Sunday, August 26, 2012

HOÀNG LONG HẢI * MẬU THÂN

Ngày Tết, Kể Chuyện Tết Mậu Thân ở HuếHoàng Long Hải, ThepDenCom 2009/01/24
1. Tấn Công Bất Ngờ
Trước khi bắt đầu niên khoá 1967-1968, tôi dọn về ở số 11 đường Phạm Hồng Thái, Huế. Nhà nầy gần ngã tư Nguyễn Tri Phương và Phạm Hồng Thái. Trước mặt nhà tôi là doanh trại của đại đội Cảnh Sát Dã Chiến (CSDC) thuộc Ty Cảnh Sát Thừa Thiên - Huế. Toàn bộ khu vực nầy, từ phía trước nhà tôi đến đường Duy Tân (An Cựu - cầu Trường Tiền), phía trước trường trung học Nguyễn Tri Phương, phía toà Khâm Sứ cũ sát bờ sông, là khu quân sự gồm khách sạn Thuận Hoá, tức MAC-V, trại Phan Sào Nam tức tiểu khu Thừa Thiên - Huế, ty Cảnh Sát. Khoảng một năm nay, đây là mục tiêu pháo kích của Việt Cộng. Có điều đáng nói là Việt Cộng pháo kích trúng mục tiêu thì ít mà trật ra ngoài thì nhiều. Đã có vài nhà dân trúng đạn, có người chết, bị thương. Vì vậy, khi thấy tôi dọn về đây, vài người bạn đến chơi, cằn nhằn : “Dọn về đây chi cho nguy hiểm”. Tôi nói đùa : “Khi nào nghe pháo kích khách sạn Thuận Hoá thì tới đưa tao đi nhà thương”.

Đêm Mồng Một Tết Mậu Thân, tức là đêm 30/01/1968, Việt Cộng pháo kích trật mục tiêu thật, và trúng ngay nhà tôi.

Tôi đang ngủ với đứa con gái lớn, 6 tuổi, thì giật mình vì những tiếng nổ lớn, hơi xa xa và nghe tiếng đạn đi. Trong phút chốc, tôi nghĩ : “Chết cha ! Đạn đang tới ngay mình”. Tôi từng chạy tản cư và có ít nhiều kinh nghiệm về súng đạn, mặc dù hồi ấy tôi mới 10 tuổi. Hễ đạn cà-nông, nghe tiếng đạn đi thì yên tâm. Đạn sẽ nổ ở xa. Còn tiếng đạn súng cối réo bên tai là nổ ngay chính chỗ của mình.

Và rồi viên đạn nổ ngay phía ngoài bức tường gạch dưới chân giường tôi. Tiếng nổ làm rung chuyển cả ngôi nhà. Nhà lợp ngói liệt nên khi ngói vỡ, cát từ trên mái tuôn xuống rào rào. Cửa trước bị giựt tung ra, thấy rõ bên ngoài. Ngoài đó đạn vẫn tiếp tục nổ ở sân trước, ngoài đường lộ, chớp sáng loé lên, cảnh tượng ngoài ấy trông rõ lắm nhưng tắt đi rất nhanh. Điện bị cắt.

Tôi ngồi dậy, tung chăn. Đứa con gái tôi cũng dậy. Tôi nói với con : “Con vô hầm đi”. Vì vùng nầy, như đã nói, dễ bị pháo kích nên tôi có làm một cái hầm bằng bao cát ở căn phòng trống giữa phòng khách và nhà bếp. Con tôi chạy đi. Tôi đi qua phía giường vợ tôi, đặt ở phía sau cái tủ đựng áo quần, tủ có kính soi. Tôi nghe có tiếng vợ tôi kêu cứu hơi xa xa, mơ hồ, có lẽ do cát đổ xuống phủ đầy chăn đáp. Thêm nữa, cái tủ đựng áo quần bị hất tung lên, đè lên vợ tôi, lúc ấy đang có bầu khoảng 8 tháng, cùng đứa con gái thứ nhì và đứa con trai xuống dưới. Không hiểu sao lúc đó tôi mạnh lắm. Nhờ ánh sáng đạn pháo kích đang nổ nên thấy rõ cảnh vật, tôi cần hai cái chân tủ hất sang một bên, kéo chăn và kéo vợ cùng 2 đứa con ra. Chợt ngó lại, tôi thấy đứa con gái đầu thay vì chạy vào hầm, lại đang đứng sát bên chân tôi. Tôi hỏi : “Răng không vô hầm đi ?” Con bé trả lời, khá rõ : “Con xệ (sợ) quá !”.

Vừa khi ấy thì đứa giúp việc : Con Thơ lớn nhứt, đã 20 tuổi. Hai đứa kia nhỏ hơn thì một là con Lụt, em ruột con Thơ và con Nguyệt, nhỏ nhứt, ngủ dưới nhà bếp chạy lên. Con Thơ nói : “Con vô hầm rồi, không chộ (thấy) cậu mợ nên chạy ra ni”. Tôi bảo con Thơ dắt mấy đứa nhỏ vào hầm, tôi dẫn vợ tôi chạy theo.

Suốt trong thời gian ấy đạn pháo kích vẫn nổ ở sân trước và sân bên hông nhà, không trúng nhà tôi nữa. Vậy mà cả gia đình nhỏ của tôi không ai hề hấn gì, ngồi chen chúc trong cái hầm chật. Tôi ngồi phía ngoài, ngay cửa hầm.

Thằng con trai của tôi vẫn cứ khóc lè nhè từ nãy đến giờ. Tôi cứ ngỡ nó đau chân nên khóc. Thằng bé mới 2 tuổi, dễ thương và rất đẹp trai. Trước Tết mấy hôm, anh Ky, người cháu của vợ tôi, đang học Y Khoa ở Huế, đến chơi, thấy thằng bé kháu quá bèn bỏ nó lên xe vélo chở đi lòng vòng. Được một lúc thì thằng bé thọc chân vô căm xe, sưng vù, tôi phải đem đi bệnh viện bó bột và chích thuốc. Từ bữa đó đến giờ, vì cái chân bột nên thằng bé hay khóc. Không ngờ một lúc sau, vợ tôi nói : “Anh ! Thằng cu Bảo bị thương, máu chảy sau đầu”. Con Thơ thường nhóm bếp nên bao giờ cũng thủ sẵn một cái bật lửa trong túi, lấy ra bật lên cho vợ tôi xem chỗ thằng bé bị thương. Xong, vợ tôi nói : “Rách một đường sau đầu, hết ra máu rồi, chắc không can chi !” Nghe vợ giải thích, tôi yên tâm.

Bây giờ thì hết pháo kích nhưng đạn súng nhỏ nổ rền trời như người ta đang đốt pháo vậy. Tiếng đạn nổ lốp bốp nghe lạ tai, không phải thứ đạn như Garant M-1 mà tôi có bắn thực tập hồi còn học Cao Đẵng Quân Sự. Thỉnh thoảng, tiếng lựu đạn nổ chen vào như người ta đốt pháo giây có kèm theo pháo tống vậy. Lựu đạn nổ gần lắm, ngay phía ngoài cửa trước nhà tôi. Nhờ cái hầm nằm ở căn phòng chếch qua một bên phòng khách nên không can gì, chỉ mỗi khi lựu đạn nổ thì cái hầm nhỏ của tôi rung rinh dữ dội. Sáng ra, tôi mới biết là Việt Cộng núp trong sân nhà tôi, tấn công vào cái “lô-cốt” (blockhaus) của Cảnh Sát Dã Chiến bên kia đường. CSDC phản công, bắn M-79 vào ngay sân nhà tôi mới ra cớ sự như vậy.

Súng nổ ran từng chặp rồi nghỉ khoảng nửa tiếng. Nửa giờ sau, có 3 phát súng lệnh, súng đạn lại nổ rền, đợt tấn công mới lại bắt đầu. Lựu đạn của CSDC lại bắn vào sân nhà tôi.

Sau khoảng vài ba đợt tấn công thì có tiếng tù và thổi.

Con Thơ nói :
- “Rứa là họ rút lui đó cậu mợ”.
- “Răng mi biết ?” Tôi hỏi.

Con Thơ giải thích :
- “Dưới làng con đánh dau (nhau), khi mô thổi tù và hay thổi còi là họ rút lui”.

Quả thật Việt Cộng rút. Trời sáng dần, mờ mờ.

Tôi bỗng nghe có tiếng người la to phía sân trước, hướng về phía trại CSDC :
- “Đừng bắn nữa nhé ! Đừng bắn nữa nhé, tôi ra hàng nhé !”.

Có tiếng mấy người lính CSDC bên kia đường la to, đáp lại :
- “Bỏ súng xuống ! Bỏ súng xuống”.

Tôi cố lắng nghe tiếng người ra hàng để biết họ là người xứ nào. Đây là tiếng Bắc, không rõ tỉnh nào, nhưng ít ra cũng từ Thanh Hoá đổ ra. Sở dĩ tôi chú ý việc nầy vì năm ngoái, quân Việt Cộng tấn công vào thị xã Quảng Trị, thất bại, họ rút lui. Con đường tiến vào và rút lui là con đường hẻm phía sau nhà tôi. Ông anh tôi sợ Việt Cộng leo lên núp trên mái nhà, nghe họ vừa di chuyển vừa nói với nhau. Tôi hỏi :
- “Họ nói giọng gì ?”.

Anh tôi cười, trả lời :
- “Bùi Xuân Lục”.

Bùi Xuân Lục là tên một người rể của dì tôi, quê ở Hà Tĩnh. Bà con bên ngoại tôi thường nhái giọng Hà Tĩnh để ghẹo anh ấy chơi. Tiếng Quảng Trị không nhẹ gì nhưng so với giọng Hà Tĩnh cũng còn đỡ hơn nhiều.

Thấy dứt tiếng súng, vợ chồng con cái chúng tôi ra khỏi hầm.

Việc trước tiên là vợ tôi ra tủ đựng bông băng lấy nước rửa vết thương cho con, xức thuốc và dán băng keo vào đó. Con Thơ xuống bếp, chuẩn bị nấu ăn. Nó hỏi vợ tôi : “Nước máy không có, nước trong lu dớp (nhớp) lắm. Không có nước a mợ !”.
Tôi đi xuống bếp, xem lại lu nước. Cát ngói từ trên mái nhà đổ vào lu. Tôi nói : “Gạn nước nầy mà nấu, đừng đi ra ngoài đường nghe không !” Con Thơ nghe lời tôi, gạn nước nấu cơm.

Trong khi đó thì vợ tôi lo dọn dẹp nhà cửa. Vì đêm qua đạn nổ, rung rinh căn nhà, nên chén bát, quần áo đổ nhào xuống nền nhà, cái bể, cái dơ, phải gom hết lại. Mấy cái mền (chăn) đắp tối hôm qua phải rũ bụi sạch để dùng lại, chưa giặt được. Cái chăn tôi đắp chung với con gái đầu thủng một lỗ ở giữa. Mảnh đạn đi vào giữa hai cha con, không đụng nhằm ai cả. Vợ tôi mừng nói :
- “Hú vía anh ơi ! Mảnh đạn chui vô vầy mà không ai bị thương”.

Cái tủ áo quần có tấm gương soi, thì tấm gương bị bể nát. Có lẽ một miếng kính vỡ bay ra đụng nhằm thằng bé nên nó bị cắt một đường phía sau đầu. Cũng may, vết cắt không sâu.

Được một lúc, ông Hà Nguyên Chi, phó ty Cảnh Sát, nhà phía bên kia ngã tư, mang súng đi bộ qua nhà tôi. Ông ta hỏi :
- “Khi hôm nghe bên ni súng nổ dữ lắm. Có ai can chi không ?”.

Tôi cám ơn và trả lời không ai việc gì cả. Trước khi ra về, ông ta còn dặn :
- “Đừng ra ngoài đường, Việt Cộng còn ở trên lầu trường Nguyễn Tri Phương”.

Một lúc, vợ tôi có việc gì đó, đi ra cái sân bên hông nhà. Khi vào nhà, vợ tôi nói :
- “Có miếng thịt mắc nơi cây bông hường”.
- “To hay nhỏ ?” Tôi hỏi.
- “Cỡ 20 đồng”. Vốn thực tế, vợ tôi nói.

Tôi thấy cũng buồn cười nhưng không nói gì. Thịt người chớ có phải thịt heo, bò ở chợ đâu mà ví như thế.

Hôm đó, tôi hơi buồn, cứ thắc mắc : “Mình bị pháo kích như thế nầy mà chẳng thấy anh bạn nào đến thăm cả. Ngoài đường có tiếng người lao xao một lúc, không biết người ta chạy loạn hay bọn trẻ tò mò đạp xe chạy quanh quan sát chơi.

Buổi chiều 30 tết, tôi tổ chức ăn tất niên tại nhà. Trước đó một tuần lễ, một anh học trò nhà ở Vĩ Dạ, nói với tôi :
- “Năm ni ba em hạ một con bò thui. Thầy muốn mua thì em đem lên nhà cho thầy”.

Có bò thui và biết rằng sẽ được thịt ngon, tôi hỏi vợ tôi rồi mua mấy ký, tổ chức ăn tết với bạn bè. Trong các bạn tôi mời, có anh Hoàng Văn X, bạn đồng nhiệp nhưng tôi kính mến như người anh, tôi mời cả hai vợ chồng ông nầy. Vợ chồng anh bạn nối khố từ khi mới lên trung học : Lê Trọng A, hiện làm hiệu trưởng trường trung học Tây Lộc, một bà trung tá, chồng đang du học ở Mỹ, bạn của vợ tôi, và anh Đoàn Công L, trưởng ty Cảnh Sát, quen thân vợ chồng tôi.

Tối hôm đó, anh L đến trễ lắm. Tôi đã tính không chờ nhưng các bạn biểu rán một chút. Ông trưởng ty mà ăn sau thì cũng kỳ ! Anh L tới thì vào bàn ngay. Trước khi cầm đũa, anh ấy xin lỗi đến trễ vì họp với bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 lâu quá - do Đại Tá Ngô Quang Trưởng chủ toạ - Lúc ấy tướng Trưởng còn mang lon Đại Tá. Anh L cũng cho biết là có tin Việt Cộng sẽ tấn công, không rõ mục tiêu ở đâu. Nghe vậy thì cũng hay vậy, không ai ngờ tối hôm sau, mồng một tết, Việt Cộng tấn công vào Huế. Ngay khi anh L nói chuyện đó thì Việt Cộng cũng đã đột nhập vào thành phố đông lắm rồi. Vậy mà không ai biết cả hay sao ? ! Đánh giặc gì mà kỳ cục vậy. Tình báo ở đâu ? !

Mới tiệc tùng vui vẻ đó mà bây giờ chẳng thấy ai, tôi nghĩ vậy và cũng hơi buồn.

Tối hôm đó, mới tối chúng tôi đã vào hầm, không dám ngủ ở bên ngoài. Trời sập tối một lúc lâu thì lại nghe ba phát súng lệnh, súng nhỏ và lựu đạn nổ rền trời. Khoảng một giờ đồng hồ thì dứt tiếng súng. Rồi lại có ba phát súng lệnh, mở đầu đợt tấn công mới.

Lần nầy vì Việt Cộng tấn công từ đầu hôm, không bắt đầu lúc quá nửa khuya như tối hôm trước, trận đánh kéo dài quá nên tôi lo lắng và thấy bực bội lắm. Suốt đêm ngồi bó rọ trong hầm như thế nầy lại súng đạn rền trời thì chịu đời sao thấu. Tối nay lại có tiếng máy bay bay phía trên và có tiếng súng từ trên máy bay bắn xuống. Đó là loại máy bay Hoả Long. Máy bay Hoả Long bắn suốt đêm cho tới sáng bạch, ngay trên lầu trường trung học Nguyễn Tri Phương. Cứ sau đêm tấn công, ban ngày Việt Cộng rút về ẩn núp ở đây. Súng Hoả Long 6 nòng, bắn dữ dội nên trường Nguyễn Tri Phương bị trốc hết mái.

Cũng gần tới sáng, lại có tiếng tù và thổi như đêm trước, tôi thấy khỏe, yên lòng một chút.
Trời sáng, chúng tôi lại chui ra khỏi hầm, dọn dẹp nhà cửa.

Đêm nay, Việt Cộng không núp trong nhà tôi mà sát ngoài hàng rào phía trước, cách nhà khá xa nên chúng tôi khỏi lâm vào cảnh bị lựu đạn nổ như đêm trước, không còn pháo kích nên nhà cửa cũng không bị hư hại gì thêm. Tôi nói với vợ tôi :
- “Mình chạy lánh nạn chỗ khác đi. Đêm nào cũng đánh nhau vậy, chịu không thấu đâu”.

Nghe lời tôi, vợ tôi chuẩn bị chạy giặc. Nửa giờ sau, chúng tôi bồng bế nhau ra khỏi nhà.

Tôi cõng bé Diễm, 4 tuổi, đứa con gái thứ 3 (Kể theo trong Nam) trên lưng, tay dắt đứa thứ 2, chị cả. Vợ tôi có bầu, bụng đã to nhưng tay cũng bế thằng con trai. Con Thơ gánh một gánh đồ ăn đem theo, phòng bị đói. Hai con nhỏ kia, mỗi đứa một ôm mền mùng và quần áo cho cả gia đình.

Ra tới sân, thấy cảnh tượng ở đó, vợ tôi níu lấy tôi, không chịu đi, rên rỉ : “Ghê quá anh ơi !” Tôi nói với vợ : “Gắng lên, qua khỏi đây là hết. Không can chi !”. Tôi nắm tay vợ, trong khi tay kia đã nắm đứa con nhỏ, cùng đi nhanh. Trong sân, ngay gốc dừa là xác một chiến binh Việt Cộng, mặc quần áo bà ba đen, không có áo ấm, áo mưa gì hết. Tôi cũng không để ý có súng hay không. Phía ngoài cổng, sát hàng rào là 3 xác chết khác, cũng nằm co quắp, ngoài bộ bà ba đen, không có áo ấm, áo mưa gì cả. Tôi thắc mắc : Bộ đánh giặc nóng lắm hay sao mà không ai mặc áo ấm cả vậy trời. Hay họ không có áo ấm để mặc. Tôi nhớ năm 1947, hồi mới chạy tản cư, thỉnh thoảng, tôi có thấy Vệ Quốc Đoàn mặc áo trấn thủ, đâu có phong phanh cái áo bà ba như mấy anh Việt Cộng nầy.

Vừa ra khỏi ngõ, tôi lại thấy có mấy anh lính CSDC đứng bên hông “lô cốt”. Có người nói :
- “Thầy có chi cho tụi em ăn với. Hai ngày nay đói lắm”.

Sở dĩ họ gọi tôi bằng thầy vì trong số đồng đội của họ, không ít người là học trò cũ của tôi.

Vợ tôi nói :
- “Có bánh tét, mấy em ăn không ?”.
- “Tốt lắm, tốt lắm cô. Cô cho vài đòn nghe !” Vợ tôi biểu con Thơ bỏ gánh xuống, lấy hai đòn bánh đi tới sát hàng rào, quăng vào cho họ.

Dự tính chạy về Chợ Cống, ngoại ô, tá túc nhà mấy người bạn, nên tôi hỏi :
- “Về Chợ Cống được không ?”
- “Không được mô ! Việt Cộng chiếm rồi thầy ơi !” Có người trả lời.
- “Vô thành nội được không ?” Tôi lại hỏi.
- “Không được. Việt Cộng cũng chiếm rồi”. Lại có tiếng trả lời.

Không kịp suy nghĩ, tôi nói với vợ tôi : “Về Hàng Me”.

Đường Hàng Me cách nhà tôi hiện ở không xa, chưa tới nửa cây số. Chúng tôi lúp xúp chạy, đường vằng hoe. Tới ngã tư có đường về sân vận động Tự Do, tôi thấy bên cạnh đường, kế gốc cây là xác hai người lính Việt Nam Cộng Hoà. Sau mới biết rằng hai người nầy về nhà ăn tết, nửa đêm nghe súng nổ, mặc quần áo đi bộ vào trại. Tới ngã tư nầy thì họ bị Việt Cộng bắn chết. Gia đình thân nhân chưa hay biết gì cả nên chưa chôn cất.

Tới đường Hàng Me, tôi ghé nhà bác Xưởng, quen biết từ năm trước. Bác cũng có đứa con, học trò trường của tôi chứ không phải học trò tôi. Trước đây một năm, tôi cũng từng ở xóm nầy nên cũng quen biết nhau. Bác ấy làm Công An (Cảnh Sát Đặc Biệt). Khu đường Hàng Me, vì trái đường, xa doanh trại quân đội nên chẳng có đánh chác gì ở đây cả. Vì không đánh nhau, bộ đội chưa tới thì cán bộ Việt Cộng cũng chưa mò tới dây, tình hình khác với chỗ khác là vậy.

Vợ bác Xưởng và mấy bà hàng xóm đang ngồi đánh tứ sắc. Thấy chúng tôi tới, họ nghỉ đánh bài, lấy đồ ăn dọn ra cho chúng tôi ăn. Vợ chồng con cái chúng tôi và mấy đứa ở lần lượt thay nhau tắm rửa, thay quần áo, thấy khỏe khoắn và ăn ngon.

Nghĩ cũng buồn cười. Hai nơi cách nhau chưa được nửa cây số, nơi của tôi thì đánh nhau liền hai ngày đêm, điện nước không có, lại còn phải chui vào hầm trốn súng đạn suốt cả đêm. Nơi đây thì chẳng có gì hết. Súng đạn chỉ nghe xa xa vọng lại, giống như một xứ sở thanh bình, chẳng biết chiến tranh là gì cả.

Quá trưa, bác Xưởng qua nhà bên cạnh, hỏi thuê tạm cho gia đình tôi một chỗ trú chân. Nhà nầy chính là ngôi nhà tôi đã ở năm vừa qua.

Nói chuyện với chủ nhà xong, bác Xưởng nói với tôi :
- “Tui hỏi giúp anh chị lấy tạm một phòng nhà bên kia. Tối qua bên đó ngủ cho thoải mái”.

Được vậy, vợ chồng tôi mừng lắm, bèn mang đồ đạc qua nhà bên đó. Tôi vào hỏi thăm chủ nhà cho phải phép.

Vào tới nhà ông, tôi lại thấy buồn cười. Người đứng ra thay mặt chủ nhà cho thuê là ông Hoành, ông nầy làm sở Mỹ nên trông cũng khá giả, thoải mái. Khi tôi tới, ông đang ngồi ở sa-lông chơi với đứa con trai, miệng ngậm ống vố, hút thuốc Seventy-Nine thơm lừng. Tôi tự trách thầm. Học hành như ông nầy, chẳng tới đâu mà sướng vậy. Còn như mình, làm thầy giáo, chẳng bao giờ giàu, chỉ đủ ăn, giặc giã chạy loạn, tay dắt tay ôm, sao mà khổ thế !

Cũng vì ý nghĩ đó nên sau Mậu Thân, nhập ngũ rồi, ra đơn vị, tôi cũng học thói mỗi khi có thì giờ thì ngồi vếch đốc củ tỏi mà hút ống vố, thuốc Seventy-Nine thơm phức cho khỏe với đời một chút vậy !

Tối hôm đó, tôi ngủ ngon, mặc dù vẫn còn nghe súng nổ ở phía nhà cũ. Súng nổ xa, biết đạn sẽ không tới chỗ mình nên yên giấc suốt đêm.
2. Tập Trung
Sáng hôm sau, khi tôi thức dậy thì trời đã sáng hẳn. Quang cảnh thật yên lặng, có tiếng người ngoài sân nhưng ngoài đường thì vắng. Tôi đi ra sân.
Ông cụ Chất, thân sinh của tướng Toàn, nhà ở bên kia hàng rào xi măng, đang kéo một ống giây nylon cho nước dùng qua sân chúng tôi vì cụ thấy bên phía nhà tôi nhiều người đang chéo réo về việc nước máy không có. Ông cụ là người tốt bụng, sinh sống ở đây đã lâu, mọi người đều kính mến.
Trong khi nhiều người đang loay hoay lấy nước thì có đứa trẻ nói : “Việt Cộng kìa !” Tay đứa trẻ chỉ lên hướng sau, phía đường Đội Cung, trường Kiểu Mẫu. Người mẹ, tôi đoán vậy, rầy đứa con : “Chỉ chỏ nó thấy nó bắn cho bây giờ”.
Thật ra, cũng không đáng lo như vậy. Tên Việt Cộng đang lom khom bò trên nóc dãy nhà dài hơi xa sân nhà tôi. Đó là dãy nhà cho thuê, ngó ra đường Đội Cung. Tên Việt Cộng bò ra tới cuối nóc nhà thì ngừng lại. Có lẽ từ chỗ đó y quan sát phía bờ sông, chỗ bến cảng mới của lính Mỹ. Bỗng có tiếng súng lớn từ phía bờ sông bắn lên, có cả đạn lửa nên tôi thấy rõ đạn đạo bay về phía tên Việt Cộng. Anh ta vội vàng chạy tháo lui. Không rõ anh ta đi dò thám lính Mỹ hay thất lạc đơn vị.
Sau khi ăn sáng xong, tôi nói với vợ tôi :
- “Để coi yên yên, anh về nhà lấy cái TV”.
Vợ tôi hốt hoảng :
- “Thôi anh ! Nguy hiểm lắm, không đi được đâu !”
- “Để chút nữa coi tình hình ra sao !” Tôi nói. “Nếu có người ta đi thì mình đi. Còn như đường vắng lắm thì thôi”. Ngưng một chút, tôi nói : “Về lấy cái TV cho con nó coi. Nhà không cửa nẻo gì hết, người ta lấy mất thì biết bao giờ mới mua lại được”.
Cách đây mấy tháng, khi Huế bắt đầu có đài TV, tôi cùng vợ đi mua một cái TV hiệu Denon, 20 inches, về cho các con coi. Lương thầy giáo như tôi, với cái TV giá 4 chục ngàn là to lắm. Vợ tôi phải tiết kiệm lắm mới mua được. Vừa mua cái xe Vespa, lại mua thêm cái TV, tình hình tài chính chúng tôi kẹt lắm. Vả lại, từ khi có TV, không khí trong gia đình cũng vui. Tối lại, cơm nước xong, chuẩn bị giường chiếu rồi cả nhà xúm nhau lại ở phòng khách mà coi TV. Chương trình tuy không dài vì đài TV mới có, cũng đủ cho cả nhà giải trí mỗi đêm. Bên cạnh đó, thằng con trai hai tuổi của tôi rất mê TV. Hễ thấy trời tối thì thằng bé trèo lên ghế xa lông ngồi, miệng nói : “Mở Vi choi”. (Mở TV coi). Có những buổi tối, hai vợ chồng tôi đi vắng, mấy đứa nhỏ cùng mấy con ở coi TV với nhau. Anh Khôi, người chúng tôi cho thuê một phòng ở phía ngoài, đi chơi về thấy mấy đứa con tôi ngồi coi TV, anh rất vui. Có lần anh ấy nói : “Về thấy mấy đứa nhỏ ngồi xalông coi TV chăm chú, tôi có cảm tưởng như cảnh bên Tây. Đời sống văn minh hiện đại sướng thật !”.
Tôi kể lại chuyện “Mở Vi choi” cho vợ nghe, để thuyết phục cô ấy để tôi về nhà lấy cái TV đem theo kẻo sợ bị lấy mất.
Tới trưa, thấy ngoài đường có người đi lại, nói với vợ xong, tôi bèn gọi con Thơ đi theo tôi lấy cái TV về. Nó cầm theo cây đòn gánh. Thấy vậy, tôi hỏi :
- “Mi cầm theo đòn gánh làm chi ?”
- “Dạ, con gánh TV về”. Con Thơ trả lời.
Tôi nói :
- “Cầm theo cái đòn gánh, lính tráng hay Việt Cộng ở xa xa, nó tưởng mầy cầm cây súng, ria cho một băng là xong đời. Ngu ! Đem cất đi”.
Nó đi theo tôi về nhà. Nhà trống hoắc, không cửa nẻo gì cả vì hôm đầu tiên đạn pháo kích làm bung cửa hết cả rồi. Cũng may, hôm dọn dẹp nhà cửa sau đêm đầu tiên Việt Cộng tấn công, vợ tôi đã tháo 4 cái chân TV, còn cái TV thì lấy mền bọc lại. Tôi chỉ việc buộc giây rồi lấy cây tre thọc ngang. Con Thơ phía trước, tôi phía sau, khiêng cái TV về.
Ra tới ngõ, tôi tránh không đụng nhằm mấy “cục xà bông” nằm ngay giữa ngõ. Thật ra, đó không phải là xa-bông mà chính là chất nổ, có màu hơi vàng như xa-bông cục, mềm. Có một miếng bị bánh xe đạp cán lên, xà-bông lòi ra. Có khoảng ba bốn tấm xà-bông như vậy, mỗi tấm dài khoảng 3 tấc vuông, dày cở 4 phân, bên ngoài bọc nylon màu xanh. Mỗi tấm được chia làm bốn phần bằng nhau, mỗi phần có một ngòi nổ. Ngòi nổ lớn bằng đầu đũa, dài gần ngón tay. Bên cạnh đó, lại có thêm 2 xác Việt Cộng nữa, vừa chết đêm qua. Tôi đoán thầm là mấy tên nầy dự tính đem chất nổ đến phá cái lô-cốt bên kia đường. Chưa kịp xung phong thị họ đã bị CSDC bắn chết ở đây. Mấy tấm xà-bông nầy mà nổ được thì cái lô-cốt kia coi như không còn gì, những ngôi nhà quanh đầy không sập thì cũng đổ vách, nứt tường, không ít người chết, bị thương. Chuyện mới xảy ra tối qua, khi gia đình tôi đã chạy khỏi đây rồi. Hú vía !
Sau biến cố, tôi bỏ nhà nầy, không dọn về ở nữa. Tôi biết vợ tôi vốn nhát gan, thấy cảnh Việt Cộng chết nằm đầy ngoài sân, bên gốc dừa, ngay cửa ngõ, bên lề đường như vậy thì đêm nào cũng có ác mộng, không thể có sự bình an tâm lý được, nên phải kiếm nhà khác mà ở vậy.
Những gia đình trong khu vực, sau khi tình hình yên ổn, lục tục kéo về. Bấy giờ hệ thống nước máy bị hỏng chưa sửa chữa kịp, nhiều nhà dùng nước mưa. Nước hứng từ mái nhà bà cụ già ở ngay chính giữa thấy có mùi hôi, không dùng được. Để tìm hiểu, người ta mới trèo lên mái nhà xem. Té ra có xác một anh Việt Cộng nằm chết ở đấy, giữa hai mái nhà trước và nhà sau gặp nhau, chỗ nầy có cái máng xối. Đạn trúng ngay đầu anh ta. Có lẽ anh ta trèo lên mái nhà để bắn sang phía bên kia đường. Bên kia bắn lại, đạn trúng ngay đầu khiến anh ta chết ngay tại chỗ. Gia chủ phải thuê người dọn xác, đem chôn.
Tôi về tới nhà trọ mới được một lúc thì có máy bay bay trên không, phát thanh lời kêu gọi của tướng Lãm, yêu cầu đồng bào hãy tập trung về trường Kiểu Mẫu để được quân đội bảo vệ.
Thế là ai nấy ùn ùn kéo nhau đi. Tất cả dân chúng ở xóm tôi đi lên trường Kiểu Mẫu, không ai dám đi theo đường bờ sông (đường Lê Lợi). Việt Cộng ở bên kia sông, (đường Trần Hưng Đạo) hễ thấy bóng người bên nầy, không phân biệt là ai, họ bắn qua. Có lẽ binh lính Việt Cộng không ai có bằng xạ thủ nên may mắn không ai trúng đạn, chết hay bị thương cả.
Vậy nên dân chúng đi con đường trong, con đường đi vào Ty Cảnh Sát, tôi không nhớ tên đường nầy. Ty Cảnh Sát phải đập vỡ một khúc tường phía sau để đồng bào sau khi vào Ty Cảnh Sát thì theo chỗ tường vỡ đó mà qua trường Kiểu Mẫu. Khi đi ngang cái vọng gác ngay cổng ty, chúng tôi thấy có một tên Việt Cộng nằm chết trong đó. Tình thật, tôi nói : “Thằng Việt Cộng mập dữ”. Vợ tôi trả lời ngay : “Chết mấy ngày sình lên chớ mập chi !”
Vào tới trường Kiểu Mẫu, lúc ấy, trường thì rộng, người chưa đông, nên dễ kiếm chỗ nghỉ. Chúng tôi chọn một lớp học ở tầng lầu hai, vào dọn chỗ nghỉ ở đó. Mấy người quen cũng dần dần kéo vào, càng lúc càng đông. Người đi tới, kẻ đi lui, nói chuyện, náo nhiệt.
Tôi dặn cả nhà cứ ở trong phòng, đừng ra ngoài, đề phòng Việt Cộng ở bên sông bắn qua hay pháo kích. Chiều lại, con Thơ cùng một đứa nhỏ khác theo giúp, xuống giếng, - Cái giếng cũ, khá lớn, đào từ hồi Tây còn đô hộ - lấy nước, vo gạo, nấu cơm. Cũng may, khi chạy giặc, phòng xa, vợ tôi có biểu mấy con ở đem theo một cái lò nấu bằng dầu hôi.
Chiều lại, cơm nước xong, trời tối dần. Người đi lại đã thưa, rồi im lặng hẳn, ai nấy đã đi ngủ. Bình yên.
Sau nửa khuya, tôi nghe một tiếng nổ rất lớn, hơi xa, không biết là chuyện gì. Một lát sau, có tiếng người ngoài hành lang nói : “Cầu Trường Tiền sập rồi”. (Đây là đề tài để sau nầy nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng sáng tác bài hát “Chuyện một cây cầu đã gãy”.)
Tôi đi ra hành lang, thấy có mấy người đang đứng ở đó, nhìn về hướng cây cầu trên sông Hương. Tuy trời tối, nhưng cũng trông thấy được : Cầu Trường tiền có sáu vài, hai vài giữa, chỗ nối nhau đã rơi xuống sông. Tôi nghĩ thầm, mai mốt lấy chi mà hai bên qua lại.
Năm 1946, khi Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân kháng chiến, cầu đã bị giật sập một lần, cũng chính là hai vài cầu ấy. Sau khi Tây chiếm lại thành phố Huế, hai vài sập được bắt tạm bằng cầu sắt Eiffel, hẹp hơn, lót ván, xe cộ qua lại hai chiều không được, phải chờ nhau ở đầu vài cầu hẹp. Khoảng năm 1953, cầu đã được sửa chữa lại, bằng hai vài cầu mới, rộng như cũ, đúc xi măng. Việc giao thông trở lại bình thường. Bấy giờ cầu được đặt tên mới là cầu Nguyễn Hoàng. Phần đông người Huế biết ông Nguyễn Hoàng là ai nhưng chẳng ai gọi nó là cầu Nguyễn Hoàng. Người ta cứ tên cũ : Trường Tiền mà gọi.
Nếu kể xưa hơn nữa thì hồi trận bão năm Thìn (1902), cầu Trường Tiền hồi đó không biết làm bằng gì mà bão thổi bay mất, sau làm mới như bây giờ, đúc sàn bằng xi măng. Vì vậy, sau trận bão năm ấy, Huế có câu ca dao :
Chợ Đông Ba đem ra ngoài dại,
Cầu Trường Tiền đúc lại xi măng.
Chợ Đông Ba ngày xưa nằm phía ngoài cửa Đông Ba, chỗ sau nầy gọi là vườn hoa Đông Ba. Sau trận bão ấy, chợ dời ra ở ngã ba sông Hương và sông đào Hàng Bè. Còn chuyện “đúc lại xi măng” thì như trên, tôi đã kể.
Khi thấy cầu sập, đám người đang đứng ở hành lang lúc ấy, bàn chuyện và tỏ ý buồn. Tuy nhiên, có ai đó nói một câu được coi như an ủi, làm phấn chấn. Người ấy nói : “Việt Cộng thua rồi”.
Nghe câu nói ấy, tôi cũng thấy vui một chút vì “Việt Cộng thua”. Tôi thấy được cái lý lẽ của câu nói. Một lúc sau, đi ngủ lại, tôi nằm bên vợ tôi. Vợ tôi hỏi : “Chi vậy anh ?”
- “Cầu Trường Tiền sập rồi !” Tôi nói.
Vợ tôi chưng hững :
- “Cái gì ? Cầu Trường Tiền sập ? Việt Cộng giựt sập ?”
Tôi an ủi vợ :
- “Việt Cộng giựt sập. Họ cũng sắp thua, chắc họ rút sớm thôi !”
Vợ tôi hỏi tới :
- “Răng anh biết ?”
Tôi giải thích cho vợ nghe :
- “Nếu họ trên đà chiến thắng, họ giựt sập cầu làm chi ! Giựt sập cầu là sợ quân mình bên nầy tiến qua”.
Nghe tôi nói có lý, vợ tôi làm thinh, ngủ tiếp.
Gần sáng thì người đi lại xôn xao ngoài hành lang, bàn tán ồn ào về chuyện cầu Trường Tiền bị sập.
Con Thơ lại thức dậy, xuống giếng lấy nước đem lên cho các con tôi rửa mặt, rồi nấu mì gói cho cả nhà. Trong khi đó thì vợ tôi lo thay quần áo cho các con.
Đến gần trưa, vợ tôi nói :
- “Mình về thôi anh. Ở đây phức tạp quá !”.
Tôi không đồng ý, hỏi :
- “Tối lại thì sao ?”
- “Nếu êm thì mình ngủ ở nhà, thấy không êm thì mình lại vô đây”.
Chiều ý vợ, chúng tôi xếp đặt đồ đạc, ra về.
Lần nầy, chúng tôi về bằng đường bờ sông (đường Lê lợi) không đi đường qua ty Cảnh Sát như trước. Bây giờ, đường nầy người đi lại cũng đã đông. Khi đi ngang bến tàu của Mỹ, có chiếc trực thăng đang bay phía trên đầu, bắn hoả tiễn vào vị trí Việt Cộng bên kia sông, chỗ ngôi miếu ngay ngã ba sông Hương và sông đào Hàng Bè, bên phía Gia Hội. Tiếng hoả tiễn xịt lửa ngay trên đầu đã thấy ghê mà tiếng nổ ở bên sông rất dữ dội. Vợ tôi kinh hãi quá, níu lấy tôi, rên rỉ : “Sợ quá anh ới ! Ghê quá anh ới !” Tôi quan sát và thấy việc trực thăng bắn hoả tiễn bên sông, không ảnh hưởng gì tới bên nầy, bèn an ủi vợ : “Họ bắn bên sông, có can gì tới mình đâu !” Rồi tôi đưa cả gia đình tôi về ngôi nhà mới thuê. Chiều hôm đó, thấy không yên tâm ngủ ở ngoài nầy, chúng tôi lại vào trường Kiểu Mẫu, trở lại chỗ cũ.

No comments: