Sunday, August 26, 2012

NGUYỄN ĐỨC CUNG * MẬU THÂN

VỤ TẾT MẬU THÂN (1968), BÓNG TỐI LỊCH SỬ ÐÃ SÁNG DẦN ?   (2)
Nguyễn Ðức Cung

3.- Tết Mậu Thân, vấn đề tình báo, tương quan tổn thất và các mặt trận chính.

Cuộc TCK-TKN của CSBV diễn ra từ khi khai hỏa đến lúc kết thúc khoảng 25 ngày tại Huế và trong khoảng thời gian ngắn, vài ngày hoặc vài giờ tại một số trên 40 tỉnh và thị xã toàn Miền Nam. Hai địa điểm mà CS lựa chọn để tiến hành cuộc TCK-TKN tức là tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng là đô thành Sài Gòn và thành phố Huế, cho nên ở đây chúng tôi sẽ nói rõ hơn về hai mặt trận Sài Gòn và Huế mà đề cập rất khái quát các nơi khác.

3.1. Vấn đề tin tức tình báo trong biến cố TMT.
Theo giáo sư Lê Xuân Khoa, tình báo quân sự Mỹ được tin tức về những vụ chuyển quân của cộng sản và dự đoán sẽ có những cuộc tấn công trước hay sau Tết nhưng không lượng định được rằng đây là trận đánh quyết định ở mức toàn diện. 33 Như vậy, người Mỹ không có đủ dữ kiện để khẳng định rằng các cuộc chuyển quân đó là để tấn công vào đêm giao thừa Tết Mậu Thân.
Trong một cuốn sách viết về Võ Nguyên Giáp có tên Victory at any cost, The genius of Vietnam’s Gen. Vo Nguyen Giap, tác giả Cecil B. Currey cho rằng cơ quan MACV đã ước tính sai lầm khi dự đoán rằng cuộc hưu chiến Tết Mậu Thân là dịp để Cộng quân chuyển vận các vật dụng hậu cần vào miền Nam hơn là tung ra các cuộc tấn công.
34

Trong bài báo trên Tạp chí Thế Kỷ 21 có tên Tóm lược về Tết Mậu Thân 1968, tác giả Trọng Ðạt cho biết: “
Thiếu tá Cảnh sát Liên Thành, cựu Phó ty cảnh sát Thừa Thiên 1968, cho biết trước Tết ta đã nhận được nhiều dấu hiệu cho thấy VC sẽ tấn công, tiểu đoàn đặc công K1 của VC đã đột nhập Huế, ông bèn trình lên Tỉnh trưởng rồi cả ông và Tỉnh trưởng cùng đến Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 1 trình bày Tướng Trưởng nhưng tin tức không được chú ý. Tại Quân khu 1, sáng mồng 1 Tết (30-1) Ðại tá Nguyễn Duy Hinh, Xử lý thường vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn 1 đã nhấc điện thoại báo cáo Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh Vùng 1 khi VC pháo kích gần tư thất ông nhưng Tướng Lãm không tin cắt ngang cuộc điện đàm. Ngoài ra Trung Tướng Stone Tư lệnh Sư đoàn 4 BB Mỹ ở Cao Nguyên thu được tài liệu của VC nói về kế hoạch tấn công Pleiku, ông vội thông báo cho Trung Tướng Vĩnh Lộc, Tư lệnh Vùng 2 nhưng ông này không tin và bỏ về Sài Gòn ăn Tết. 35

Trong tác phẩm Vietnam at war, the history 1946-1975, sử gia Philip B. Davidson cho biết rằng: “
Trong một luận văn viết năm 1978, một đại tá của miền Nam, ông Hoàng Ngọc Lung từng phục vụ nhiều năm ở cơ quan J-2 JGS đã nói rằng: ‘Một tuần lễ trước khi xảy ra cuộc tổng tiến công, quân lực VNCH bất ngờ đã có được một tài liệu tình báo từ trước đến nay chưa hề có trong người một tù nhân cấp cao. Ông ta tên Nam Ðông, chính ủy của đơn vị MR-6 (MR-6 là Chủ Lực Miền 6 gồm cả Sài Gòn và vùng phụ cận) bị bắt trong một cuộc phục kích khi ông ta trên đường trở về sau một cuộc họp của Trung ương Cục miền Nam. Sau một cuộc thẩm vấn căng thẳng kéo dài trong vài tuần lễ, Nam Ðông đã tiết lộ rằng Bắc Việt đã nhanh chóng chuyển chiến lược của họ từ cuộc chiến tranh trường kỳ sang tổng tiến công – tổng nổi dậy...36

Tiết lộ của Hoàng Ngọc Lung cũng có đôi chỗ làm cho sử gia Philip B. Davidson băn khoăn khi ông muốn hỏi rằng Nam Ðông nói cho những kẻ bắt ông về kế hoạch tiến công vào dịp Tết trước hay sau khi xảy ra các trận đánh. Chúng ta cũng thấy rằng Nam Ðông bị bắt một tuần lễ trước Tết và nếu cuộc thẩm vấn kéo dài đến vài tuần lễ thì khi ông này tiết lộ thì sự việc tấn công đã xảy ra cả tuần lễ rồi.

