương độc mã” chiến đấu chống quân phát xít Đức-Ý và tự mình giải phóng đất nước. Cho nên lúc đầu trong Kominform ảnh hưởng của ĐCSNT khá lớn. Điều  đó, cố nhiên, không làm Stalin thích thú. Hơn nữa, Stalin muốn ép Nam Tư  rập khuôn theo mẫu mực xô-viết của mình và gặp phải sự chống đối của Nam Tư. Đó là nguồn gốc sâu xa của những xung đột giữa Stalin và Tito, giữa hai ĐCS và hai nước Liên Xô và Nam Tư. Tháng 6.1948, dưới sự đạo diễn của Stalin, Kominform đã họp ở Bucarest gồm đại biểu 8 ĐCS (Nam Tư không đến họp) để buộc tội những người lãnh đạo ĐCSNT là theo “chủ nghĩa dân tộc” và khai trừ ĐCSNT ra khỏi Kominform. Về sau Stalin còn mở một chiến dịch lớn bôi nhọ “bè lũ xét lại Nam Tư đứng đầu là Tito”, thậm chí vu khống Tito là “gián điệp”, “tay sai của đế quốc”. Hầu hết các ĐCS trên thế giới đã hùa theo Stalin và Kominform để chống Tito và cô lập Nam Tư. Thế nhưng, Nam Tư vẫn tồn tại, còn Kominform, một tổ chức bị bại liệt bẩm sinh, không có sức sống, nên lần hồi đã lặng lẽ chết không kèn không trống (29).
Dù QTCS không còn nữa mà Kominform thì èo uột, nhưng Stalin vẫn dựa vào uy lực cá nhân của mình cũng như sức mạnh quân sự của Liên Xô để điều khiển các ĐCS “đàn em” và cố sức mở rộng phạm vi ảnh hưởng của đế quốc cộng sản. “Bàn tay Moskva” đã can thiệp vào việc nội bộ và nhen nhóm các cuộc nội chiến ở Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, v.v... đã dựng lên cái gọi là “chế độ dân chủ mới” với những chính phủ bù nhìn ở Đông Âu, Bắc Triều Tiên, đã giúp chủ nghĩa cộng sản bành trướng ở Trung Quốc, Việt Nam, v.v...
Cũng nên nhắc đến mưu đồ của Stalin và Mao Trạch Đông gây ra chiến tranh Triều Tiên hồi năm 1950 với mưu đồ thôn tính Nam Triều tiên đã gieo rắc biết bao tang tóc, xương máu cho người dân. Đó là chưa nói đến việc Stalin hồi đầu thập niên 50 đã có một kế hoạch chuẩn bị tấn công “giải phóng” châu Âu mà nhà sử học Tiệp Khắc Karel Kaplan đã phát giác trong sách “Dans les Archives du Comité Central. Trente ans de secret du Bloc soviétique” (tr.165-167). Cuối những năm 40, Stalin nhận định tình hình thế giới và đi đến kết luận: nửa đầu thập niên 50 sẽ là thời điểm thuận lợi nhất để giáng một đòn quyết định vào châu Âu tư bản chủ nghĩa và thiết lập ở đấy chế độ xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện âm mưu này, cần phải kiềm chế được Hoa Kỳ, và Liên Xô ra sức chạy đua võ trang trong lĩnh vực nguyên tử, đến năm 1949 Liên Xô đã có được bom nguyên tử. Theo tài liệu bí mật lưu trữ ở ĐCS Tiệp Khắc mà Kaplan công bố thì hồi tháng 1.1951, Stalin, Molotov đã họp bí mật với lãnh tụ và chỉ huy quân sự cao cấp những nước cùng phe ở Đông Âu bàn về việc chuẩn bị trong vòng 3-4 năm thực hiện kế hoạch tấn công “giải phóng” châu Âu (30). Về điều phát giác của Kaplan thì kẻ viết bài này không đủ điều kiện để xác minh, nhưng cũng xin nói rõ là: căn cứ theo tài liệu lịch sử thì đúng là hồi tháng 1.1951, đã một cuộc hội nghị quan trọng có mặt các tổng tham mưu trưởng và bộ trưởng quốc phòng các nước “dân chủ nhân dân”  Âu châu mà Stalin đã tự thân tham dự để kiểm điểm tình trạng sẵn sàng chuẩn bị của lực lượng võ trang các nước này, và tại hội nghị đó Stalin đã khẳng định là chỉ có thể có được một thời kỳ “tạm nghỉ” 3-4 năm mà thôi để chuẩn bị cho trận chiến đấu mới, vì ông cho rằng cuộc chiến tranh Triều Tiên mới chỉ là cuộc thử sức đầu tiên của hai địch thủ. Trước khi kết thúc hội nghị, người ta đã ký một hiệp định bí mật, theo đó khi xảy ra chiến tranh, các đồng minh của Liên Xô có trách nhiệm phải chuyển giao quân đội của mình dưới quyền chỉ huy trực tiếp của bộ chỉ huy xô-viết. Đồng thời, người ta cũng đã duyệt lại một cách căn bản các kế hoạch kinh tế của các nước “dân chủ nhân dân” nhằm tăng cường phát triển hơn nữa công nghiệp nặng và công nghiệp quân sự (chính việc này đã gây ra sự mất cân đối trầm trọng sau này trong nền kinh tế của các nước này, nhất là đối với nông nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng). Công việc đang khai triển thì đến tháng 3.1953, Stalin chết, nếu không thì những kế hoạch phiêu lưu của kẻ độc tài sẽ còn gây thêm biết bao núi xương và sông máu nữa cho nhân loại để thực hiện mục tiêu cuối cùng của PTCSQT.
E. “Cống hiến” của Mao Trạch Đông vào việc xây dựng ĐCS

Sau những trận tranh quyền quyết liệt trong nội bộ ban lãnh đạo, cuối cùng Mao Trạch Đông đã giành được quyền lực trong ĐCS hồi năm 1935. Việc đầu tiên họ Mao nghĩ  đến là làm sao nắm chắc được “công cụ đảng” trong tay mình. Sống trong hoàn cảnh một nước Á châu không có chút truyền thống dân chủ nào mà mang nặng văn hóa phong kiến, Khổng giáo, Mao và phe cánh hiểu được sự cần thiết phải khai thác triệt để đầu óc sùng bái và tuân phục của thần dân đối với “thiên tử”, cho nên đã đặc biệt coi trọng việc “tẩy não” và “nhồi sọ” trong đảng, quân đội và trong dân chúng. Điều đó họ gọi là “công tác tư tưởng”, với mục tiêu làm cho mỗi đảng viên cộng sản, cũng như mỗi thần dân trong chế độ “xã hội chủ nghĩa” mất hết cá tính, mất hết năng lực và thói quen tư duy độc lập, làm cho toàn ĐCS, toàn dân Trung Quốc sùng bái, thần thánh hóa đến độ cuồng tín để biến trên 600 triệu người sẽ trở thành một “công cụ” dễ bảo, một cái “đinh ốc bé tí” trong tay họ Mao và ĐCS. Để đạt được cái mục tiêu đó, Mao và phe cánh  đưa ra một phương pháp gọi là “chỉnh phong”. Qua quá trình “chỉnh phong”, đảng (và cả công an mật vụ) nắm được “tư tưởng” của đảng viên, đoàn viên, cán bộ, quân nhân... để tiến hành “đấu tranh tư tưởng” và “cải tạo tư tưởng” cho những người bất đồng chính kiến. Thông thường những cuộc chỉnh phong đều kèm theo những cuộc đấu đá, xỉ vả, lăng nhục, đày ải cán bộ,  trí thức về nông thôn để “lao động cải tạo” hay thậm chí bắt bớ, tù đày cán bộ, trí thức trong các “trại lao cải”, một kiểu GULAG made in China. Chỉnh phong là “cống hiến” độc đáo nhất của họ Mao vào “kho tàng chủ nghĩa Marx-Lenin” mà nhiều ĐCS châu Âu, châu Mỹ không thể nào hiểu nổi và học nổi!
Họ Mao còn có một “sáng kiến” nữa là khi cần đấu tranh giành và giữ quyền lực, ông ta không ngần ngại huy động quần chúng cuồng tín chống lại ĐCS: khi phát động làm “đại cách mạng văn hóa” ông đã cho “hồng vệ binh” “tạo phản” nã súng bắn vào đảng mà ông ta gọi là “bộ tham mưu xét lại, hữu khuynh”. Về thực chất cũng như hậu quả, cuộc “đại cách mạng văn hóa” của Mao không khác mấy cuộc “đại khủng bố” 1937-1938 của Stalin.

Còn tiếp...

Tài Liệu Tham Khảo:

1. Marx K. và Engels F. Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản. NXB Sự Thật, Hà Nội, 1983, tiếng Việt, tr.66. (ở tr.16).
2. Sách đã dẫn, tr.66. (ở tr.18).
3. Sách đã dẫn, tr.65. (ở tr.18).
4. Sách đã dẫn, tr.65. (ở tr.19).
5. Razinsky Edvard. Stalin.Moskva, 1997, tiếng Nga, tr.54, 64-69. (ở tr.22).
6. Lenin. V.I. Toàn Tập, tập 6, tiếng Nga, tr.112. (ở tr.23).
7. Sách đã dẫn, tr.124. (ở tr.23).
8. Sách đã dẫn, tr.122, 125. (ở tr.24).
9. Sách đã dẫn, tr.136. (ở tr.24).
10. Sách đã dẫn, tr.178. (ở tr.24).
11. Lenin và Vecheka, 1975. tiếng Nga, tr.281. (ở tr.27).
12. Sách đã dẫn, tr.363. (ở tr.27).
13. Volkogonov D. Lenin. Chân Dung Chính Trị. Hai tập, 1994. tiếng Nga, tập 1, tr.272-273, 289-290. (ở tr.29).
14. Lenin. V.I. Toàn Tập, tập 40, tiếng Nga, tr.209, 211. (ở tr.31).
15. Volkogonov D. Lenin. Chân Dung Chính Trị. Hai tập, 1994. tiếng Nga, tập 2, tr.271. (ở tr.31).
16. Sách đã dẫn, tập 2, tr.276, 278. (ở tr.32).
17. Sách đã dẫn, tập 2, tr.277. (ở tr.33).
18. Stalin I.V. Toàn Tập, t.5, tiếng Nga, tr.71. (ở tr.35).
19. RSKHIDNI – Trung Tâm Lưu Trữ Văn Kiện Lịch Sử Hiện Đại (trước là Kho Lưu Trữ của Quốc Tế Cộng Sản), Fond 17, Op.12, Document 612, Vyp. III, List 35. (ở tr.36).
20. Stalin I. “Những vấn đề của chủ nghĩa Lenin”, M.1945, tiếng Nga, tr. 71. (ở tr.36).
21. Bazhanov B. Hồi Ký Của Cựu Thư Ký Của Stalin, xuất bản ở Pháp 1980, ở Nga 1992, tiếng Nga, tr.129. (ở tr.36).
22. Stalin I.V. Tác Phẩm, tập13, tiếng Nga, tr.121. (ở tr.37).
23. Lenin. V.I. Toàn Tập, tập 49, tiếng Nga, tr.101 và161. (ở tr.38).
24. Lenin. V.I. Toàn Tập, tập 54, tiếng Nga, tr.330. (ở tr.39).
25. Lenin. V.I. Toàn Tập, tập 45, tiếng Nga, tr.346. (ở tr.40).
26. Volkogonov D. Stalin. Chân Dung Chính Trị. Hai tập, 1994. tiếng Nga, t.2, tr.614. (ở tr.48).
27. Geller M. và Nekrich A. Lịch Sử Nước Nga (1917-1995), tập 2, tr.54. (ở tr.49).
28.  Medvedev V. Sự Tan Rã. Nó Đã Chín Muồi Thế Nào Trong “Hệ Thống Xã Hội Chủ Nghĩa Thế Giới”. Moskva, 1994, tiếng Nga, tr.19. (ở tr.50).
29. Giuseppe Boffa. Lịch Sử Liên Xô. tập 2, tiếng Nga, tr.361-363. (ở tr.52).
30. Geller M. và Nekrich A. Lịch Sử Nước Nga (1917-1995), tập 2, tr.67, 68. (ở tr.53).
o0o

Danh Mục

·         Alknis Ya.I. – đại tướng LX, bị vu khống và bị xử bắn theo quyết định của Stalin.
·         Allilueva N.S. - vợ của Stalin, chết trong hoàn cảnh khó hiểu.
·         Andropov Yu.V. (1914-84) - đại tướng, chủ tịch KGB LX (1967-82), tổng bí thư ĐCSLX (1982-84), chủ tịch XV Tối cao LX từ 1983. Thời ông cầm quyền được đánh dấu bởi hàng loạt vụ đàn áp khốc liệt những người bất đồng chính kiến, tình trạng khủng hoảng của LX thêm trầm trọng và việc đẩy mạnh cuộc phiêu lưu quân sự ở Afganistan; ông có ý định dùng biện pháp hành chính để ngăn cuộc khủng hoảng của đất nước.
·         Bazhanov B. - thư ký riêng của Stalin từ 1923 đến 1928, đã viết cuốn “Hồi Ký Của Cựu Thư Ký Của Stalin”.
·         Beliov – đại tướng LX, bị vu khống và bị xử bắn theo quyết định của Stalin.
·         Blucher V.K. (1890-1938) - tướng lĩnh Hồng quân trong nội chiến, nguyên soái LXâ, bị vu khống và bị bắt, chết trong thời gian giam giữ theo quyết định của Stalin.
·         Borodin M. – cán bộ của Đảng Cộng sản LX đứng đầu phái đoàn xô-viết cạnh chính phủ Trung Hoa Dân Quốc hồi những năm 20. Sau khi về nước, bị đàn áp dưới thời Stalin và chết trong nhà tù.
·         Brezhnev L.I. (1906-82) – ủy viên Bộ Chính trị TƯ từ 1957, đã tổ chức việc lật đổ Khrutshev (1964), làm tổng bí thư Đảng Cộng sản LX (1964-1982). Dưới thời ông, nền kinh tế xô-viết bị trì trệ và khủng hoảng nặng. Thời ông cầm quyền được đánh dấu bởi các vụ đàn áp khốc liệt những người bất đồng chính kiến, vụ can thiệp võ trang vào Tiệp Khắc 1968 và cuộc phiêu lưu quân sự ở Afganistan 1979.
·         Bukharin N.I. (1888-1938) - ủy viên Bộ Chính trị TƯ (1924-29), chủ bút tờ Pravda (1918-29), chủ bút tờ Izvestia (1934-37), chủ tịch Ban Chấp Hành Quốc Tế Cộng Sản (1926-29), bị vu khống và bị xử bắn theo quyết định của Stalin.
·         Chernenko K.U. (1911-85) – ủy viên Bộ Chính trị dưới thời Brezhnev, nổi tiếng là một người quan liêu, bất tài, tổng bí thư Đảng Cộng sản LX (1984-85).
·         Chicherin G.V. (1872-1936) – bộ trưởng ngoại giao xô-viết thời Lenin.
·         Dimitrov G. (1892-1949) –  chủ tịch Ban Chấp Hành Quốc Tế Cộng Sản (1929-43), tổng bí thư Đảng Cộng sản Bungarie từ 1948, chủ tịch nước Cộng Hòa Nhân Dân Bungarie.
·         Dzerzhinsky F.E. (1877-1926) - chủ tịch Vecheka từ 1917, một trong những người xây dựng bộ máy mật vụ và tổ chức “khủng bố đỏ” khủng khiếp thời xô-viết.
·         Eberlain – đại biểu cánh tả Đức đến dự hội nghị lập Đệ Tam Quốc Tế 1919.
·         Egorov  - nguyên soái LX, bị vu khống và bị xử bắn theo quyết định của Stalin.
·         Eideman  - đại tướng LX, bị vu khống và bị xử bắn theo quyết định của Stalin.
·         Engels Fredrich (1820-95) - một trong những người sáng lập ra chủ nghĩa Marx; cùng với Marx và một số người khác, ông đã lập ra Liên Minh Công Nhân Quốc Tế (Đệ Nhất Quốc Tế) hồi 1864 và đã soạn thảo Tuyên Ngôn Của Đảng Cộng Sản; sau khi tổ chức quốc tế này tan rã ông là cố vấn cho nhiều Đảng Xã Hội chủ nghĩa trong Đệ Nhị Quốc Tế. Những tác phẩm của ông có ảnh hưởng lớn đối với trí thức Âu Mỹ hồi cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
·         Feldman B.M. - đại tướng LX, bị vu khống và bị xử bắn theo quyết định của Stalin.
·         Fotieva L.A. - thư ký riêng của Lenin.
·         Ganetsky Ya.S. (1879-1937) – đảng viên bolshevich nổi tiếng, trước tháng 10.1917, ở nước ngoài phụ trách những mật vụ của Lenin và liên lạc với người môi giới Parvus để nhận tiền của chính phủ Đức cấp cho Đảng bolshevich để làm thất bại nước Nga Sa hoàng,; về sau bị vu khống và bị xử bắn theo quyết định của Stalin.
·         Gdlyan – cán bộ cao cấp Viện Tổng Công tố LX, một trong những thành viên tích cực của Nhóm dân biểu liên vùng.\
·         Gomulka V. (1905-82) – nguyên tổng bí thư của Đảng Cộng sản (lấy tên Đảng Công nhân Thống nhất) Ba Lan (1943-48), 1949 ông bị truất quyền, rồi bị bỏ tù 1951-55 dưới thời Stalin, đến 1956-70 lại được đưa lên đứng đầu Đảng.
·         Gorbachev M.S. (s.1931) –  tổng bí thư Đảng Cộng sản LX (1985-91), chủ tịch Chủ Tịch Đoàn Xô-viết Tối Cao LX (1988-89), Tổng thống LX (1989-90), người khởi xướng và thực hiện “perestroika” và “glasnost” với ý muốn đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng. Điều nổi bật dưới thời ông cầm quyền là sự chấm dứt “chiến tranh lạnh”, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và ngay chính ở Liên Xô. Ông được giải thưởng Nobel Hòa Bình (1990).
·         Hồ Chí Minh (tên thật Nguyễn Sinh Cung, sau đổi là Nguyễn Tất Thành, ngoài ra còn có rất nhiều bí danh, bút danh khác) (1890-1969) - nhà cách mạng cộng sản nổi tiếng, một trong những người đầu tiên  đưa chủ nghĩa Marx-Lenin vào Việt Nam; dưới sự lãnh đạo của ông, cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 đã thắng lợi đưa chính quyền vào tay Đảng Cộng sản và cuộc kháng chiến chống Pháp đã thắng lợi (1954). Thời ông cầm quyền được đánh dấu bởi cuộc cải cách ruộng đất khủng khiếp hồi thập niên 50, cuộc cải tạo công thương nghiệp, vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm, việc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và việc bắt đầu cuộc chiến tranh ác liệt với miền Nam.
·         Kachirin  - đại tướng LX, bị vu khống và bị xử bắn theo quyết định của Stalin. tr.46.
·Kadar Janos (1912-89) – người đứng đầu Đảng Cộng sản (lấy tên Đảng Xã hội Chủ nghĩa Công nhân) Hungarie từ 1956-88; thủ tướng chính phủ Hungarie được thành lập trên đất LX để thay thế cho chính phủ Imre Nagy bị đánh đổ.
·         Kaganovich L.M. (1893-1991) - ủy viên Bộ Chính Trị Đảng Cộng sản LX (1930-57), một trong những người tích cực tổ chức các cuộc đàn áp hàng loạt người vô tội dưới thời Stalin; cùng với Molotov, Malenkov chống lại đường lối của Khrutshev, nên bị đưa ra khỏi cương vị lãnh đạo Đảng hồi 1957.
·         Kamenev L.B. (1883-1936) – đảng viên bolshevich, ủy viên Bộ chính trị Đảng Cộng sản Nga và LX (1919-1926), phó thủ tướng chính phủ LX (1923-26), bị vu khống và bị xử bắn  hồi 1936 theo quyết định của Stalin.
·         Kamo - bí danh của Ter-Petrosyan, người tổ chức các vụ ăn cướp tiền cho đảng của Lenin.
·         Kaplan Karel  - sử gia Tiệp Khắc, tác giả sách “Dans les Archives du Comité Central. Trente ans de secret du Bloc soviétique”.
·         Kautsky Karl (1854-1938) - một trong những lãnh tụ và nhà lý luận nổi tíếng của Đảng Xã hội Dân chủ và Đệ Nhị Quốc Tế, theo chủ nghĩa trung phái, chống lại đường lối cực đoan của Đảng bolshevich.
·         Kestler Artur (1905-83) - nhà văn Anh, tác phẩm nổi tiếng nhất của ông “Bóng Đen Dày Đặc” (1940) nói về cơ chế tâm lý của sự khủng bố thời Stalin, được xuất bản ở LX hồi 1988.
·         Khrutshev N.S. (1894-1971) - ủy viên Bộ Chính trị (1939-53), từ 1953 đến 1964 đứng đầu Đảng Cộng sản LX; tại đại hội 20 (1956) và 22 (1961) ông phê phán kịch liệt tệ sùng bái cá nhân Stalin. Thời ông cầm quyền được đánh dấu bởi việc giải phóng cho hàng triệu người ra khỏi các trại tập trung và minh oan cho rất nhiều người vô tội trong các vụ án chính trị dưới thời Stalin, bởi sự cố gắng đẩy mạnh sản xuất công nông nghiệp và những nỗ lực để cải thiện đời sống cho người dân, nhưng đồng thời cũng bởi việc đàn áp cuộc biểu tình của công nhân ở Novocherkassk, việc đối đầu với phương Tây ở Berlin hồi 1961, ở biển Caribe hồi 1962, bởi cuộc can thiệp võ trang vào Hungarie hồi 1956. Ông có để lại tập hồi ký, xuất bản ở Hoa Kỳ 1981, còn ở Nga xuất bản toàn bộ hồi 1999.
·         Kirov S.M. (1886-1934) - ủy viên Bộ Chính trị từ 1930, bị giết 1934. Cái chết của ông bị Stalin dùng để mở một loạt cuộc đàn áp khủng khiếp trong thời kỳ gọi là Đại khủng bố trong những năm 30.
·         Koba - bí danh của Stalin hồi hoạt động bí mật ở xứ Caucase.
·         Kork - đại tướng LX, bị vu khống và bị xử bắn theo quyết định của Stalin.
·         Krasin L.B. (1870-1955) – nhà lãnh đạo Đảng bolshevich, ủy viên TƯ Đảng 1903-07, lãnh đạo công tác quân sự-chiến đấu trong cách mạng 1905-07; sau tháng 10.1917 làm các chức vụ cao cấp trong bộ máy nhà nước.
·         Krupskaya N.K. (1869-1939) - vợ và bạn chiến đấu của Lenin.
·         Kun Bela (1886-1938) - nhà cách mạng Hungarie, người tổ chức Đảng Cộng sản Hungarie (1918), đứng đầu chính phủ xô-viết Hungarie hồi 1919; từ 1920 ở nước Nga, ủy viên Ban Chấp hành Quốc Tế Cộng Sản, bị giết dưới thời Stalin.
·         La Văn Lâm (s.1919) – đảng viên lão thành của Đảng Cộng sản VN, đã giữ nhiều chức vụ quan trọng của nhà nước, từ những năm 80 nhiều lần phát biểu ý kiến về các vấn đề chính trị, về vấn đề dân chủ.
·         Lê Duẩn (1900-1986) - nhà cách mạng cộng sản, một trong những người đã lãnh đạo phong trào đấu  tranh ở miền Nam chống chế độ VN Cộng hòa; tổng bí thư Đảng Cộng sản VN  từ 1960-86. Thời ông cầm quyền được đánh dấu bởi việc đẩy mạnh cao độ cuộc chiến tranh với miền Nam, đưa đến sự sụp đổ của chế độ miền Nam và sự thống nhất cả nước dưới quyền của những người cộng sản, bởi việc xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa trại lính với nền chuyên chế vô sản tàn bạo, những cuộc đàn áp hàng loạt người dưới chế độ cũ, đàn áp các giáo phẩm và các giáo hội, đàn áp cán bộ, đảng viên, trí thức bất đồng chính kiến; nó cũng được đánh dấu bởi sự đưa quân đánh vào Cam Bốt và chiếm đóng nước này trong 10 năm, gây ra xung đột lớn với TQ. Đường lối của ông đã đưa đến cuộc khủng hoảng toàn diện của VN hồi cuối thập niên 80.
·         Lenin V.I. (tên thật Ulyanov) (1870-1924) - nhà lý luận theo chủ nghĩa Marx, một trong những người sáng lập và là lãnh tụ Đảng bolshevich, lãnh đạo cuộc đảo chính tháng 10.1917, lật đổ chính quyền dân chủ, thiết lập chuyên chính vô sản với chế độ cực quyền toàn trị xô-viết. Với ý đồ làm cách mạng thế giới, phổ biến chế chế độ xô-viết ra toàn thế giới, ông đã thành lập Quốc Tế Cộng Sản (1919). Dưới chế độ chuyên chính vô hạn của ông, hàng triệu người dân vô tội đã bị giết.
·         Levine E.  - đảng viên cộng sản, đứng đầu chính phủ ở Bavaria hồi năm 1919.
·         Lin, Linov - một trong nhiều bí danh của Nguyễn Ái Quốc, tức Hồ Chí Minh sau này.
·         Malenkov G.M. (1902-88) - ủy viên Bộ Chính trị nhiều năm (1926-57), thuộc giới thân cận Stalin, một trong những người tích cực tổ chức các cuộc đàn áp hàng loạt người vô tội dưới thời Stalin; cùng với Molotov, Kaganovich chống lại đường lối của Khrutshev, nên bị đưa ra khỏi cương vị lãnh đạo Đảng hồi 1957.
·         Mao Trạch Đông  (1893-1976) – lãnh tụ Đảng Cộng sản TQ, chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân TQ (1954-59); người xây dựng chế độ cực quyền toàn trị khắc nghiệt, ông đề xướng phong trào “công xã nhân dân” và “đại nhảy vọt” ở TQ để tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội. Thời ông cầm quyền được đánh dấu bởi những cuộc vận động ác liệt, thường là đẫm máu, như cải cách ruộng đất, “tam phản”, “ngũ phản”, cải tạo trí thức, “đại cách mạng văn hóa”... đã đẩy nền kinh tế, văn hóa TQ đến bên bờ vực thẳm. Hồi sinh thời của ông, việc sùng bái cá nhân ông đã lên cao đến mức chưa từng thấy.
·         Marx Karl (1818-83) - người sáng lập ra chủ nghĩa Marx, đã nêu lên vai trò giai cấp vô sản toàn thế giới trong việc đánh đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản; tác phẩm căn bản của ông là bộ “Tư Bản” nổi tiếng; cùng với Engels và một số người khác, ông đã lập ra Liên Minh Công Nhân Quốc Tế (Đệ Nhất Quốc Tế) hồi 1864 và soạn thảo Tuyên Ngôn Của Đảng Cộng Sản. Chủ nghĩa Marx hồi cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 có ảnh hưởng lớn trong giới trí thức, nhất là ở Âu Mỹ, nhưng dần dần qua thực tiễn lịch sử trong thế kỷ 20 người ta đã thấy rõ những sai lầm của nó.
·         Medvedev V. - ủy viên Bộ Chính trị TƯ Đảng Cộng sản LX dưới thời Gorbachev, phụ trách Ban quốc tế TƯ.
·         Mikoyan A.I. (1895-1978) –ủy viên Bộ Chính trị nhiều năm (1935-66), thuộc giới thân cận Stalin; về sau ông đã vạch trần tệ sùng bái cá nhân Stalin.
·         Mitterand F. (1916-96) – lãnh tụ Đảng Xã hội chủ nghĩa Pháp, tổng thống Pháp (1981-95).
·         Molotov V.M. (1890-1986) - ủy viên Bộ Chính trị nhiều năm (1926-57), thuộc giới thân cận Stalin, một trong những người tích cực tổ chức các cuộc đàn áp hàng loạt người vô tội dưới thời Stalin; cùng với Kaganovich, Malenkov chống lại đường lối của Khrutshev, nên bị đưa ra khỏi cương vị lãnh đạo Đảng hồi 1957. Ông đã ký với Ribbentrov, bộ trưởng ngoại giao nước Đức, hiệp ước phân chia đất đai các nước châu Âu  giữa nước Đức phát-xít và LX.
·         Nagy Imre (1896-1958) - thủ tướng chính phủ Hungarie hồi 1953-55 và từ tháng 10 đến tháng 11.1956 sau là thành lập ngày 3.11.1956; sau khi quân đội Liên Xô can thiệp võ trang dẹp tan cuộc cách mạng nhân dân Hungarie, đã bị bắt và bị xử bắn năm 1958;  sau khi nước Hungarie giành lại chủ quyền hồi 1989, ông được minh oan và coi là anh hùng nhân dân.
·         Nguyễn Ái Quốc - bí danh của Nguyễn Tất Thành, tức Hồ Chí Minh sau này.
·         Nguyễn Minh Cần – xem tiểu sử trên bìa.
·         Nikolaev L.  - người bắn Kirov năm 1934, bị tử hình.
·         Orlov - đô đốc hải quân LX, bị vu khống và bị xử bắn theo lệnh của Stalin. Ouborevitch  - đại tướng LX, bị vu khống và bị xử bắn theo lệnh của Stalin.
·         Piatakov G.L. (1890-1937)  - đảng viên bolshevich, nhà hoạt động nổi tiếng ĐCS và nhà nước xô-viết, bị vu khống và bị xử bắn theo quyết định của Stalin.
·         Plekhanov G.V. (1856-1918) -  triết gia, nhà lý luận của chủ nghĩa Marx, người sáng lập Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga, ông không tán thành cách mạng vô sản theo kiểu của Lenin vì cho rằng nước Nga chưa đủ điều kiện kinh tế, xã hội cho một cuộc cách mạng như thế.
·         Primakov  - đại tướng LX, bị vu khống và bị xử bắn theo quyết định của Stalin. tr.46.
·Pugo B. - bộ trưởng Bộ Nội vụ LX, một trong những người lãnh đạo cuộc đảo chính tháng 8.1991 của những phần tử bảo thủ nhất trong TƯ ĐCSLX, khi đảo chính thất bại thì tự tử.
·         Putna - đại tướng LX, bị vu khống và bị xử bắn theo quyết định của Stalin. tr.46.
·Radek K.B. (1885-1939) - nhà hoạt động của Đảng dân chủ xã hội Ba Lan và Đức, sau là đảng viên Đảng bolshevich Nga, ủy viên Ban Chấp hành Quốc Tế Cộng Sản, bị vu khống và bị xử bắn theo quyết định của Stalin.
·         Rykov A.I. (1881-1938) – đảng viên bolshevich, nhà hoạt động nổi tiếng Đảng Cộng sản và nhà nước xô-viết, ủy viên Bộ Chính trị TƯ (1922-30), thủ tướng chính phủ LX (1924-30), bị vu khống và bị xử bắn theo quyết định của Stalin.
·         Shatunovskaya – một trong những đại biểu đã đưa ra lời chứng tại  đại hội 20 của ĐCS LX về việc một số phiếu bầu tại đại hội 17 đã bị đánh cắp để gian lận trong cuộc bầu ban lãnh đạo đảng.
·         Sheboldaev B. – đại biểu tại đại hội 17 ĐCS LX đã đề nghị Kirov ra ứng cử vào chức vụ tổng bí thư, về sau bị đàn áp.
·         Sivkov  - đô đốc hải quân LX, bị vu khống và bị xử bắn theo quyết định của Stalin.
·         Stalin I.V. (tên thật Dzhugashvili) (1878-1953) - nhà cách mạng cộng sản nổi tiếng, người kế nhiệm Lenin làm lãnh tụ LX từ 1924;  ông đã hoàn thiện chế độ cực quyền toàn trị xô-viết mà Lenin đã khởi đầu. Dưới chế độ độc tài vô hạn của cá nhân ông, hàng chục triệu đảng viên và những người dân vô tội đã bị giết.
·         Tito B.I (1892-1980) – lãnh tụ của Liên Minh những người cộng sản Nam Tư, người đứng đầu nhà nước Nam Tư; do không chịu theo khuôn mẫu xô-viết để xây dựng xã hội Nam Tư,  nên bị Stalin trục xuất Đảng Cộng sản Nam Tư ra khỏi phong trào cộng sản quốc tế và vu khống cho ông là gián điệp của đế quốc, các đảng “anh em” đều hùa theo LX tẩy chay Nam Tư và đả kích Tito là phần tử xét lại hiện đại.
·         Tomsky M.P. (1880-1936) - chủ tịch Công đoàn LX, ủy viên Bộ Chính trị trong nhiều năm; bị vu khống, ông bị bắt theo lệnh của Stalin, để không bị giết, ông đã tự tử.
·         Toukhachevsky M.N. (1893-1937) - tướng lĩnh nổi tiếng của Hồng quân trong nội chiến, chỉ huy việc đàn áp các cuộc nổi dậy ở Kronshtadt và tỉnh Tambovskaya, thứ trưởng Bộ quốc phòng Liên Xô, nguyên soái Liên Xô, bị vu khống và bị xử bắn theo quyết định của Stalin.
·         Trotsky L.D. (tên thật là Bronshtein) (1879-1940) - nhà cách mạng cộng sản nổi tiếng, ủy viên Bộ Chính trị TƯ Đảng Cộng sản Nga và Liên Xô (1917, 1919-26), bộ trưởng ngoại giao (1917-18), bộ trưởng quân sự (1918-25). Cuộc tranh giành quyền lực giữa Stalin và Trotsky đã kết thúc bằng sự thất bại của Trotsky, nên 1927, ông bị khai trừ ra khỏi Đảng, bị đày đến Alma Ata, rồi trục xuất khỏi LX (1929). Ông khởi xướng thành lập Đệ Tứ Quốc Tế (1938), bị giết bởi tên đặc vụ xô-viết tên là R.Merkader.
·         Vareikis I. - đại biểu tại đại hội 17 Đảng Công sản LX đã đề nghị Kirov ra ứng cử vào chức vụ tổng bí thư, về sau bị đàn áp.
·         Viktorov - đô đốc hải quân LX, bị vu khống và bị xử bắn theo lệnh của Stalin. tr.46.
·Volkogonov D.A. (1928-95) - giáo sư, tiến sĩ triết học, tiến sĩ sử học, đảng viên cộng sản, trung tướng xô-viết, viện sĩ thông tấn Viện hàn lâm khoa học Nga; ông đã ra khỏi Đảng Cộng sản LX hồi 1990, trở thành nhà dân chủ triệt để. Ông đã để lại những tác phẩm sử học nổi tiếng về Lenin, Trotsky, Stalin, cũng như  về Khrutshev, Brezhnev, Andropov, Chernenko và Gorbachev.
·         Zatonsky – chủ tịch ban kiểm phiếu tại đại hội 17 Đảng Cộng sản LX.
·         Zinoviev G.E. (tên thật là Radomyslsky) (1883-1936) - đảng viên bolshevich, ủy viên Bộ Chính trị TƯ (1917-26) từ thời Lenin, chủ tịch Ban Chấp Hành Quốc Tế Cộng Sản (1919-26), bị vu khống và bị xử bắn theo quyết định của Stalin.
·          
·

No comments: