Ký Ức Tuổi Thơ
Phan Quang Thi
Tôi sinh ra vào thời gian hiệp
định Paris được ký kết, tức khoảng đầu năm 1973. Ba tôi sau này hay nói: “Cứ
tưởng sinh ra con là đất nước không còn chiến tranh nữa…”. Câu nói thường hay bị
bỏ lửng giữa chừng, có lẽ vì cái hy vọng hòa bình của ba tôi đã chẳng bao giờ
được như ông mong muốn.
30 tháng 4, 1975, Sài Gòn mất
vào tay Cộng Sản. Tôi còn quá nhỏ nên không nhớ được sự kiện này. Tôi không nhớ
được đã có hàng đoàn xe tăng mang cờ Việt Cộng chạy ngang qua đầu con hẻm nhà
tôi. Tôi không nhớ đã có những anh chị du kích, tay mang băng đỏ, cầm súng AK đi
từng nhà kêu gọi bà con ra đường đón mừng quân giải phóng. Tôi càng không nhớ
được đã có một trái đạn pháo rơi xuống con rạch nhỏ ngay phía sau nhà, giết chết
một số người trong xóm “nhà sàn”. Do đó, ngày 30 tháng 4 năm 1975 đối với tôi
cũng như bao ngày khác, nó không có một ý nghĩa đặc biệt gì, như nó chưa từng
hiện hữu…Duy chỉ có những hệ quả của nó đã theo đuổi gia đình tôi, và nhiều
gia đình khác nữa, như một bóng ma trong suốt thời gian sống trong chế độ Cộng
Sản.
Sự kiện đầu tiên mà tôi nhớ
được là lần gia đình tôi bị chia đôi: Má tôi, chị tôi 7 tuổi, tôi 3 tuổi, và em
gái tôi 6 tháng bị đưa đi “vùng kinh tế mới”. Ba và 3 anh lớn, tuổi từ 9 tới 16
ở lại Sài Gòn. Sau này có lần tôi hỏi tại sao lại để đàn bà con nít đi tới nơi
rừng thiêng nước độc, còn đàn ông con trai lại ở thành phố, Ba tôi trả lời :
”Lúc đó ba đang làm cho Xí
Nghiệp In Tập Thể Thanh Niên, một hình thức đoái công chuộc tội theo lời ông chủ
tịch phường. Tuy nhiên lại có lịnh đi kinh tế mới. Nhà in không đồng ý cho ba đi
vì ba đang huấn luyện một số người về kỹ thuật in ấn và báo chí. Chính quyền cho
ba ở lại Sài Gòn, nhưng phần còn lại của gia đình phải đi. Sau khi bàn với má,
ba xin cho các anh con ở lại để đi học, để má và các con nhỏ đi vì đàn bà con
nít dễ được cho phép trở lại Sài Gòn hơn.” Thế là gia đình tôi ly tán.
Đầu năm 1976, bốn mẹ con đùm
túm lên xe. Sau nửa ngày xe đò, 1 giờ xe lam, rồi 2 giờ xe trâu, chúng tôi được
bỏ xuống một bãi đất trống cạnh con đường mòn. Theo như lời má nói, nơi này
thuộc quận Võ Đắc, tỉnh Bình Tuy.
Chung quanh mảnh đất cỏ tranh
mọc cao ngập đầu. Bên kia con đường mòn là một giếng nước cỏ cây um tùm bao
quanh. Trời chập choạng tối. Má tôi chỉ kịp lấy từ trong hành lý vài gói cơm
sấy, tàn dư Mỹ Ngụy còn sót lại, cho vào tí nước mang theo rồi bốn mẹ con ngồi
quay quần bên ngọn đèn bão hiu hắt ăn uống ngon lành ngay giữa nơi đồng không
hiu quạnh.
Tối hôm đó mẹ con tôi lần
đầu tiên trong đời biết được ý nghĩa của câu “màn trời chiếu đất”.
Hai tấm nylon, một trải dưới đất, một giăng trên nóc mùng để tránh sương, bốn
tấm thân mệt nhoài ôm nhau cố dỗ giấc ngủ chập chờn qua đêm trong tiếng gió rít
và tiếng côn trùng kêu ray rứt. Tội nghiệp đứa em gái tôi, chỉ mới sáu tháng
tuổi đã phải chia xẽ nổi nhọc nhằn thời cuộc của gia đình, của đất nước. Em tôi
không khóc nhiều. Em mệt lã không khóc được hay em thông cảm với hoàn cảnh ngặt
nghèo mà nín lặng để mẹ được rảnh trí tìm lời giải đáp cho bài toán sinh tồn của
bốn mạng người?
Mờ sáng hôm sau chúng tôi có
khách. Khách là những người nông dân trong vùng, nghe có người từ thành phố lên
lập nghiệp nên kéo nhau đến thăm. Họ tỏ vẻ chua xót khi biết mẹ con tôi ngủ đêm
hôm qua trên cánh đồng trống. Ông Luật, người to lớn có râu quai nón, cùng vợ và
anh con trai vạm vỡ giúp mang mớ hành lý lỉnh kỉnh về nhà ông. Ông mời mẹ con
tôi ở lại nhà trong thời gian bà con hàng xóm giúp dựng căn nhà cho chúng tôi.
Nhà ông Luật thật lớn, nằm bên
kia con đường mòn sau cái giếng hoang. Trước nhà có một hàng cây cao làm hàng
rào. Hàng cây cành lá sum xuê che khuất nên từ con đường không nhìn thấy được
căn nhà. Trong sân có mấy chiếc xe cộ, một chuồng trâu với một đàn trâu lớn nhỏ
nhung nhúc. Ông Luật vô nam theo chính sách Dinh Điền của Tổng Thống Ngô Đình
Diệm. Nhờ chịu khó làm ăn nên ông có được cơ ngơi như vậy. Nghe đồn ông Luật đã
ở đây mười mấy năm và là người giàu nhứt vùng này. Mọi người trong gia đình ông
đều hiền lành dễ thương. Ông thường cho chị em tôi ăn đường phèn, những cục
đường trắng trong, ngọt thanh lúc nào cũng có sẵn trong chiếc dĩa nhỏ trên cái
bàn ông thường ngồi uống nước trà.
Về sau ông nhận ra được má tôi
là người cùng quê, cùng làng ngoài miền trung. Có lần ông kể cho hai chị em tôi
nghe là lúc còn thanh niên ông ở coi nhà và cày ruộng cho ông ngoại tôi. Ông mồ
côi cha mẹ từ nhỏ. Ông Cố tôi đem về nuôi giúp việc trong nhà và cưới vợ cho.
Mổi lần tới mùa gặt, ông thường dắt ngựa chở má hay mấy dì tôi đi coi gặt. Một
lần ông nói mà tôi vẩn còn nhớ tới bây giờ: ” Ông không ngờ gặp lại má con trong
tình cảnh như vầy. Ông Xã Triều (ông ngoại tôi) hiền lành đạo đức lắm, vậy mà
vẫn bị người ta bắt vô núi giết.” Sau này lớn lên tôi mới biết “người ta” đó là
ai. Từ lúc đó, tôi không nghe ông kêu má tôi là “cháu Hưng” nữa, mà ông đổi
lại, kêu bằng “cô Sáu”. Một lần khác khi có Ba tôi lên từ Sài Gòn, ông sang nhà
chơi và sai cô con dâu coi dùm em tôi để ba má tôi có chút thì giờ trò chuyện.
Cô con dâu hát ru:
Chim quyên xuống đất ăn
trùn
Anh hùng lỡ vận lên rừng đốt than!
Đốt than thì phải sàng than,
Làm sao đừng để lấm gan anh hùng.
Anh hùng lỡ vận lên rừng đốt than!
Đốt than thì phải sàng than,
Làm sao đừng để lấm gan anh hùng.
Ông Luật mắng cô con dâu ngay
tại chổ, cấm cô không được hát mấy câu này khi có ba hoặc má tôi ở gần. Có lẽ
ông sợ ba má tôi buồn. Buồn thật đó, nhưng ba má tôi làm sao buồn bằng bao nhiêu
người khác, những người vợ mất chồng, con mất cha, những bà mẹ già đầu mang khăn
tang vì có con trai đi chinh chiến không về? Dù sao đi nửa thì gia đình tôi vẫn
còn nguyên vẹn. Chúng tôi còn đòi hỏi gì hơn trong hoàn cảnh đất nước tang
thương như thế này?
Căn nhà của mẹ con tôi được
dựng lên thật nhanh, hình như chỉ trong 2 hay 3 ngày. Những tấm tôn được xe trâu
chở tới từ một trại lính cũ gần đó. Vách nhà đắp bằng đất lấy từ các gò mối. Căn
nhà vuông vức, nền đất, một cánh cửa ra vào bằng gỗ, vài ba cửa sổ có cánh bện
bằng lá tranh khô. Vài tuần sau, những người hàng xóm tốt bụng đào cho một cái
giếng bên hông nhà. Nhờ cái giếng này mà má tôi không phải cong lưng gánh nước
từ nhà ông Luật về mổi ngày. Lúc đầu, ông Luật sai người nhà gánh dùm, nhưng sau
đó Má tôi từ chối và tự mình gánh nước lấy.
Lúc căn nhà mới dựng xong,
đêm đêm thường nghe tiếng động như có ai chọi đá trên mái tôn. Nghĩ là có người
quậy phá, má tôi hay cầm đèn dầu ra ngoài dòm ngó. Sau đó có người cho biết rằng
chổ nhà tôi lúc trước có giao tranh rất lớn giữa lính Quốc Gia và lính Cộng Sản,
có đâu tới mấy trăm người chết. Phải chăng oan hồn những người lính đó không
thích sự hiện diện của căn nhà trên nấm mồ chung của họ? Tôi thấy má tôi lập một
bàn thờ nhỏ sau nhà, lúc nào cũng có ít trái cây
hay nải chuối. Từ đó chúng tôi không còn nghe tiếng động trên mái tôn nữa.
Những người dân quê chất phát
nơi đây có tấm lòng vô cùng nhân hậu. Họ giúp đỡ gia đình tôi thật nhiều trong
suốt thời gian mẹ con tôi ở Võ Đắc. Ba má tôi rất cảm động. Để cảm ơn họ, mổi
lần từ Sài Gòn lên, ba tôi hay đem cá Linh khô phân phát cho mổi gia đình một
ít. Ngoài ra, ông còn đem thùng đồ nghề kềm búa, tới trại lính cũ tháo kẽm gai
về làm hàng rào cho họ.
Từ khi đám cỏ tranh bị dẹp
sạch để làm nhà, tôi phát hiện ra thêm một nhà hàng xóm. Không xa nhà tôi mấy,
bên kia đám cỏ tranh là nhà dì Mười. Dì Mười có chồng đi lính Quốc Gia chết. Dì
có 8 người con trai, không có con gái. Từ khi biết dì, tôi chỉ thấy dì toàn mặc
đồ đen. Anh Thức, con trai lớn của dì 16 tuổi. Anh cao ốm trắng trẻo như học
sinh thành phố. Anh thường cho chị em tôi ngồi ké xe cộ mổi khi anh đi kéo xe
đâu đó về. Anh Lập, con trai út, hay dụ tôi leo lên xe cộ ngồi chơi rồi kêu chó
ra sủa dưới chân. Tôi sợ lắm. Mổi lần như vậy, anh bắt tôi phải ăn mấy trứng
thằn lằn rồi mới chịu đuổi chó đi cho tôi xuống. Có lẽ nhờ ăn trứng thằn lằn mà
tôi khoẻ mạnh vô cùng. Má tôi nhớ lại là trong thời gian ở đó tôi không hề bịnh
và thịt da chắc nịch mặc dù chỉ ăn cơm với cá Linh khô và rau lang luộc.
Chiều chiều chị tôi và tôi hay
qua nhà ông Luật chơi với chị Thắm, cháu nội ông Luật. Chị Thắm cỡ 6-7 tuổi và
có lẽ là đứa con gái điệu nhứt trên đời. Chị Thắm hay bắt chị tôi thắt bím và
hái bông gài lên tóc cho chị, rồi đi khắp nhà khoe là chị đẹp hơn chị tôi! Một
lần từ nhà ông Luật về, tôi vấp phải một cái sọ người. Hai chị em sợ quá vừa
chạy vừa khóc. Từ đó chúng tôi không dám qua nhà ông Luật chơi nữa. Chị Thắm
chắc buồn lắm vì không có ai để so sánh sắc đẹp. Thỉnh thoảng chị chạy qua nhà
tôi, nhưng không dám khoe với má tôi là chị đẹp hơn chị tôi.
Tôi bắt đầu mon men qua nhà dì
Mười vì không còn chổ để đi. Các anh con dì không có vẻ gì là thích chơi với
thằng con nít 4 tuổi như tôi. Tôi sợ nhứt là mấy con chó nhà dì. Sau một lần bị
chó cắn vào bắp chân, tôi không qua đó nữa. Tôi về nhà chơi với con thỏ bằng
nhựa màu đỏ mà ba tôi đem lên trong một lần lên thăm. Chiếc ghế bố trở thành xe
cộ, con thỏ nhựa trở thành con trâu kéo. Có khi con thỏ nhỏ được lên chức làm
voi trận, còn tôi thì làm Tướng Quân Trần Hưng Đạo như trong câu chuyện anh tôi
thường hay kể cùng với bài hát “Đây Bạch Đằng giang sông hùng dũng của nòi giống
Tiên Rồng…”
Má tôi được chính quyền giao
cho một miếng đất ruộng để trồng lúa. Nhà không đàn ông, không trâu cày, còn má
tôi dù là con địa chủ nhưng chưa bao giờ đụng tay tới việc đồng áng nên không
biết sẽ làm gì với miếng đất đó. May thay, nhờ một lần băng bó dùm vết thương
cho bác nông dân đạp phải mảnh bom lúc cày ruộng với túi cứu thương đem theo từ
Sài Gòn, má tôi được cử làm y tá bất đắc dĩ cho cả xã. Nhận thêm công tác dạy
học cho trẻ con trong vùng, gia đình tôi hoàn toàn không phải cày cấy gì. Những
người trong vùng thay nhau canh tác dùm trên miếng đất, cày cấy, đập gặt rồi chở
gạo thẳng về nhà cho chúng tôi khi tới mùa.
Sống trong sự đùm bọc yêu
thương của người dân Võ Đắc gần một năm thì mẹ con tôi nhận được giấy cho phép
trở lại Sài Gòn. Chúng tôi được về không phải như ba tôi tính trước là đàn bà
con gái dễ được cho về. Lý do họ cho má tôi về Sài Gòn là để lo cho đám con
sau khi chính quyền bắt ba tôi bỏ tù. Không ai biết tại sao ba tôi bị bắt. Có
người nói ông bị gán tội làm CIA vì khi xét nhà họ tìm thấy nhiều sách báo, giấy
tờ bằng ngoại ngữ cùng chiếc radio giống điện đài. Người khác thì cho rằng sau
khi đã dùng ba tôi để huấn luyện xong số người ở nhà máy in, họ không cần ông
nữa nên bắt ông bỏ tù vì tội làm phụ tá Bộ Trưởng Thông Tin trước kia. Vì lý do
gì đi nữa, tôi chỉ biết rằng trong mấy năm sau đó tôi không được gặp ba tôi nữa.
Buổi chia tay vói người dân Võ
Đắc thật xúc động. Ông bà Luật gởi cho mấy con gà cùng một bao gạo lớn. Dì Mười
kho cho một nồi thịt heo. Người cho chồng bánh tráng, kẻ tặng gói khô nai. Chị
Thắm ôm chị tôi khóc nức nở. Anh Lập con dì Mười cho tôi chiếc lồng có con chim
sáo. Tất cả đồ đạc, tài sản của mẹ con tôi chất đầy chiếc xe trâu do anh Thức
đánh ra tận bến xe lam. Ông chủ tịch xã mua lại cái nhà. Khi giao tiền ông còn
dặn dò: “ Chị cầm tiền về lo cho các cháu. Nhớ khuyên chồng chị học tập tốt Đảng
và Nhà Nước sẽ khoan hồng…”.
Thời gian đầu trở lại Sài Gòn,
má tôi thật sự không biết làm gì để nuôi con. Cũng may nhờ có mấy bao gạo ân
tình đem về từ Võ Đắc, má tôi đổ ra thúng để trước nhà bán lấy tiền mua thức ăn.
Một đồng nghiệp cũ của Ba tôi là bác Thùy nhà bán quán ở đầu ngõ thỉnh thoảng
vào thăm, lúc đem theo chai nước mắm, khi đem tặng bó rau. Anh hai tôi, thay vì
giúp đỡ má lo cho các em, lại đi theo đám du kích, cũng tay đeo băng đỏ, tay cầm
AK dọa nạt kẻ thất thế. Chắc anh quên rằng chính gia đình mình cũng là kẻ thất
thế, hay anh cố tình chạy trốn sự thật? Đây là điều ô nhục lớn nhất trong gia
đình tôi. Cũng vì đó mà khi cải tạo về có một thời gian thật lâu Ba tôi không
thèm nhìn mặt anh hai.
Cũng vào khoảng thời gian này
có nhiều câu ca dao mới được truyền miệng trong giới bình dân. Câu được nghe
nhiều nhất là:
Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa
Áo quần bán trước, cửa nhà bán sau
Ăn cơm thì ăn với rau
Đừng ăn thịt cá mà đau dạ dày
Áo quần bán trước, cửa nhà bán sau
Ăn cơm thì ăn với rau
Đừng ăn thịt cá mà đau dạ dày
Má tôi chưa tới nổi phải bán
nhà, nhưng phải bán một số quần áo để có tiền xoay xở. Cơm cũng không có mà
ăn vì hợp tác xã chỉ bán mì vắt hoặc khoai mì khô. Lâu lâu lại bán bánh mì ổ dài
cả thước, cứng như cái ống nước phải hấp lên mới ăn được. Rau muống được
ăn triền miên, thỉnh thoảng trong giấc mơ chúng tôi được ăn thêm thịt cá.
Tôi rất khâm phục má tôi là dù khó khăn tới mức nào đi nữa bà vẫn bắt anh em tôi
đi học. Anh ba tôi đã có lần xin má cho nghỉ học đi bán cà rem ở cổng trường, bị
má la cho một trận tơi bời. La xong má quay mặt đi, nước mắt chảy dài.
Còn một ít thuốc Tây trong tủ
thuốc gia đình, má tôi đem thử ra lề đường chợ Bà Chiểu đứng bán. Không ngờ đó
là món hàng quý hiếm vì nhiều người tìm mua để gởi cho thân nhân trong các trại
cải tạo. Cũng nơi lề đường chợ Bà Chiểu má tôi gặp lại nhiều người bạn cũ. Dì
Thanh cung cấp thuốc Tây cho má tôi đứng bán. Từ khi có Dì Thanh giao thuốc cho
má tôi bán, cuộc sống gia đình có phần dễ thở hơn. Trong vòng 1 năm, má tôi sắm
được cái tủ lạnh để anh em tôi ở nhà bán nước đá. Má cũng sắm được vài cây vàng
để dành sau này cho mấy anh tôi đi vượt biên.
“Nghề” bán thuốc Tây của má
tôi chấm dứt khi bà bị công an bắt vì đây là hàng quốc cấm. Không chịu khai ai
là người cung cấp thuốc, bà bị nhốt ở đồn công an quận Bình Thạnh hết mấy ngày
vì tội ngoan cố. Nhờ có bà Út bồng em gái tôi lên đồn công an năng nỉ họ thả má
tôi về để nuôi con nhỏ nên má tôi được tha, nhưng toàn bộ số thuốc bị tịch thu.
Bà Út là cô ruột của má tôi. Bà có chồng là dân biểu thời Việt Nam Cộng Hòa, có
hai con và làm chủ một tiệm may nổi tiếng ở Sài Gòn. Chồng con bà chết vì tai
nạn xe cộ trong những ngày cuối tháng 4 năm 1975. Nhà và tiệm may bị tịch thu
không lâu sau khi quân giải phóng vào. Bà sống ở đâu không ai biết, chỉ
biết là bà luôn xuất hiện khi má tôi gặp cảnh khó khăn nhất để giúp đỡ. Bà là
thần hộ mệnh của má tôi. Anh em chúng tôi thương bà lắm. Hiện nay má tôi là
người hàng tháng gởi tiền về Việt
Nam để mướn người chăm sóc cho
bà.
Một ngạc nhiên lớn xảy ra
cho gia đình: ba tôi được tha về. Tôi không nhớ là ba tôi được tha vào năm nào,
nhưng lý do được tha thì rất rõ ràng. Nhà máy in bị hư máy, bao nhiêu thợ cũng
không sửa được. Họ liền nghĩ tới ba tôi, người đã giúp làm cho nhà máy in hoạt
động trở lại mấy năm về trước.
Ba tôi lại tiếp tục làm cho nhà máy in. Hàng ngày ông đạp chiếc xe sườn ngang
màu đen, phía trước và sau đều có cột cái poọc-ba-ga, sáng đi chiều về. Mổi
chiều đi làm về ba tôi thường cho tôi ngồi yên sau, em gái tôi ngồi yên trước
rồi chở anh em tôi chạy một vòng trong xóm.
Bên cạnh nhà tôi là nhà dì Bảy
con ông Mười. Dì Bảy có chồng đi lính chết, có hai đứa con là thằng Cu và con
Bé. Nhà dì Bảy nghèo như không thể nào nghèo hơn. Tôi ít khi thấy dì ở nhà.
Thằng Cu bằng tuổi tôi, còn con Bé bằng tuổi em tôi, nhưng vì đói ăn triền miên
nên tụi nó bé tí teo. Tôi nhớ thằng Cu thường hay đứng dòm miệng người khác ăn.
Khi tôi ăn chuối nó thường đứng đợi tôi ăn xong để xin cái vỏ. Nó ăn cái vỏ
chuối ngon lành như người ta ăn sơn hào hải vị. Tôi ân hận vì đã chưa bao giờ
chia cho nó trái chuối đang ăn, chỉ dù một miếng nhỏ.
Ông Mười tối ngày say sưa
và chưởi rủa um sùm. Ông chưởi ai tôi không biết, chỉ biết có lần một đám công
an tràn vô nhà khi ông đang chưởi, đánh cho ông một trận thừa sống thiếu chết.
Họ bịt miệng rồi trói ông đem ra đường phơi nắng.
Má tôi sang được một sạp bán
chạp phô trong chợ Bà Chiểu. Vì không đủ tiền sang nguyên sạp nên phải chia đôi
một sạp lớn với bà người Tàu. Bà này không biết nói tiếng Việt nhiều. Tôi chỉ
nghe bà “Nị, Ngộ” suốt ngày, ngoài ra không hiểu gì khác. Bà bán hàng không bao
giờ bớt giá, còn má tôi hay bớt chút ít nên có nhiều khách hơn bà. Hình như bà
không ưa má tôi lắm.
Nhà còn chiếc xe Honda Dame
cũng có gắn cái yên nhỏ đằng trước cho em tôi ngồi. Lâu lâu vào cuối tuần, ba
chở má, tôi, và em tôi đi thăm bà con. Đôi khi ba chở anh em tôi ra sạp hàng của
má, ghé hàng ăn cho ăn tô bún bò rồi chở về. Đây có lẽ là thời gian hạnh phúc
nhất trong những năm tuổi thơ của tôi.
Cuối năm 1979 nhà tôi dọn đi
xóm khác. Ba tôi cho rằng dọn tới chổ mà không ai biết mình sẽ dễ sống hơn. Ba
tôi lầm.
Đây là một xóm lao động nghèo,
sâu trong một con hẻm có nhiều ngóc ngách. Hầu hết các gia đình trong xóm làm
nghề buôn bán lặt vặt hay đạp xe ba gác, xích lô. Khi dọn về, thấy nhà tôi có
tivi, tủ lạnh, xe Honda nên ai cũng cho là nhà tôi giàu lắm. Ngày đầu tiên trong
căn nhà mới chúng tôi lần lượt có khách tới thăm: ông tổ trưởng tổ dân phố, ông
tổ phó an ninh, bà trưởng hội phụ nữ, cuối cùng là chú công an khu vực. Tôi
không nghĩ là họ tới để chào mừng gia đình tôi. Họ tới để hỏi lý lịch ba má tôi,
để cảnh cáo ba má tôi rằng mọi người trong xóm đều là tai mắt của nhà nước
nên đừng âm mưu làm chuyện gì mờ ám chống phá Cách Mạng.
Rồi anh hai tôi đi vượt biên
bị bắt. Ba má tôi chạy chọt rất nhiều mới được tha về. Công an khu vực tới nhà
dòm ngó hàng ngày. Anh ba tôi bị kêu đi nghĩa vụ quân sự nên ba má tôi tìm đường
cho anh vượt biên mặc dù anh bị cha con ông tổ phó an ninh theo dỏi từng bước.
Ngày đi chủ tàu còn 2 chổ. Ba tôi đi tìm anh hai tôi cả ngày không ra vì anh đi
chơi đâu đó với bạn bè. Đành quyết định cho anh tư đi chung với anh ba. Vài ngày
sau lại có chuyến vượt biên khác. Ba má sắp xếp cho anh hai dắt tôi đi. Khi
ra đến bến xe má tôi đổi ý dắt tôi về, để anh hai đi một mình. Chuyến đó tàu ra
biển bị chìm. Hơn nửa số người trên tàu chết đuối. Anh hai lại bị bắt.
Rồi công an ập tới nhà bắt
ba tôi đi. Lần này họ xét nhà, lấy đi hết mọi thứ từ vàng vòng, tivi, xe Honda…
Họ đập bể các chậu bông tìm kiếm vàng bạc. Họ moi từng túi quần, túi áo tìm kiếm
tiền. Họ rạch nát mấy tấm nệm giường, ngay cả bóp tiền má tôi cầm trên tay hớt
hải từ chợ chạy về khi nghe tin công an xét nhà cũng bị họ lấy đi mất.
Nhà tôi trở lại chỉ còn 4 mẹ
con như lúc trên Võ Đắc. Chỉ khác là những người hàng xóm bây giờ không có nhiều
tình người, hay tính người, như người dân quê mà chúng tôi đã gặp. Điển hình
là ông tổ phó an ninh và bà hội trưởng hội phụ nữ. Hai người này thường xuyên
rình rập nhà tôi. Bất cứ lúc nào nhà có khách thì y như rằng vài phút sau có
công an khu vực xuất hiện. Cậu út tôi lúc đó là sinh viên Đại Học Sư Phạm Kỹ
Thuật Thủ Đức. Mổi khi đạp xe về Sài Gòn cậu hay ghé nhà thăm má tôi, sẵn tiện
uống ly nước đá rồi đi tiếp. Một lần cậu đang ngồi uống nước trong nhà thì ông
tổ phó an ninh cùng anh con trai làm phường đội ập vô nhà, bắt cậu trình giấy tờ
và hạch hỏi cậu tôi ghé nhà có mưu đồ gì. Còn bà hội trưởng phụ nữ rất nhiều lần
cảnh cáo là nhà tôi có tủ lạnh, bán nước đá cho hàng xóm mà không đóng thuế!
Trong vòng không đầy một tháng
mà có quá nhiều chuyện xãy ra cho gia đình tôi. Anh hai vượt biên bị bắt. Anh
ba, anh tư ra đi chưa biết tin tức. Ba tôi bị bắt không biết đang bị giam giữ
nơi nào. Cha con ông tổ phó an ninh thường xuyên tới nhà hỏi anh ba và anh tư
tôi ở đâu, phải kêu về gấp để đi nghĩa vụ. Ban đêm nhà bị trộm rình. Mái nhà tự
dưng bị dột. Khi mưa lớn, nước chảy từ mái nhà xuống sàn như thác đổ. Má tôi lại
bị công an kêu lên kêu xuống nhiều lần để thẩm vấn. Mổi lần như vậy phải gởi sạp
hàng cho người khác coi dùm. Tội cho tấm thân đàn bà yếu đuối bị khổ từ tâm tới
xác. Tôi không hiểu làm sao mà Má tôi không phát điên lên trong hoàn cảnh như
vậy.
Một ngày mùa hè, sở công an
báo là đang giam Ba tôi ở số 4 Phan Đăng Lưu. Má lật đật tìm cách đi thăm nuôi.
Sau khi xin được giấy, tìm tới nơi thì họ nói đã chuyển đi Chí Hòa. Chạy tới Chí
Hòa, họ lại bảo đã chuyển đi trại Đồng Phú, Sông Bé. Nóng lòng muốn thăm chồng,
má tôi đã nhờ dượng Bảy, chồng cô ruột tôi, sáng sớm chở bằng Honda lên trại
Đồng Phú. Khi tới trại Đồng Phú 2, họ nói ba tôi ở Đồng Phú 1. Tìm tới Đồng Phú
1, họ lại nói ba tôi ở Đồng Phú 2. Trở lại Đồng Phú 2 thì hết giờ thăm nuôi. Má
tôi biểu dượng Bảy chạy xe về rồi một mình ở lại qua đêm để hôm sau được thăm
chồng. Hôm sau tới giờ thăm nuôi thì quản trại lại không cho gặp vì giấy phép
thăm nuôi đã hết hạn! Mệt mỏi, uất hận tới tận cùng, khi về được tới nhà tối hôm
đó má tôi chắc có lẽ đã ngã quỵ nếu không có tin hai anh tôi đã vượt biên đến
được Thái Lan.
Không lâu sau hai anh tôi
tới Mỹ. Vừa làm vừa học, các anh thường xuyên gởi tiền về nuôi gia đình. Những
thùng đồ Mỹ như một phép lạ thay đổi cuộc sống gia đình tôi thật nhanh. Bọn trẻ
con trong xóm được tôi phân phát kẹo Mỹ, nho khô nên không ghét chị em tôi như
trước nữa. Ông tổ phó an ninh, bà hội trưởng hội phụ nữ thỉnh thoảng cũng được
má tôi biếu ống kem đánh răng hay cục xà bông thơm do các anh gởi về. Chú công
an khu vực thì phải biếu những món lớn hơn như hộp thuốc bổ hay sấp vải xoa. Một
điều lạ là những khi nhà tôi nhận đồ Mỹ, chỉ trong vài tiếng đồng hồ là những
người này xuất hiện “tới thăm chị và mấy cháu”.
Họ chẳng khác nào
một đám ruồi nhặng nghe mùi tanh hôi mà ập đến. Tư cách con người sao quá rẻ
mạt.
Mổi tháng một lần má dắt chị
tôi hoặc tôi đi thăm nuôi ba và anh hai. Đường đi xa và lầy lội, mình mẩy ê ẩm
vì phải ngồi trên sàn xe. Có khi xe bị lún sình, tất cả hành khách phải xuống
lội sình đẩy xe lên. Có lần chiếc xe bị lật ngay giữa vũng sình, may là không ai
bị thương nặng. Một buổi thăm nuôi thường chỉ dài một hai tiếng. Nơi đây tôi
được ăn các món thịt rừng do ba tôi mua từ những cán bộ trại đi săn về bán lại.
Thịt heo rừng nhiều nạc và mềm. Thịt nai càng nấu càng dai. Tôi không dám ăn
thịt trăn, nhưng đem về hủ mỡ trăn làm thuốc xứt phỏng rất hữu hiệu.
Ba năm sau ba và anh hai
tôi được tha về. Ba
không cho má tôi đi bán ngoài chợ nữa. Cuộc sống gia đình bắt đầu nhàn nhã hơn.
Anh em tôi được đi học đàng hoàng. Chị tôi trở thành cô giáo. Tôi vừa học xong
lớp 12 và đứa em gái đang học lóp 11 thì gia đình được ra đi đoàn tụ với hai anh
bên Mỹ. Anh Hai tôi ở lại vì đã có vợ con, thừa hưởng căn nhà.
Vài điều nực cười là ông tổ
phó an ninh có qua nhà, nhờ ba má tôi biểu hai anh ở Mỹ bảo lảnh dùm con trai
của ông từ Tây Đức qua Mỹ. Đây là anh con trai làm phường đội lúc trước hay rình
rập nhà tôi, đòi bắt hai anh tôi đi nghĩa vụ. Anh này đi “hợp tác lao động” qua
Đông Đức, trốn qua Tây Đức nhưng không chứng minh được tư cách tỵ nạn và không
có người bảo lãnh nên bị trả về Việt Nam. Còn bà hội trưởng hội phụ nữ dặn tới
dặn lui là qua Mỹ nhớ kiếm dùm Việt Kiều về cưới hai cô con gái của bà.
Trước khi rời Việt Nam đi Mỹ
năm đầu 1992, ba má tôi có ra Võ Đắc thăm lại các ân nhân cũ. Cảnh vật đổi thay,
người xưa cũng không còn. Ông Luật ngã bịnh chết vì quá uất ức khi chính
quyền lấy hết trâu bò ruộng đất của ông đưa vào hợp tác xã. Vợ con ông dọn đi
đâu không ai biết. Dì Mười đi làm ruộng đạp phải mìn bị nổ chết không toàn thây.
Anh Thức và hai người em đi nghĩa vụ bên Campuchia không về. Các anh còn lại tản
mát khắp nơi. Ông chủ tịch xã bị mấy người từ ngoài Bắc vô thay thế. Nghe
nói ông chán nản, dắt gia đình đi vượt biên chết mất xác ngoài biển Đông.
Tuổi thơ của tôi là như vậy
đó. Nó chẳng khác một cơn ác mộng. Có khác chăng là cơn ác mộng không thể để lại
những ký ức hằn sâu trong tâm trí một đứa trẻ con từ khi nó mới 3 tuổi.
Trong cơn ác mộng này tôi học được chính chủ nghĩa Cộng
Sản đã gieo biết bao nhiêu tang thương cho gia đình, cho đồng bào, cho đất nước
tôi. Tôi học được sự khác nhau giữa cái tốt và cái xấu. Tôi học được
giữa cảnh khốn cùng vẫn có những tấm lòng rộng mở. Tôi học phải biết thương yêu
anh em, cha mẹ, thương yêu đồng loại. Tôi học được sự tráo trở của lòng dạ con
người. Và có lẽ quý hơn hết, cơn ác mộng đã cho tôi bài học làm người.
Raleigh
30 tháng 4, 2007
Phan Quang Thi
30 tháng 4, 2007
Phan Quang Thi
No comments:
Post a Comment