Một số những điều Philip B. Davidson nhắc đến ở trên là do Hoàng Ngọc Lung, cựu Trưởng Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu viết trong luận văn Tổng tấn công 1968-69; ông cũng xác định tình báo quân đội VNCH có bản “nghị quyết 13 của bộ chính trị cộng sản Việt Nam” và ngày 25/10 1967 có thêm một tài liệu khác
(“Tài liệu hướng dẫn để hiểu rõ tình hình mới và công tác mới của ta”) thu được ở Tây Ninh. Phe đồng minh ngày 03.11.1967 thu được tại Dakto tài liệu của chiến trường B-3 nhằm tấn công vào cao nguyên, ngày 04.01.1968, quân báo Mỹ lại bắt được tài liệu “Lệnh hành quân số 1”:Tấn công Pleiku trước Tết. Giữa tháng Giêng 1968, một tài liệu khác của Trung đoàn 273, Sư doằn 9 cộng sản thu được ở vùng III chiến thuật: Kế hoạch tấn công Phú Cường, Bình Dương v.v... (Trần Giao Thủy, Web Ðàn Chim Việt, ngày 16.03.2008).

Một tác giả Hoa Kỳ, James J. Wirtz, đã viết cuốn The Tet offensive, Intelligence failure in war gần 300 trang để chứng minh rằng các cơ quan tình báo Việt Mỹ đã thất bại trong việc tiên đoán khả năng tấn công của VC trong Tết Mậu Thân. Ở đầu chương 6
(Reacting to the Tet Offensive), ông này viết rằng: “Mặc dù nhiều người Mỹ tính trước chuyện CS tấn công vào đêm 30-31 tháng Giêng, nhưng rõ ràng họ đã không nhìn thấy trước cường độ, khuôn khổ và bản chất của cuộc tiến công.”37

Trong một đoạn khác, tác giả Wirtz cũng khẳng định rằng:
“Lịch sử cũng chứng tỏ rằng các tổ chức tình báo Hoa Kỳ đã thất bại trong việc ước đoán một cách chính xác và đúng lúc ý đồ và khả năng của kẻ thù trước khi xảy ra cuộc chiến.38

Trong cuốn hồi ký Công và tội, tác giả Nguyễn Trân cho biết:
“Tháng 11 năm 1967, Tướng Abrams báo cáo bắt được tài liệu gần Dak-Tô nói đến một nỗ lực tấn công phối hợp trên toàn cõi miền Nam, trong lúc Sư đoàn Dù 101 bắt được một tài liệu nói về một tấn công quy mô giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến...” 39.

Cũng ở đoạn dưới ông Nguyễn Trân ghi thêm: “Ngày 28 tháng 1, An ninh Quân đội lục soát một nhà gần Qui Nhơn bắt được 11 Việt Cộng với máy ghi âm. Chúng thú nhận sẽ đánh Qui Nhơn và các thị trấn khác trong ngày Tết. Các băng ghi âm thúc giục dân chúng nổi dậy và kêu gọi quân đội theo “lực lượng nhân dân chiến đấu cho hòa bình và chủ quyền quốc gia để hạ phát-xít Thiệu Kỳ40 .

Trong cuốn sách Gọng kìm lịch sử, ông Bùi Diễm, cựu Ðại sứ VNCH tại Hoa Kỳ đã cho biết: “
Cũng vào thời gian ấy, tin tức tình báo cho biết rằng Bắc Việt đang chuyển quân trên đường mòn Hồ Chí Minh. Phối kiểm những tin đó với những trận đánh ở Lộc Ninh và Dakto, các chuyên viên phân tích tình hình quân sự ở Sài Gòn và Hoa Thịnh Ðốn tiên đoán rằng Bắc Việt đang sửa soạn một cuộc tấn công đị quy mô và đưa ra nhiều dự đoán về kế hoạch của địch. Tướng Westmoreland thì cho rằng địch sẽ tấn công với số quân tập trung ở miền phi quân sự ngay trên vĩ tuyến 17 và xâm nhập trên đường mòn Hồ Chí Minh và thung lũng Khe Sanh, địch quân sẽ tấn công miền Trung. Ðể đề phòng, ông cho tăng cường lực lượng Hoa Kỳ đặc biệt ở Khe Sanh bằng những đơn vị thiện chiến của thủy quân lục chiến. Song cấp hữu trách quân sự Hoa Kỳ và Việt Nam hầu như không để ý gì đến một số tài liệu tịch thu được sau một cuộc hành quân ở miền Trung. Những tài liệu này cho thấy địch quân sửa soạn một cuộc tấn công hoàn toàn khác hẳn những tiên liệu của phía Việt Mỹ, một cuộc tấn công đại quy mô vào tất cả những đô thị trên khắp lãnh thổ miền Nam, phối hợp với một cuộc tổng khởi nghĩa của dân chúng miền Nam. Chiến lược đó đã được trù hoạch táo bạo và liều lĩnh đến mức độ khó tin. Nhưng mãi đến tết Mậu Thân, các nhà chức trách quân sự Việt Mỹ mới nhận là địch quân đã hành động đúng như các tài liệu bắt được cho thấy rõ.” 41

3.2. Tương quan tổn thất tổng quát và mặt trận Sài Gòn.
Trong cuộc TCK-TKN, Hà Nội điều động khoảng 100 tiểu đoàn chia ra như sau: 35 tiểu đoàn và 18 đại đội tại Vùng I, 28 tiểu đoàn tại Vùng II, 15 tiểu đoàn tại Vùng III, 19 tiểu đoàn tại Vùng IV, tổng cộng 84,000 người hầu hết thuộc Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Cuộc tổng tấn công TMT xảy ra trên phạm vi 44 tỉnh và thành phố Miền Nam, ở đâu cũng có sự tổn thất của địch và của ta với sự ghi nhận tổng quát của Bộ Tổng Tham Mưu QCVNCH. Trong tháng 2-1968:
+ VC bị giết 41,180 người, tháng 3-68 bị bắn hạ 17,192 người tổng cộng 58,372 người, bị bắt làm tù binh toàn bộ 9,461 người. Trong số 84,000 cán binh được đưa vào trận Tổng công kích chỉ còn 16,168 tên chạy thoát, chưa tới 20%, vũ khí bị ta và Ðồng minh tịch thu là 17,439 khẩu súng đủ các loại.

+ Phía VNCH có 4,950 người tử trận, 926 người bị mất tích, 15,097 người bị thương. Phía Ðồng minh có 4,120 người tử trận, 19,265 người bị thương, 600 người mất tích , về vũ khí ta mất hơn 2,000 khẩu súng, 63 máy bay bị tiêu hủy, 154 cái bị hư hại nặng, 99 chiếc bị hư hại nhẹ.

+ Ðồng minh có 60 máy bay bị tiêu hủy, 60 cái bị hư hại nặng, 116 cái hư hại nhẹ.

+ Thường dân chết trên toàn quốc có tới 14,300 người, bị thương 24 ngàn, tị nạn 627 ngàn người 42.
 
Tại Sài Gòn, mặt trận nổ ra từ 2 giờ sáng ngày mồng 2 Tết tức 31-1-1968 và chấm dứt đầu tháng 2 Âm lịch 28-2-1968 gồm hai giai đoạn:
- Giai đoạn một: Từ mồng 2 Tết đến 9 Tết (31-1 đến 7-2) đặc công đánh dinh Ðộc Lập, Tòa Ðại sứ Mỹ, Ðài phát thanh, Bộ TTM, Phi trường Tân Sơn Nhất, các lực lượng chủ lực không kết hợp được với đặc công.
- Giai đoạn hai: từ 7-2 đến 28-2 VC đưa các đơn vị chủ lực vào trận chiến, nhưng lúc này ta đã chuẩn bị kỹ càng đánh trả ác liệt.

Lực lượng VC chỉ độ một nửa so với VNCH và Ðồng minh, hỏa lực thua kém, chúng không có vũ khí nặng như xe tăng đại bác, tuy nhiên VC được trang bị vũ khí cá nhân tối tân như AK, B-40. Ðịch có ưu thế chủ động tấn công, mặt trận Sài Gòn là trọng điểm. Phạm Hùng bí thư Trung Ương Cục miền Nam chỉ định Nguyễn Văn Linh tức Mười Cúc làm bí thư toàn vùng. Võ Văn Kiệt phó bí thư. Các đơn vị CS tham gia gồm Công trường 9 có 3 Trung đoàn, Công trường 7, 3 Trung đoàn, Công trường 5 có 2 Trung đoàn.

- Tại Tòa Ðại sứ Hoa Kỳ, 19 tên đặc công bắn thủng tường tràn vào, bị các quân cảnh Mỹ phản công hạ sát hết.
 
- Tại dinh Ðộc lập, 18 tên đặc công dùng B-40 đánh sập cổng tràn vào sân bị Cảnh sát, an ninh bắn hạ.
 
- Tại Bộ TL Hải quân, 16 đặc công tiến sát vào hàng rào nhưng bị binh sĩ hải quân tràn ra bắn hạ 10 tên, bắt sống 2 tên, 4 tên chạy thoát.
 
- Tại Bộ TTM, 27 đặc công tấn công bị đẩy lui, chúng lẩn vào chùa Long hoa và bị tiêu diệt hết. Một tiểu đoàn VC tấn công Bộ TTM , chiếm trường Sinh ngữ Quân đội, bị Dù đánh bật ra khỏi trận địa. Hai tiểu đoàn địch tấn công Trung tâm Huấn luyện Quang Trung nhưng bị quân phòng vệ nay lui, giết 40 tên bỏ xác tại trận.
 
- Tại Gò Vấp, Trung đoàn Quyết thắng CS tấn công trại Phù Ðổng (thiết giáp), trại Cổ Loa (pháo binh), quân ta chỉ có 40 người bị chiếm dễ dàng.
 
- Tại mặt trận phía Ðông, VC tấn công Trường Bộ binh Thủ Ðức, Hàng Xanh.
 
- Tại mặt trận phía tây, phi trường Tân Sơn Nhất, 2 tiểu đoàn VC tới bà Quẹo đặt bộ chỉ huy tại hãng dệt Vinatexco tràn qua bãi đất trống đầu phi đạo nhưng bị một đại đội Dù, một số sĩ quan Không quân dùng hai chiến xa M-48 chận địch lại.
 
- Tại phía Nam, hai tiểu đoàn VC tiến vào ngoại vi quận 7, quận 8, dân chúng bỏ chạy lánh nạn ồ ạt. 43

Sau đây là nhận định của Giáo sư Lê Xuân Khoa:
“Trận công kích Sài Gòn bị thất bại mau chóng vì giới lãnh đạo Bắc Việt quá chủ quan, tin tưởng quân giải phóng sẽ chiếm giữ hay phá hủy được những cơ sở trọng yếu về hành chánh và quân sự của VNCH và Hoa Kỳ, nhất là chiếm được Dinh Ðộc Lập và tòa Ðại sứ Mỹ để gây tiếng vang quốc tế, trong khi dân chúng thủ đô sẽ ồ ạt xuống đường biểu tình ủng hộ cuộc cách mạng giải phóng chống ngụy quyền và đế quốc Mỹ. Tất cả những mục tiêu của cuộc tấn công đều không đạt được, trừ việc đốt phá một phần kho đạn ở Long Bình, cách Sài Gòn khoảng 20 dặm. Quân giải phóng không lọt được vào Dinh Ðộc Lập, toán tấn công Tòa Ðại sứ quán Mỹ thì bị tiêu diệt khi mới lọt vào sân trước. Trung đoàn 101 chiếm được kho dự trữ Gò Vấp, nhưng các chiến xa ở đây đã được chuyển đi nới khác. Mười hai cỗ súng đại bác 105 ly để lại không sử dụng được vì bộ phận khai hỏa đã bị quân VNCH tháo ra đem đi mất. Những toán quân đã lọt vào thành phố không liên lạc được với nhau và bị tiêu diệt hay phải rút lui vào Chợ Lớn. Một trung đội C-10 chiếm được Ðài phát thanh có chuyên viên đem theo cuộn băng thâu sẵn của Bộ chỉ huy chiến dịch TCK-TKN nhưng không phát thanh được vì tuyến truyền thanh đã bị chuyên viên kỹ thuật của đài vô hiệu hóa bằng tín hiệu từ xa. Tại Chợ Lớn, quân giải phóng chiếm được trường đưa ngựa Phú Thọ làm trung tâm chỉ huy các cuộc chiến đấu với các lực lượng phòng vệ thủ đô, nhưng đến ngày 7 tháng Ba cũng phải bỏ chạy.” 44

3.3. Mặt trận Huế và các cuộc thảm sát.
Chỉ đạo mặt trận Huế là Khu Ủy Trị Thiên với hai trung đoàn chủ lực E6 và E9, 4 tiểu đoàn bộ binh của hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên, 4 tiểu đoàn đặc công và các lực lượng pháo binh, công binh. Lực lượng này còn quá yếu nên Trung đoàn 9 được tăng cường. Gần ngày Tết, Trung Ương lại tăng cường thêm Trung đoàn 2 của Sư đoàn 324, Trung đoàn 8 của Sư đoàn 325, rồi thêm Trung đoàn 3/325 và Trung đoàn 1/325. Sau khi chiếm được Huế, Bộ cho tăng cường thêm Trung đoàn 141. Như vậy Trung Ương đã tăng cường cho Huế 5 Trung đoàn với quân số khoảng 7,500 quân.
45

Tư lệnh Quân Khu Trị Thiên-Huế là Thiếu Tướng Trần Văn Quang, Phụ tá kiêm Trưởng ban An ninh là Ðại Tá Lê Minh, Phó Bí thư Khu Ủy trị Thiên Huế được cử làm Chính Ủy là Lê Chưởng.

3.3.1. Diễn tiến mặt trận sơ khởi và các tổ chức chính trị – hành chính – an ninh.

- Mặt trận Bắc Huế: Ðặc công phá cửa Chiùnh tây cho một tiểu đoàn chính qui CS vào thành nội đêm mồng một Tết. Cộng quân tấn công vào đồn Mang Cá nơi đóng bản doanh Bộ Tư lệnh Sư Ðoàn I, sân bay Tây Lộc, khu cột cờ Ðại Nội, khu Gia Hội, khu chợ Ðông Ba. VC gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của lực lượng trú phòng Ðồn Mang Cá nên không làm gì được.

- Mặt trận Thành Nội do Ðại Tá Lê Trọng Ðấu chỉ huy.

- Mặt trận Quận Nhì
(tả ngạn sông Hương) do Chính Ủy Hoàng Lanh chỉ huy.

- Mặt trận Nam Huế: Do Tướng Thân Trọng Một chỉ huy thuộc hữu ngạn sông Hương, Nguyễn Vạn làm chính ủy. Ðơn vị này tiến chậm vì bị phi cơ thám thính Mỹ phát hiện và bị pháo kích.
 
Trong thời gian đầu bị tấn công bất ngờ, QLVNCH vẫn giữ được Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn I, cơ sở MACV, Tiểu Khu Thừa Thiên, Ðài phát thanh Huế, Trường Kiểu Mẫu và cầu tàu Hải quân.
 
* Về tổ chức chính trị, ngày mồng 3 Tết (tức 1-2-1968) Hà Nội cho công bố thành lập Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình tại Huế do Tiến sĩ Lê Văn Hảo làm Chủ Tịch với Phó chủ tịch là bà Tuần Chi (tên thật là Ðào Thị Xuân Yến, chị vợ của Nguyễn Cao Thăng), Hiệu trưởng trường Nữ Trung Học Ðồng Khánh và Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu, đương kim Chánh đại diện Phật Giáo miền Vạn Hạnh. Tổng thư ký của Liên Minh là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Thành phần cốt cán trong đó gồm có: Nguyễn Ðóa (cựu giám thị Trường Quốc Học), Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Ðắc Xuân, Phan Duy Nhân, Phạm Thị Xuân Quế, Tôn Thất Dương Tiềm, Tôn Thất Dương Kỵ, Tôn Thất Dương Hanh...

Liên Minh của Lê Văn Hảo là một bộ phần nằm trong Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình của Trịnh Ðình Thảo.

* Về guồng máy hành chính, Khu Ủy Trị Thiên – Huế cho thành lập Ủy Ban Nhân Dân Cách mạng và giao cho Lê Văn Hảo làm Chủ Tịch, bà Tuần Chi
(tức Ðào Thị Xuân Yến) và Hoàng Phương Thảo, Thường vụ Thành ủy, làm Phó Chủ tịch. Mọi quyền hành ở trong tay Hoàng Phương Thảo, còn các người kia chỉ là bù nhìn.
 
Ủy ban Nhân dân trong Thành Nội gồm hai quận: Quận I do Nguyễn Hữu Vấn (giáo sư âm nhạc) làm Chủ tịch, quận 2 do Nguyễn Thiết (sinh viên đại học luật khoa) làm Chủ tịch.
Tại phía hữu ngạn, VC chỉ lo lùng bắt giết các cán bộ, công chức của chính quyền VNCH nên chưa kịp tổ chức Ủy Ban Nhân dân.

* Về hệ thống an ninh, gồm các đại đội đặc công, võ trang tuyên truyền và các toán an ninh dưới sự điều động của Ðại Tá Lê Minh, Phụ tá Bộ Tư Lệnh Quân Khu kiêm Trưởng Ban An Ninh Quân Khu.
Chỉ huy các toán an ninh là Tống Hoàng Nguyên và Nguyễn Ðình Bảy
(tức là Bảy Khiêm) mà địa bàn tổng quát được chia ra 4 Khu:
Khu I tức Thành Nội (quận I);
Khu 2 là quận 2 thuộc tả ngạn sông Hương (từ cầu Gia Hội kéo lên hướng tây, qua cầu Bạch Hổ, xuống An Vân;
Khu 3 tức quận 3 thuộc hữu ngạn sông Hương gồm luôn giáo xứ Phủ Cam thuộc quận hương Thủy;
Khu 4 từ cầu Gia Hội đến Cồn Hến.

Tống Hoàng Nguyên phụ trách Khu I và Khu 2, Nguyễn Ðình Bảy phụ trách Khu 3 và Nguyễn Ðắc Xuân phụ trách Khu 4.

***
Sau đây là một số nét tổng quát về nỗ lực phản công của QLVNCH và Ðồng Minh.

Ngày mồng 3 Tết, đã bắt đầu diễn ra cuộc phản công của QLVNCH và Ðồng Minh. Ngày mồng 5 Tết, binh chủng Nhảy Dù tái chiếm cửa An Hòa, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đổ bộ Bến tàu Hải quân. VC sợ cánh quân Hoa Kỳ kéo từ hữu ngạn sang tả ngạn nên ngày mồng 9 Tết đã đánh sập cầu Trường Tiền. Quân đội VNCH và Hoa Kỳ phản công mãnh liệt. Ngày 14-2 tình hình hữu ngạn được ổn định, bộ chỉ huy của Thân Trọng Một lẩn tránh tại vùng lăng Tự Ðức cho đến ngày 25-2. Ngày 12-2 lực lượng Việt Mỹ đổ bộ lên bến Bao Vinh, trên bờ sông đào dọc đường Huỳnh Thúc Kháng gần đồn Mang Cá, mở chiến dịch Sóng Thần. Ngày 18-2, TQLC Hoa Kỳ chiếm được cửa Ðông Ba. Ngày 8 Tết, cộng quân thấy rõ thất bại nên tính chuyện rút lui. Ngày mồng 8 Tết
(6-2), cộng sản bắt đầu di chuyển thương binh, chiến lợi phẩm ra khỏi Huế. Ngày 15-2, Hà Nội gửi công điện cho Cộng Sản tại Thừa Thiên nội dung “Phải giữ Thành Nội, không được rút ra ngoài để phục vụ nhiệm vụ chính trị chung cả nước.” 46

Ngày 22-2, hai tiểu đoàn BÐQ của QLVNCH giải tỏa khá trễ khu vực Gia Hội nên Cộng Sản có cơ hội tàn sát đồng bào nhiều nhất tại nơi đây.

3.3.2. Các cuộc thảm sát và số nạn nhân tại Huế.
Trong cuốn Công và tội ông Nguyễn Trân cho biết: “
Về phía dân chúng, có 5.800 người chết, trong đó có 2.800 người bị Việt Cộng giết và chôn tập thể: 790 hội viên các Hôi đồng tỉnh, thị xã và xã bị gán tội “cường hào ác bá”, 1892 nhân viên hành chánh, 38 cảnh sát, hàng trăm thanh niêntuổi quân dịch, một linh mục Việt (Bửu Ðồng), hai linh mục Pháp, một bác sĩ Ðức và vợ, và một số người Phi Luật Tân.”47

Trong Encyclopedia of the Vietnam War, David Zabecki cho biết số nạn nhân tìm được trong các hố chôn tập thể là 2.810 người và hàng ngàn người bị mất tích.

Trong cuốn The Vietcong Massacre at Hue
(Vintage, New York, 1976), một nhân chứng có mặt tại Huế trong biến cố Tết Mậu Thân, Bác sĩ Elje Vannema cho biết tài liệu kiểm kê được qua 22 mồ chôn tập thể, số nạn nhân bị Cộng quân giết là 2.326 người, chia ra như sau:
- Trường Gia Hội : 203 người;
- Chùa Theravada [Gia Hội]: 43;
- Bãi Dâu [Gia Hội] 26;
- Cồn Hến (Gia Hội): 101;
- Tiểu Chủng Viện: 6;
- Quận Tả Ngạn: 21;
- Phía đông Huế: 25;
- Lăng Tự Ðức và Ðồng Khánh: 203;
- Cầu An Ninh: 20;
- Lăng Gia Long: 200;
- Chùa Từ Quang: 4;
- Ðồng Di: 110;
- Vinh Thái: 135;
- Phù Lương: 22;
- Phú Xuân: 587;
- Thượng Hòa: 11;
- Thủy Thanh – Vinh Hưng: 70;
- Khe Ðá Mài: 428.

Trong cuốn Vietcong Strategy of Terror, Giáo sư Douglas Pike cho biết qua vụ Tết Mậu Thân ở Huế, có khoảng 7.600 nạn nhân của Cộng Sản, trong đó 1.946 người bị mất tích.

Tạp chí Time ngày 31-10-1969 trong số nạn nhân bị giết tại Khe Ðá Mài có 390 người là giáo dân Phủ Cam.

Tư liệu của hai linh mục Nguyễn Hữu Giải Phan Văn Lợi cho thấy hành vi bạo tàn, độc ác của VC đối với người dân vô tội lọt vào tay chúng cũng không thua gì bọn Phát xít Ðức đối với người Do-Thái trong Thế chiến II. Khi kiểm soát được Huế, Cộng quân đã áp dụng nhiều hình thức để giết người, trước hết đó là trả thù cá nhân vì những chuyện ân oán ngày trước và muốn giết là giết liền không cần chứng cớ hoặc tòa án. Ða số các nạn nhân bị đánh bằng cán cuốc, bị đâm bằng lưỡi lê, nhất là bị chôn sống, rất ít người hưởng ân huệ được bắn vì theo lời tên Hồ Ty tức Sơn Lâm bị ta bắt đã nói rằng:
“Các anh phải biết rằng, chúng tôi không có đạn, đạn phải để dành để đánh nhau với các anh chứ đạn đâu mà bắn tù, lệnh trên bảo dùng phương tiện cuốc sẻng, dao búa để thanh toán.”48

Có trường hợp nạn nhân bị tùng xẻo như Thiếu Tá Từ Tôn Kháng, Tỉnh Ðoàn Trưởng Tỉnh Ðoàn Xây Dựng Nông Thôn Thừa Thiên, đảng viên Ðại Việt Cách Mạng trốn trên mái nhà nên vợ con ông bị đe dọa nếu ông không ra trình diện thì vợ con sẽ bị bắn ngay. Thiếu Tá Kháng bèn ra hàng. Ông bị cột vào một chiếc cọc đóng giữa sân nhà và bị Cộng Sản dùng dao cắt tai, xẽo mũi cho đến khi nạn nhân chết.
49

Trường hợp khác là ông Trần Ngọc Lộ, Bí thư Ðại Việt Cách Mạng quận bộ Phú Thứ, võ sư Thất Sơn Thần Quyền bị bắt và bị giết cùng toàn gia đình vợ con tại một xã ở quận này. Có khoảng 300 đảng viên Ðại Việt Cách Mạng bị bắt giết tại Huế cùng với vài chục đảng viên của VNQDÐ.

Cũng có trường hợp một vài cá nhân được ra trước cái gọi là tòa án nhân dân nhưng cũng chỉ là hình thức trước khi nhận bản án tử hình cũng là một cách gọi là có ra trước tòa án. Tất cả các nạn nhân trước khi bị giết đã bị CS lừa một lần nữa bằng cách tự lột tất cả tư trang của họ như vàng bạc, đồng hồ, nhẫn cưới, dây chuyền “gởi cho Cách Mạng giữ dùm” theo tư liệu của hai linh mục Nguyễn Hữu Giải và Phan Văn Lợi ghi lại theo lời kể của một nhân chứng đã thoát chết.

Những tên nằm vùng CS như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Ðắc Xuân, v.v... vốn là những cán bộ CS núp trong hàng ngũ Phật Giáo trong cuộc biến động miền Trung năm 1964 và 1966. Sau khi bị chính quyền VNCH lùng bắt năm 1966, bọn chúng bỏ trốn lên núi theo VC và nay chúng bám chân bọn cán binh BV trở lại thành phố Huế nên đã có trong tay một số danh sách những người chúng biết là nhân vật trong chính quyền, đảng phái quốc gia hay cán bộ XDNT.

Bên cạnh đó còn có những tên CS nằm vùng làm đủ mọi thứ nghề nghiệp nhưng đa số là nghề lao động tay chân đã có thì giờ mai phục, len lỏi khắp các phường khóm trong thành phố như trường hợp tên Bé vô học có nghề thợ nề được đưa lên làm chủ tịch khu phố Gia Hội, hay tên Linh, người Quảng Ngãi làm nghề thầy bói.

Thực hiện chính sách thà giết lầm hơn bỏ sót mà tên VC Hồ Ty đã nói thẳng với Phó Ty Cảnh Sát Liên Thành ở Huế, Cộng quân bắt giết ba linh mục VN là cha Nguyễn Phúc Bửu Ðồng, cha Hoàng Ngọc Bang, cha Lê Văn Hộ, ba linh mục người Pháp là Guy, Cressonnier, Valour, giết sư huynh Dòng Thánh Tâm Huế, Mai Thịnh
(Martin, thầy dạy của tác giả bài này khi còn ở Ðồng Hới, Quảng Bình năm 1953 đến khi vào Huế năm 1954), tu sĩ Héc-man, và Bá Long thuộc Dòng Thánh Tâm (Sacré Coeur) tu viện Phường Ðức, và một số thầy đại chủng sinh như Nguyễn Văn Thứ (bạn tu cùng lớp Tiểu Chủng Viện Huế năm 1955 với người viết bài này), Phạm Văn VụNguyễn Lương, hai sư huynh dòng Lasan là Agribert Sylvestre.

Ngoài ra VC còn giết một số các giáo sư đại học người Ðức mà chúng nghi là CIA như Bác sĩ và bà Hort Gunther Krainick, Bác sĩ Raimund Discher, và Bác sĩ Alois Alterkoster.

Trong tác phẩm Tet, the turning point in the Vietnam War, Don Oberdorfer đã ghi lại câu trả lời của Tướng Võ Nguyên Giáp lúc còn là bộ trưởng quốc phòng năm 1969, khi được hỏi về biến cố Tết Mậu Thân: “
Chúng tôi không dính gì tới chuyện đó. Chuyện đó do Mặt Trận [Dân Tộc Giải Phóng] thực hiện.”(We had nothing to do with it. The [National Liberation] put it on). 50

Giải thích về hành động giết người tập thể của VC tại Huế, nhà báo Bùi Tín, nguyên Ðại tá quân đội cộng sản BV, nguyên Phó tổng biên tập báo Nhân Dân Chủ Nhật trước năm 1990, đã viết rằng:
“Cho nên những vụ tàn sát có tính chất tập thể có thể đã xảy ra ở các tiểu đoàn đang hành quân rút lui. Giữa cảnh hỗn loạn khi có lệnh rút lui... Một số đơn vị nảy ra hành động thủ tiêu tù binh để bảo đảm không lộ bí mật, không bị nguy hiểm, “nhẹ gánh”, “khỏi vướng chân”, “sẽ chết cả nut”... Cuối cùng cũng còn một số ít tù binh giải về căn cứ, được dùng để đào ham hố, khuân vác... một số về sau được thả về.”51

Nói như vậy thì nhà báo Bùi Tín giải thích như thế nào về các hố chôn tập thể xảy ra khắp trong thành phố Huế
(tại Gia Hội) và phía nam Nam Giao khi chưa có lệnh rút lui?

Trong cuộc phỏng vấn dành cho bà Thụy Khê, Hoàng Phủ Ngọc Tường “lên án” vụ thảm sát Mậu Thân tại Huế:
“Ðó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng. Nhưng tôi tin rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ từ phía những người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế, chứ không phải chính sách toàn cục của cách mạng. Bởi vì tình trạng giết chóc bừa bãi như vậy, đã không xảy ra ở địa phương khác trong Mậu Thân, ngay cả trên một địa bàn rộng lớn với tình trạng xen kẽ giữa những lực lượng đối địch rất phức tạp như ở Sài Gòn thời ấy.52

Xin lấy một vài ý kiến của ông Trần Gia Phụng để vạch trần luận điệu giải thích chạy tội của Hoàng Phủ Ngọc Tường:
Một là: cuộc chiến tranh do cộng sản gây ra không phải là “chiến tranh cách mạng” nhưn là cuộc chiến ý thức hệ do tham vọng quyền lực và bành trướng của cộng sản BV.

Hai là: cách đổ lỗi cho cấp dưới để chạy tội cho cấp trên là thói thường trong xã hội cộng sản không thể chấp nhận được.
Ba là: không nơi nào cộng sản chiếm lâu như Huế để có thể xảy ra như Huế. Cộng sản đã giết biết bao tín hữu Cao Ðài ở Quảng Ngãi, chôn sống nhóm Ðệ tứ Quốc tế ở vùng Lòng Sông tỉnh Bình Thuận, giết Cao Ðài, Hòa Hảo ở trong Nam, giết người vô tội mà có tài để trừ hậu hoạn
(mà CS gọi là “giết tiềm lực”). 53

Trong một bài viết có tên Bi kịch Hoàng Phủ Ngọc Tường của Ngô Minh biện hộ cho Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng ông bị họa vì ông quá nổi tiếng nên bị ghét từ nhiều phía nhất là dư luận cộng đồng người Việt hải ngoại. Ngô Minh viết rằng: :
”Từ gần 20 năm nay, một số cây bút ở hải ngoại không biết do thù oán, hay do ganh tỵ tiếng tăm với Hoàng Phủ khi anh đã nổi tiếng ở trong nước, đã viết bài đổ tội cho Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Lê Văn Hảo, Nguyễn Ðắc Xuân với những lời lẽ vô cùng đao búa như gọi là “đồ tể giết 2000 người Huế trong dịp Tết Mậu Thân, “thủ phạm chính của cuộc tàn sát”, “các hung thần can dự tới bữa tiệc máu.54

Năm 1968, ông Ngô Minh tuổi tác bao nhiêu chúng tôi không biết nhưng có một điều chắc chắn chúng tôi biết là ở hải ngoại chẳng có ai dư thì giờ để “ganh tỵ tiếng tăm” với Hoàng Phủ Ngọc Tường. Trình độ của Tường thì cũng “thường thường bậc trung”, viết lách cũng “tàm tạm” nếu không nói là rất thiên lệch trong chiều hướng “tán cộng”. Rất nhiều ông thầy dạy Tường còn sống tại Âu châu, Mỹ và chắc chắn họ không phải là những kẻ ganh tỵ với Tường. Nhân chứng vụ Mậu Thân còn sống rất nhiều ở trong nước, tại Huế và hải ngoại, đã chứng kiến tận mắt việc làm của những người mà ông Ngô Minh muốn làm thầy cãi dùm.
Bí thư Thừa Thiên – Huế , Lê Minh đã thú nhận việc giết tù binh và tàn sát thường dân ở Huế là có thật và ông tuyên bố nhận trách nhiệm nhưng chống chế rằng cộng quân
“đã ở trong một hoàn cảnh quá khó khăn, đến không thể nào kiểm soát nổi những hành động thô bạo”. Chẳng cần phải có hoàn cảnh thô bạo thì công sản mới hành động thô bạo. Bản chất sản sinh, hoàn cảnh nuôi dưỡng, chính sách hướng dẫn cộng sản đều mang tính chất thô bạo nên cộng sản luôn luôn hành động thô bạo.

Theo Trần Gia Phụng, năm 1988 Lê Minh có xuất bản cuốn hồi ký nói nhiều về Mậu Thân, sách bị thu hồi, bản thân ông bị thất sủng, cô lập.
 

No comments: