ĐỌC
LENIN
Chủ nghĩa cộng sản trong mấy thập niên trở lại đây
không những suy sụp về mặt thực tiễn, còn chứng thực khủng
hoảng về mặt lý luận.
Tuy phong trào nghiên cứu chủ nghĩa Mác phát
triển, song chủ nghĩa Mác "chính thống"Ếvới những danh
xưng khác nhau như chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa
cộng sản hay chủ nghĩa xã hội khoa học (từ ngữ này
nguyên ủy đề xuất từ Proudhon) đã trên đà suy
thoái, thông qua những hiện tượng:
- Tính "khoa học" trong chủ nghĩa Mác xây
dựng trên một số tiền đề: nhìn nhận lịch sử xã hội
là một lịch sử những đấu tranh giai cấp, nhìn nhận tri
thức và thực tiễn con người là một thể thống nhất,
ngõ hầu những phương tiện lý luận và thực tiễn
nhằm đạt tới cứu cánh đồng nhất với chính cứu cánh
(cho nên sự thành công của một phong trào
xã hội đặc thù chứng thực "chân lý" một
cách khoa học), nhìn nhận cơ sở của một khoa học lịch sử
đã thành tựu, nhìn nhận lịch sử xã hội diễn
ra theo quá trình "hình thành xã
hội" như Marx dự kiến. Thực ra, tính "khoa học" chỉ phản
ánh xu hướng chung "tôn thờ khoa học" của thời đại Marx
và Engels.
- Mối quan hệ khăng khít và duy nhất của chủ nghĩa
Mác với sự thể hiện qua lý luận và thực tiễn của
chủ nghĩa Lênin và Stalin. Điều đó chỉ ra chủ nghĩa
cộng sản trong giai đoạn nắm quyền bính đã thể hiện chủ
nghĩa Mác như một hệ tư tưởng độc đoán.
- Trong thực tiễn xã hội cộng sản, chủ nghĩa Mác
thông qua Đảng và Nhà nước cộng sản không
còn là một lý luận nhằm giải thích hay biến
đổi thế giớiẾchủ nghĩa Mác không chỉ biến dạng
thành một khoa kinh điển giáo điều, còn là
một khoa diễn tập những khẩu hiệu, chiêu bài trong mục
tiêu chính trị.
Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ngày nay chỉ ra về mặt thực tế
những biến chuyển phức tạp của phong trào công nhân
thế giới.Sự tan rã của hầu hết các nước trong khối
"xã hội chủ nghĩa" đã dẫn đến "một khúc quanh lịch
sử" chứng thực hai trào lưu diễn ra trong phong trào
công nhân thế giới, như người cộng sản nhìn nhận
là "trào lưu cộng sản" và "trào lưu
dân chủ xã hội" có thể đánh dấu từ thời điểm
thành lập Quốc Tế Cộng sản Ba vào năm 1919:
- Sự chuyển hướng theo "chủ nghĩa xã hội dân
chủ."
- Cách tân xã hội thông qua con
đường "xã hội chủ nghĩa không cộng sản."
Trong quá trình lịch sử vào những thời điểm khủng
hoảng, người cộng sản đặt lại vấn đề "bảo vệ chủ nghĩa
Mác-Lênin như một chủ nghĩa xã hội khoa học," chỉ
ra những khái niệm và tổ chức khác nhau của phong
trào dân chủ xã hội quốc tế nhằm phân biệt
những quan niệm của đảng xã hội hữu khuynh, đảng dân chủ
xã hội, đảng quốc tế xã hội chủ nghĩa, đảng dân chủ
xã hội chủ nghĩa. Về mặt lịch sử phong trào công
nhân thế giới, người cộng sản đặt lại vấn đề nghiên cứu sự
giải thể cộng sản Quốc tế Ba vào năm 1943 (do mục tiêu của
cuộc đấu tranh chống phát-xít và hình thức
tổ chức quốc tế cộng sản không còn đáp ứng
yêu cầu vận động thời đại) với sự hình thành lớn
mạnh của Quốc tế Xã hội sau thế chiến thứ hai (những lực lượng
Quốc Tế Xã Hội bành trướng và thắng thế trong
những cuộc bầu cử tại Pháp, Đức v.v ...) với hội nghị đầu
tiên tại Frankfurt vào năm 1951. Khi nhìn nhận thực
thể của phong trào Quốc tế Xã hội phân biệt với
phong trào Quốc tế Cộng sản là trở lại cuộc tranh luận từ
đầu thế kỷ của những xu hướng lý luận phân hóa,
khởi nguồn từ chủ nghĩa Mác.
Điểm phân biệt chủ yếu của Quốc Tế Xã hội với Quốc tế Cộng
sản ở chỗ những người dân chủ xã hội loại bỏ những
khái niệm nguyên tắc của "chủ nghĩa xã hội khoa
học" (nghĩa là chủ nghĩa Mác-Lênin) về quan niệm
đấu tranh giai cấp, vai trò chuyên chính vô
sản, và đề cao nền dân chủ đại nghị, hệ thống chính
trị đa đảng và chủ nghĩa đa nguyên tư tưởng.
Khởi điểm của thế kỷ XX đánh dấu sự phát triển lớn mạnh
của lực lượng công nhân, so với thời kỳ Marx và
Engels đưa ra Tuyên ngôn của đảng Cộng sản (1848).
Chủ nghĩa Mác trở thành một lý luận chủ đạo của
những phong trào công
nhân.
Sự
phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác trong giai
đoạn này biểu hiện những mặt khác biệt:
a. Lý luận gắn liền với thực tiễn chỉ đạo phong trào
công nhân nhằm đạt tới mục tiêu thực hiện Cách
mạng, giành quyền lực đã gây phân hóa
giữa những người Mácxít. Những tranh luận phê
phán, chỉ trích giữa những người
Mácxít với nhau còn dữ dội hơn đối lập với kẻ
thù.
b. Sự tiến triển của xu hướng dân chủ, sự phát triển những
đảng và công đoàn đã làm tinh thần
cách mạng suy thoái và chủ nghĩa Mác
đã xoay chiều hướng từ những xã hội công nghiệp
phương tây xâm nhập những xứ nông nghiệp phương
đông.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã đưa đảng
CS bônsêvích lên nắm chính quyền
và lý luận của Lênin trở thành chủ đạo của
phong trào cộng sản thế giới.
Vấn đề đặt ra là đọc Lênin như thế nào? Có
phải chủ nghĩa Lênin là sự phát triển duy nhất của
chủ nghĩa Mác hiện đại? Hay chủ nghĩa Lênin là hiện
thân của một chủ nghĩa Mác đặc thù (như H. Marcuse
gọi là chủ nghĩa Mác Xô viết)?
Những biến đổi giá trị tư tưởng trong thời đại quá độ từ
thế kỷ 19 sang thế kỷ 20 đánh dấu một hiện tượng đặc sắc của
thời đại: mối quan hệ giữa triết học và phi triết học. Bản chất
của mối quan hệ này chi phối toàn diện tư tưởng của con
người hiện đại.
Vấn đề của chủ nghĩa Mác là: Nhà triết học từ
trước đến nay chỉ đi giải thích thế giới trong khi thực sự phải
biến đổi nó. Có phải Marx đã đoạn tuyệt với con
người triết học thời trẻ để trở thành một nhà lý
luận hành động cách mạng?
Có phải Lênin cũng đứng trên vị thế phi triết
học - hay là một nhà tư tưởng đưa ra một thực
tiễn mới về triết học (như Louis Althusser quan niệm)?
Cũng như Marx, những di cảo của Lênin để lại nhiều tranh luận.
Tập Bút ký triết học của Lênin trong những năm 1914
- 15 (in trong Leninski Sbornik, 1929) đã đặt lại quan hệ giữa
chủ nghĩa Mác và Hegel, giữa chủ nghĩa duy tâm
và chủ nghĩa duy vật - những ý tưởng khác biệt với
những luận điểm trong Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán (1908). Những ý tưởng cơ bản về nhận thức
luận và phép biện chứng dẫn đến một cơ sở triết học mới
cho những bài viết sau 1915 của Lênin về triết học,
chính trị, kinh tế và sách lược tổ chức mà
cơ bản tập trung quanh vấn đề biện chứng (biện chứng của lịch sử
cách mạng, vấn đề tự quyết dân tộc và cách
mạng thế giới), khẳng định một nhận thức về Hegel (những tác
phẩm của Hegel có tính duy tâm nhất lại ít
duy tâm nhất và mang nhiều tính duy vật nhất).
Trong lịch sử triết học, Lênin không được chú
ý nhưng trong khối cộng sản, Lênin được coi là một
nhà tư tưởng lớn. Nghịch lý này biểu hiện về mặt
thực tại lịch sử, sự xung đột giữ chủ nghĩa Lênin và chủ
nghĩa Mác Tây Âu, mặt khác sự độc quyền của
một tư tưởng trở thành ý thức hệ. Ngay sau thời đại
Stalin, người cộng sản vẫn bảo thủ quan niệm "chủ nghĩa Lênin
không phải là một lý giải của chủ nghĩa Mác"
mà là "sự phát triển của chủ nghĩa Mác ở
giai đoạn Lênin." Vấn đề này mang một ý nghĩa triết
lý đặc biệt, chỉ ra "khoảng cách giữa chân
lý và ý thức"(Merleau -Ponty).
Vấn đề ý thức như một phản ánh mà lịch sử
là bản chất thứ hai (tính khách quan - trong
phép biện chứng duy vật đã biến thực tại xã hội
thành một bản chất thứ hai) biểu hiện tác động qua lại
giữa những phạm trù của triết học và kinh tế trong chủ
nghĩa Mác theo Lukács (Der junge Hegel), có thể
nói nó cũng biểu hiện tác động qua lại giữa những
phạm trù của triết học và chính trị trong chủ
nghĩa Lênin.
Đứng trên quan điểm nhận thức triết học, Lênin không
đi giải quyết những vấn đề triết lý, vì theo ông,
mọi vấn đề triết học cơ bản đã được Marx và Engels giải
quyết rồi.Vấn đề triết học trong chủ nghĩa Lênin gắn liền với vấn
đề chính trị qua hai giai đoạn:
a. Thời kỳ ông viết Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán (1908) với tiểu đề: Những bình luận
phê phán về một triết học phản động. Tác phẩm
này được hình thành sau sự thất bại của
Cách mạng Nga 1905, sự phân hóa trong nội bộ đảng
về chủ trương tham dự hay tẩy chay Nghị viện Duma kỳ ba, và
những thảo luận về triết học của chủ nghĩa Mác do nhóm
bônsêvích Bogdanov, Bazarov, Lunacharsky ... đề xuất.
b. Thời kỳ ông viết Bút ký triết học (trong khoảng
1914 -15) gồm những ghi chú khi đọc bộ Lôgic và
những Bài giảng về triết học lịch sử của Hegel và những
tiểu luận (được in ra) Lênin viết về chủ nghĩa Mác. Thời
kỳ này đánh dấu sự khủng hoảng của Quốc Tế Cộng sản Hai
mở đầu Thế chiến thứ nhất (người cộng sản gọi là chiến tranh đế
quốc).
Mục tiêu của Lênin trong thời kỳ thứ nhất khi đề cập đến
mặt thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
(chủ nghĩa duy vật biện chứng trong triết học Mác) nhằm chỉ ra
tính đảng trong triết học, gắn liền với cương lĩnh chính
trị và ý tưởng về một đảng cách mạng trên
con đường giành quyền lực. Những cơ sở lý luận của
Lênin đã được nêu ra trong những tác phẩm
chính trị như Làm gì? (Chto delat?)
và Hai sách lược của Đảng dân chủ Xã
hội trong Cách mạng dân chủ.
Một nguyên tắc cơ bản mà Lênin đề ra như một mẫu mực
về ý thức cách mạng của hoạt động cách mạng
là không thể có phong trào cách mạng
nếu không có một lý luận cách mạng.
Nguyên
tắc này nhằm chỉ ra sự kiện là giai cấp công
nhân để tự nó bộc phát không thể đạt tới
ý thức về sự đối lập cơ bản giữa giai cấp của nó với hệ
thống xã hội hiện hữu - như Lênin khẳng định:
"Chúng ta đã phát biểu không thể có
ý thức dân chủ xã hội trong giới công
nhân. Ý thức ấy chỉ có thể du nhập từ ngoài
vào. Lịch sử của mọi nước chỉ ra rằng giai cấp công
nhân để tự nó, chỉ có khả năng phát triển
ý thức công liên, nghĩa là niềm tin
vào sự tất yếu tổ chức công đoàn tranh đấu với giới
chủ nhân, bắt buộc chính quyền phải thông qua đạo
luật lao động cần thiết. ... Tuy nhiên, lý luận về chủ
nghĩa xã hội phát sinh từ những lý luận kinh tế,
lịch sử và triết lý được phát triển bởi những đại
biểu có học của những giai cấp hữu sản, bởi những người
trí thức. Đứng về mặt cương vị xã hội, ngay chính
những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học hiện
đại, Marx và Engels, cũng thuộc về giới trí thức."
Trên nguyên tắc này, một ý thức xã hội
chủ nghĩa chỉ có thể đến từ một cơ sở có lãnh đạo
tổ chức, trang bị bằng một lý luận. Khởi từ đó,
Lênin đã đưa ra khái niêm nhất định về một
đảng tiền phong của giai cấp công nhân:
"Tổ chức của những người cách mạng trên hết phải dựa
vào những người coi hoạt động cách mạng là
chuyên nghiệp. Đứng trên quan điểm của đặc tính
chung giữa những thành viên của một tổ chức như vậy, mọi
phân biệt giữa công nhân và trí thức
phải được xóa bỏ."
Và ông chỉ rõ một nguyên tắc về tính
đảng (partiinost):
"Một khi không có vấn đề về một hệ tư tưởng độc lập do
chính quần chúng lao động tạo nên trong quá
trình vận động của họ, chỉ có một chọn lựa duy nhất - một
là hệ tư tưởng tư sản, hai là hệ tư tưởng xã hội
chủ nghĩa. Không có con đường ở giữa - vì
nhân loại không có tạo ra một hệ tư tưởng thứ ba,
và trong một xã hội bị xâu xé bởi những đối
kháng giai cấp thì không thể nào có
hệ tư tưởng phi giai cấp hay đứng bên trên giai cấp được."
Nguyên tắc tính đảng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
lý luận của chủ nghĩa Lênin.Một nhận thức về xã
hội, theo Lênin, từ bản chất đã mang tính giai cấp
và tính đảng trong một xã hội vẫn còn tồn
tại giai cấp. Ngay từ một trong những tác phẩm đầu của ông
Nội dung kinh tế của "những người bạn dân" và phê
phán nó trong quyển sách của Struve 1895,
Lênin đã khẳng định:
"Có thể nói chủ nghĩa duy vật bao gồm tính đảng
và thừa nhận trực tiếp, công khai về một quan điểm của một
nhóm xã hội nhất định trong mọi đánh giá
những biến cố xảy ra."
Quyển sách Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩ kinh nghiệm
phê phán được viết ra trong thời gian Lênin
nghiên cứu vài tháng ở British Museum vào
tháng 5 năm 1908, trực tiếp công kích lý
luận của Bogdanov và những người khác trong phong
trào Dân chủ Xã hội. Mục tiêu của Lênin
không phải để giải quyết đơn giản những vấn đề lý luận
mà nhằm một thực tiễn chính trị triệt để đả phá
những người đồng chí đi ngược với quan điểm cách mạng của
ông. Lênin bộc lộ phản ứng rõ rệt khi viết:"Chắc
chắn là những người mácxít bình thường
chúng ta không được đào tạo về triết học, song tại
sao người ta lại mạ lỵ chúng ta bằng mớ lý luận
trình bày trước mắt chúng ta như triết học của chủ
nghĩa Mác."
Lênin cũng khẳng định quan điểm về tính đảng khi viện dẫn:
"Marx và Engels là những người mang tính đảng
trong triết học từ đầu đến cuối, có thể phát hiện ra
những sai lạc đối với chủ nghĩa duy vật và sự đầu hàng
trước chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa tín ngưỡng của
mọi trào lưu cận đại."
Theo
ông, "triết học cận đại cũng mang tính đảng như triết học
hai ngàn năm về trước." Điều đó có nghĩa là
từ thời cổ đại đến nay, triết học phân chia làm hai chiến
tuyến rõ rệt: chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa
duy vật. Không có con đường nào
khác.Lênin viết tiếp: "Khi đi theo con đường của lý
luận Mác, chúng ta tiến gần đến chân lý
khách quan ... song nếu đi theo bất kỳ con đường nào
khác, chúng ta chẳng đi tới đâu ngoại trừ sự lầm
lạc và dối trá."
Lênin đã viện dẫn J.Dietzgen: "Bây giờ để có
thể theo con đường chân lý, không bị lầm lạc với
những điều tầm xào của triết học và tôn
giáo, thiết yếu cần phải nghiên cứu con đường sai lạc nhất
trong những con đường sai lạc (der Holzweg der Holzwege), đó
là triết học." Điều này có ý nghĩa
gì? Triết học là công cụ của đấu tranh giai cấp.
Cho nên Lênin cũng dẫn một ý tưởng khác của
Dietzgen: "Triết học không phải là khoa học, nhưng
là một phương tiện phòng vệ chống lại khuynh hướng
Dân chủ xã hội." Và chính Lênin đi tới
nhận định: "Những kẻ không có tính đảng trong
triết học thì cũng xuẩn động như trong chính
trị."
Thế nên, về mặt chính trị, Lênin khẳng định quyết
liệt chỉ có một chọn lựa giữa hệ tư tưởng tư sản và hệ tư
tưởng xã hội chủ nghĩa, không có hệ tư tưởng thứ
ba. Nói theo ngôn ngữ triết học, chỉ có nhất
nguyên, không có đa nguyên. Triết học trong
chủ nghĩa Lênin về cơ bản là chính trị. Có
thể nói chính trị là một thực tiễn của triết học
và triết học đó là chủ nghĩa duy vật
Lênin đưa ra một định nghĩa về bản chất của chủ nghĩa duy
vật, phù hợp với quan niệm của Engels trong những tác
phẩm Chống Duhring và Phép biện chứng của tự nhiên:
"Chủ nghĩa duy vật hoàn toàn nhất trí với khoa học
tự nhiên là vật chất có trước và ý
thức, tư duy, cảm xúc có sau."
Khởi từ một quan niệm như vậy, Lênin cũng xác định:
"Vật chất
là một phạm trù triết học xác định thực tại
khách quan mà con người có thể nhận biết nhờ những
cảm giác của mình, thực tại ấy được ghi nhận, chụp lại
và phản ánh qua những cảm giác của chúng
ta, trong khi nó hiện hữu độc lập với những cảm giác
này."
Lý luận cơ bản trong triết học duy vật của Lênin là
thuyết phản ánh: "Sự vật tồn tại ở ngoài chúng ta.
Tri giác và tư tưởng của chúng ta là những
hình ảnh của sự vật. Chứng thực những hình ảnh
này, phân biệt những hình ảnh đúng và
sai chỉ có thể thông qua thực tiễn."
Quan niệm vật chất và lý luận phản ánh của
Lênin mang một ý nghĩa quan trọng về mặt phương
pháp luận vì nó chỉ ra: thực tiển là cơ sở,
nguồn gốc và tiêu chuẩn cho chân lý của nhận
thức nơi con người. Nếu thế giới hiện hữu tuân theo những quy
luật khách quan và con người có thể nhận thức được
những quy luật này, học hỏi cách sử dụng chúng một
cách có ý thức trong công cuộc chiến đấu để
đạt tới mục tiêu thì không có nhiệm vụ
nào con người không thể thực
hiện.
Một
quan niệm như vậy biểu hiện phong cách lạc quan về lịch sử,
ít ra là về mặt thực tiễn nó dẫn khởi hoạt động
tiến tới mục tiêu theo đuổi. Quan niệm lạc quan lịch sử đó
tạo cho quần chúng lao động và giai cấp công
nhân niềm tin tưởng tất thắng cuối cùng cho lý
tưởng giải phóng giai cấp và sát cánh nhau
trong cuộc đấu tranh chống lại những kẻ thù về mặt ý thức
hệ.
Mặt khác, nó biểu hiện sự lạc quan về quá
trình tiến bộ vì: "Một khi chúng ta nhận thức được
những quy luật của tự nhiên, chúng ta làm chủ được
tự nhiên.Làm chủ tự nhiên biểu hiện trong thực tiễn
của con người là một thành quả của sự phản ánh một
cách khách quan đứng đắn trong óc con người về
hiện tượng và những quá trình của tự nhiên."
Lý luận về vật chất và phản ánh xây dựng
trên cơ sở của chủ nghĩa Mác, theo Lênin với đặc
tính rõ rệt của nó là chủ nghĩa duy vật
biện chứng. Ngay từ lời tựa lần xuất bản thứ nhất quyển Chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, Lênin
xác định: Marx và Engels đã nhiều lần mệnh danh
quan điểm triết học của các ông là chủ nghĩa duy
vật biện chứng. (Trong lời tựa lần thứ hai, Lênin lại chỉ ra một
lần nữa là quyển sách ông viết ra nhằm "sử
dụng như một phương tiện làm quen với triết học của chủ nghĩa
Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng." Trong sáu
chương sách đã viết ra, ba chương đầu đối chiếu nhận thức
luận của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán với chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chương 6 đối chiếu chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán với chủ nghĩa duy vật lịch sử). Sự thống nhất
giữa chủ nghĩa duy vật và biện chứng trong triết học Mác
được phân tích và triển khai qua lý luận duy
vật biện chứng về phản ánh và những phạm trù cơ
bản trong nhận thức luận của chủ nghĩa Mác chỉ ra mối quan hệ
giữa chủ nghĩa
Mác
và Hegel.Ngay từ tác phẩm Làm gì?,
Lênin đã lập lại quan điểm của Engels là:
"Không có triết học Đức dẫn khởi, đặc biệt là triết
học Hegel, chủ nghĩa xã hội khoa học Đức không bao giờ
có thể thành hình."
Trong tiểu luận trình bày chủ nghĩa Mác (1914),
Lênin đã viết: "Marx và Engels đã coi ph�p biện chứng của Hegel
là sự thành tựu vĩ đại nhất của triết học cổ điển
Đức."
Trong Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa
Mác, Lênin xác định: Marx đã làm
phong phú triết học với sự thành tựu của triết học cổ
điển Đức, đặc biệt là hệ thống Hegel dẫn đến chủ nghĩa duy vật
của Feuerbach. Sự thành tựu cơ bản là phép biện
chứng, nghĩa là "học thuyết và sự phát triển trong
hình thái toàn diện, sâu sắc và dễ
hiểu nhất, học thuyết về sự tương đối của nhận thức nơi con người
đã cung cấp cho chúng ta với một phản ảnh về vật chất
phát triển vô hạn."
Khi xác định bản chất của triết học Mác, Lênin muốn
chỉ ra một điều là Marx đã phát triển quan niệm
duy vật biện chứng về thế giới đến một quan niệm về xã hội với
chủ nghĩa duy vật lịch sử là mặt chủ yếu và là bộ
phận cốt cán của quan niệm duy vật biện chứng, Lênin viết:
"Triết học Mác là một chủ nghĩa duy vật triết lý
hoàn bị đã cung cấp cho nhân loại, đặc biệt
là giai cấp công nhân với những công cụ đầy
quyền năng về nhận thức."
Quan niệm này giúp cho chủ nghĩa Mác khám
phá "ngay trong xã hội vây quanh chúng
ta, những lực lượng – có thể từ vị trí xã hội của
chúng - phải cấu tạo quyền lực có khả năng
xóa bỏ cái cũ và xây dựng cái mới"
(Ba nguồn gốc và bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác).
Điều đó biểu hiện về mặt thực tiễn chính trị, khả năng
của chủ nghĩa Mác như một vũ khí lý luận của giai
cấp vô sản, xóa bỏ sự nô lệ tinh thần mà giai
cấp vô sản đã phải chịu đựng dưới hình thức người
bóc lột người.
Thái độ xác tín của Lênin được khẳng định
rõ ràng về một chủ nghĩa Mác chiến đấu.Nhưng
có một chuyển biến tư tưởng trong sự tiến triển nhận thức của
Lênin - cơ sở cấu thành nhận thức đó là
phép biện chứng của Hegel trong khi Lênin bắt đầu
"khám phá" Hegel.
Tập Bút ký triết học đánh dấu thời kỳ thứ hai,
có thể nói trong khi đọc và nghiên cứu
Hegel, những suy nghĩ từ thời điểm này mang những phát
triển quan trọng xây dựng lên một lý luận
cách mạng mác-xít với những tác phẩm sau
đó như Nhà nước và Cách mạng; Chủ nghĩa đế
quốc; giai đoạn cao nhất của chủ nghĩa tư bản, Cách Mạng
Vô Sản và Tên Phản Bội Kautsky v.v ...
Tại sao lại đặt vấn đề về mối quan hệ giữa Hegel va
øLênin? Thật ra, tư tưởng của Hegel đã du nhập nước
Nga vào khoảng 1835. Những nhà tư tưởng tiền phong của
chủ nghĩa xã hội dân chủ Nga đã coi Hegel như người
thổi luồng gió mới cách mạng trong tư tưởng đương thời.
Herzen nhiệt liệt ca ngợi nhà tư tưởng Ba lan Cieszkowski với
tác phẩm Prolegoma zur Historiosophie đã dẫn dắt
ông đi vào con đường tìm hiểu Hegel. Theo
Cieszkowski, Hegel đã chỉ ra cho nhân loại tự ý
thức được rằng sự nhận thức những quy luật chi phối sự phát
triển của lịch sử. Triết lý về lịch sử trở thành một hiện
thực khách quan, hữu hiệu về chân lý của nhận thức.
Trong tự nhận thức chỉ ra sự thống nhất giữa thực tiễn và
hành động:
"Con đường
tương lai của triết học nói chung là phải trở
thành triết học thực tiễn, hay đúng hơn triết học về thực
tiễn, mà hiệu quả cụ thể nhất đối với những quan hệ về đời sống
và xã hội là sự phát triển chân
lý trong hoạt động cụ thể." Herzen đã đón nhận tư
tưởng này và gọi phép biện chứng của Hegel
là "khoa đại số học của cách mạng."
Khi viết quyển Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán (1908) để tranh luận với nhóm Bogdanov,
Lênin chỉ đọc Hegel qua Marx và Engels. Từ bài tiểu
luận viết ra nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Herzen
(1912), Lênin ca ngợi Herzen đã đi thẳng tới "chủ nghĩa
duy vật biện chứng," đã lãnh hội được ph�p biện chứng của Hegel.
Lênin cũng nhấn mạnh: "Khi tưởng niệm Herzen, giai cấp vô
sản học hỏi được từ nơi ông sự đánh giá cao vai
trò quan trọng của lý luận cách mạng."
Như đã nói ở trên, Lênin quan niệm vấn đề
biện chứng là một nhân tố tất yếu trong sự nghiệp
cách mạng.
Trong khoảng
thời gian 1913 -1914, Lênin đã viết một loạt bài
khai triển những cơ sở tư tưởng của cuộc cách mạng sắp tới qua
nhiều khía cạnh khác nhau và đề ra những giải
pháp về mặt triết học cũng như về mặt chiến lược và
sách lược nhằm sửa soạn thực hiện cuộc cách mạng
này. Cơ sở của cương lĩnh cách mạng đã được
phác họa trong Bút ký triết học qua ba mặt của vấn
đề duy vật biện chứng:
a. Bản chất của biện chứng là một lý luận của sự
phát triển thế giới vật chất, trong những hình thức
khái quát nhất.
b. Sự thống nhất giữa biện chứng, lý luận nhận thức
và lôgíc trong chủ nghĩa Mác.
c. Ý nghĩa của biện chứng duy vật là cơ sở lý luận
cho mọi hoạt động thực tiễn của quần chúng.
Khi mô tả bản chất của phép biện chứng duy vật,
Lênin đã khái quát thành một
nguyên lý: "Phép biện chứng có thể được định
nghĩa như một học thuyết về sự thống nhất những mặt đối lập."
Những phạm trù cơ bản đối lập gồm ba nhóm:
1. Phép biện chứng khách quan về tự vận động nội tại của
vật chất;
2. Phép biện chứng về tác động qua lại giữa những sự
vật và hiện tượng;
3. Phép biện chứng chủ quan, nghĩa là quá
trình trong đó thế giới vật chất được phản ánh
trong ý thức của con người.
Lênin đã phát biểu quy luật về sự nhẩy vọt biện
chứng khi xác định: "Cái gì phân biệt
quá độ biện chứng với quá độ phi biện chứng? Sự nhẩy vọt.
Sự mâu thuẫn. Sự gián đoạn cái tăng dần. Thống nhất
giữa hữu và vô hữu." (trong Bàn về Vấn Đề Biện
Chứng). Quy luật đó được xác định như một quy luật về sự
thống nhất và đấu tranh giữa những mặt đối lập. Về mặt
chính trị, nó biểu hiện sự tồn tại của cái cũ
bên cạnh cái mới trong mối quan hệ qua lại nhất định, cho
nên trong bài viết Bàn về khẩu hiệu hô
hào liên hợp các nước châu Âu (1915),
Lênin đã đi đến nhận định về khả năng của chủ nghĩa
xã hội thắng lợi trước hết trong một nước, sách lược
chung của chủ nghĩa xã
hội thế giới
trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
cộng sản, về một chính sách thi đua kinh tế hòa
bình giữa hai hệ thống tư bản và xã hội chủ nghĩa,
cũng như sự chung sống hoà bình giữa những nước
khác nhau về chế độ chính trị, xã hội.
Ở một chỗ khác, ông định nghĩa gọn hơn: "Phép biện
chứng là lý luận nhận thức (của Hegel) và chủ
nghĩa Mác."
Khi đọc
Hegel, Lenin đã khẳng định:
"Không thể nắm vững hoàn toàn tác phẩm Tư
bản của Marx, đặc biệt là chương thứ nhất nếu người ta
không nghiên cứu và hiểu thấu toàn bộ
tác phẩm Khoa Luận Lý Học (Wissenschaft der Logik) của
Hegel. Thực thế, không một người mác-xít nào
từ nửa thế kỷ nay hiểu thấu được Marx."
Theo Lenin, Marx đã tiếp thu và phát triển mặt
cách mạng này của triết học Hegel và áp
dụng phương pháp biện chứng của Hegel trong hình
thái thuần lý vào khoa kinh tế chính
trị. Lenin đã chỉ ra phương pháp biện chứng đó như
sau: "Trong Das Kapital, Marx đã sử dụng khoa luận lý,
phép biện chứng và nhận thức luận của chủ nghĩa duy vật
như một khoa học duy nhất, rút ra mọi điều giá trị từ
Hegel và phát triển hơn
lên."
Trong lời bạt của ấn bản tiếng Đức lần thứ hai, Marx đã
xác nhận mối quan hệ về mặt phương pháp biện chứng của
ông đối với Hegel: "Phương pháp biện chứng của tôi
không những khác với phương pháp biện chứng của
Hegel mà nó còn đối lập trực tiếp. Đối với
tôi lý tưởng không là gì khác
hơn thế giới vật chất phản ánh bởi tinh thần của con người
và diễn dịch thành những hình thái tư duy.
... Vì thế tôi công khai thú nhận
tôi là học trò của nhà tư tưởng vĩ đại
này, và hiển nhiên đây đó, trong
chương sách luận về giá trị, tôi đã
làm dáng với những mô thức diễn tả đặc biệt của
Hegel."
Lenin đã trung thành với nhận thức này khi
trình bày học thuyết kinh tế của Marx trên hai vấn
đề: giá trị và giá trị thặng dư. Ông dẫn lời
Marx: "Mục tiêu tột cùng của công trình
này là phơi trần ra quy luật vận động kinh tế của
xã hội hiện đại" - vì trong xã hội tư bản, sản
xuất ra hàng hóa chiếm ưu thế, do đó Marx khởi sự
phân tích từ việc phân tích hàng
hóa trong chương thứ nhất.
Cũng trong lời bạt nói trên, Marx giải thích
rõ: Trong hình thái hợp lý của nó, ph�p biện chứng bao gồm cả
nhận thức tích cực về những sự vật hiện hữu đồng thời nhận thức
cả sự phủ định, sự phá hủy tất yếu những mặt hiện hữu này
(In ihrer rationellen Gestalt...(sie) in dem positiven Verstandnis des
Bestehenden zugleich auch das Verstandnis seiner Negation, seines
notwendigen Untergangs einschliesst).
Trong Bút ký triết học, Lenin mô tả mặt phủ định
biện chứng tích cực này - nghĩa là một giai đoạn
của mối quan hệ, một giai đọan của sự phát triển - như một
nhân tố quan trọng cao cấp của phép biện chứng.
Mặt khác, Lenin dẫn lời Hegel: "Chỉ có một sự việc trong
thế giới là tuyệt đối, đó là phương pháp
hay khái niệm về quá trình, chính nó
tuyệt đối" để chỉ ra ý nghĩa cách mạng trong triết học
Hegel: "Niềm tin của Hegel vào lý trí con người
và quyền năng của nó. ... Luận cương cơ bản trong triết
học Hegel là vũ trụ trải qua một quá trình
kiên trì về biến đổi và phát triển."
Chính Marx cũng nhận định: Cái vĩ đại trong Hiện tượng
luận của Hegel và kết quả tột cùng của nó
là - biện chứng của phủ định như nguyên tắc chuyển dịch
và sản xuất - đơn giản là vì Hegel đã nắm
được sự tự phát triển của con người như một quá
trình (Das Grosse an der Hegelschen Phanomenologie und ihrem
Endresultate - der Dialektik der Negativitat als dem bewegenden und
erzeugenden Prinzip - ist also einmal, dass Hegel die Selbsterzeugung
des Menschen als einen Prozess
fasst).
Từ ngữ quá trình trở thành một từ then chốt trong
biện chứng pháp mác-xít. Trong OP Manuskripte,
Marx đã so sánh quan điểm duy vật nghèo nàn
của Feuerbach với chủ nghĩa duy tâm của Hegel ở chỗ: Chủ nghĩa
duy tâm khởi từ hoạt động - Hegel đã nhận ra con người
không phải thuần túy là sinh vật, mà
tự sản sinh ra trong lịch sử và đời sống xã hội, cũng tự
tạo ra mình trong một quá trình.
Căn cứ vào đó, Lenin lý giải mối quan hệ giữa tư
tưởng và khách thể theo nhận thức của Hegel là một
quá trình trùng hợp:
"Tư tưởng (=con người) không thể tưởng tượng ra chân
lý trong hình thái tĩnh chết, trong hình
thái một bức tranh trần (hình ảnh) nhợt nhạt, không
có sự thúc đẩy, không có động lực, như một
thiên tài, như một con số, như tư duy trừu tượng."
Qua thực tiễn con người chứng nghiệm sự đúng đắn khách
quan của những ý tưởng, khái niệm, nhận thức khoa học của
con người. Ở đây lý luận phản ánh đã khai
triển theo hướng tích cực: Tri thức của con người không
chỉ phản ánh thế giới khách quan nhưng còn
sáng tạo ra nó ... điều đó có nghĩa
là thế giới không chỉ thỏa mãn con người mà
con người quyết định biến đổi nó bằng hoạt động của con người.
Trong khi đọc Hegel, Lenin đã thu tập được một số nhận thức về
Marx tuy không để lại một khoa Luận lý, nhưng đã để
lại Luận lý về Tư bản/những tác phẩm có
tính duy tâm nhất lại chứa ít chủ nghĩa duy
tâm mà chứa chủ nghĩa duy vật nhất/phê phán
Plekhanov (người thày duy vật của Lenin) hoàn toàn
là con số không về tư tưởng biện chứng.
Những tranh luận hiện đại về tập Bút ký triết học, mối
quan hệ giữa Lenin và Hegel diễn ra hai chiều hướng đối nghịch
vì nó mang tính cách quyết định về quan
điểm triết lý (nói như Irving Fetscher: Hãy
nói cho tôi biết bạn xác định mối quan hệ giữa Marx
và Hegel như thế nào, tôi sẽ nói cho bạn
biết bạn đã chọn loại chủ nghĩa Mác nào):
Quan điểm của Louis Althusser: Khởi từ "đoạn tuyệt tri thức" trong tiến
trình tư tưởng của Marx, Althusser khẳng quyết sự khác
biệt giữa Marx và Hegel, nói khác đi, phương
pháp biện chứng của Marx khác biệt với phương pháp
biện chứng của Hegel. Tuy nhiên, Althusser không thể phủ
nhận một điều là sau khi chối bỏ ảnh hưởng của Hegel, Marx vẫn
chịu một mối nợ quan trọng với Hegel vì ông là
người đầu tiên nhận thức lịch sử như một quá trình
không chủ thể.
Trước hết, Althusser chỉ ra một điều trong Lenin và triết học,
bài diễn thuyết trước Hội Triết học Pháp vào năm
1968, lý do Lenin đọc Hegel vì Hegel là người
quán triệt toàn bộ lịch sử triết học nên đọc
Hegel là một phần trong thực tiễn triết lý của Lenin.
Trong tác phẩm tập thể Lire le Capital viết chung với J.
Rancière, P.Macherey, E.Balibar và R.Establet, Althusser
xác định cách đọc mà ông gọi là hội
chứng những tác phẩm của Marx và của chủ nghĩa
Mác, nhưng đọc Lenin chỉ khả hữu với điều kiện đề xuất từ những
bản văn này vấn đề lý luận mà những bản văn chỉ ra
giải đáp tích cực.
Trong một tiểu luận đặt vấn đề Lenin đối với Hegel, Althusser cho rằng
Lenin đã đọc Hegel trên quan điểm duy vật biện chứng
đó là lý do Lenin đã đọc một cách
nhiệt tình chương viết về Ý Tưởng Tuyệt Đối trong bộ
lôgic của Hegel vì hai căn cứ (một, chủ thể phải bị phủ
định ngay từ khi đặt để, hai, Ý Tưởng Tuyệt Đối đơn giản chỉ
là phương pháp tuyệt đối) và Lenin đã đề ra
luận điểm: chỉ có một sự việc tuyệt đối trong thế giới,
đó là phương pháp hay khái niệm về
quá trình, tự nó là tuyệt đối, điều
đó có nghĩa là cái tuyệt đối là
quá trình không chủ thể, trong thực tại cũng như
trong nhận thức khoa học - điều này được phát hiện trong
tác phẩm Tư bản của Marx.
Quan điểm của Raya Dunayevskaya và Kevin Anderson: Trong hai
tác phẩm Marxism and Freedom và Philosophy and
Revolution, Raya Dunayevskaya (viết dưới tên Freddie Forest trong
nhóm Johnson-Forest) đã coi Bút ký triết
học của Lenin như một trong những tác phẩm Mác-xít
quan trọng nhất về mặt triết học cũng như lý luận kinh tế
chính trị và tổ chức. Trong tác phẩm nghiên
cứu phê phán Lenin, Hegel and Western Marxism, chịu ảnh
hưởng của Dunayevskaya, Kevin Anderson đã dành một phần
để lược duyệt những thảo luận chung quanh tập Bút ký
triết học của Lenin từ những thập niên 20 đến nay, với những
tên tuổi như Karl Korsch, Lukács, Ernst Bloch, Lefebvre,
Lucio Coletti, Fetscher, Althusser và Dunayevskaya. Tựu chung,
hoàn cảnh lịch sử đã không cho phép những
người Mác-xít như Lukács hay Korsch thấy tầm quan
trọng của tập Bút Ký triết học. Anderson phê
phán Althusser đã dẫn sai lạc những đoạn văn của Lenin
khi cho rằng Lenin đã chỉ ra sai lầm của Engels và
Plekhanov trong việc áp dụng biện chứng của Hegel để giải
thích thực tại. Chỉ từ những thập niên 70, Dunayevskaya
tiếp
tục
công trình khai phá luận điểm của Lenin khi chỉ ra
chủ nghĩa duy vật và duy tâm bổ xung lẫn nhau và
tri thức không chỉ phản ánh thế giới mà còn
sáng tạo ra nó, tuy vậy Lenin cũng như những người
Mác-xít khác đã quan niệm thực tiễn cao hơn
lý luận nên rơi vào chủ nghĩa ý
chí.Sự khác biệt giữa những quan điểm
Mác-xít trong vấn đề biện chứng là cơ sở trong
những tranh luận triết lý sau này.
|
Các bài cũ của Sơn Trung Thư Trang - http://vanhoavn.blogspot.com
Friday, August 24, 2012
ĐẶNG PHÙNG QUÂN * LENIN
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment