Thursday, August 23, 2012

LUẬN LÊ TÙNG MINH

CHÍNH  SÁCH  ĐàO  TạO" TRÍ  THứC  MỚI " 

của  ĐẢNG  CộNG  SẢN  Việt  NAM
Lê  Tùng  Minh


          Từ sau năm 1954, khi nắm được chủ quyền trên toàn lãnh thổ miền Bắc Việt Nam, Đảng Cộng Sản Việt Nam (lúc ấy mang tên "đảng Lao Động Việt Nam") đã quan tâm đào tạo một đội ngũ "Trí Thức Mới" để phục vụ cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, vì như Lênin đã dạy cho những lãnh tụ cộng sản rằng : "Không có trí thức cộng sản thì không thể xây dựng chủ nghĩa cộng sản !".

          Do đó, từ 1956, dù ngân sách Nhà Nước còn rất thiếu thốn, trông cậy vào sự viện trợ của các nước anh em xã hội chủ nghĩa, chủ yếu là Liên Xô và Trung Quốc, đảng Cộng Sản Việt Nam cho mở cấp tốc một số trường đại học như : Đại Học Tổng Hợp, Đại Học Sư Phạm, Đại Học Kinh Tế, Đại Học Y Dược Khoa và Đại Học Nông Lâm. Về hình thức, hệ thống đại học miền Bắc có vẻ rầm rộ bởi sự phô trương và tuyên truyền, nhất thời đã lôi cuốn nhiều nhà  "trí thức cũ" tham gia đào tạo đội ngũ "trí thức mới" ( như các giáo sư Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Phạm Huy Thông, Trương Tửu, Phan Khôi, Ngụy Như Kontum, Nguyễn Hoán, Đặng Văn Chung v.v...).
Buổi đầu, do tập trung lo giải quyết nhiều vấn đề chính trị, kinh tế quan trọng hơn, nên Bộ Chính Trị Trung Ương đảng Cộng Sản Việt Nam giao khoáng công tác giáo dục đại học cho Đảng Đoàn Bộ Giáo Dục lo, cụ thể là giao cho Nguyễn Khánh Toàn và sau đó là Võ Thuần Nho (em ruột của Võ Nguyên Giáp), Bí Thư Đảng Đoàn kiêm Thứ Trưởng Bộ Giáo Dục (lúc này chưa thành lập Bộ Đại Học). Võ Thuần Nho chịu trách nhiệm trước Trung Ương Đảng về mọi vấn đề của ngành giáo dục, trực tiếp chịu sự chỉ đạo của Lê Đức Thọ (Ủy viên Bộ Chính Trị kiêm Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng).

          Nhưng sau vụ "Nhân Văn Giai Phẩm" và "Đất Mới", Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trường Chinh và Lê Đức Thọ, quyết định siết chặt công tác tổ chức và tư tưởng đối với ngành đại học, thực hiện một CHÍNH SÁCH GIAI CẤP TRONG VIC ĐÀO T[1]O "TRÍ THC MỚI".

          Chính sách ác nghiệt, phản sự tiến hóa của tiến trình sinh hoạt cộng đồng và nhân bản của dân tộc, được thể hiện cụ thể ở mấy điểm sau đây :

          1.-  CHỌN LỰA ĐỘI NGŨ THẦY GIÁO Đ[1]I HỌC.

          Nguyên tắc căn bản để chọn lựa đội ngũ Thầy giáo Đại Học, do Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đề ra là :  " Lý Lịch Phải Trong Sạch; Tuyệt Đối Trung Thành với Đảng". Do đó, các giáo sư có dính líu đến các vụ án chống Đảng  hồi năm 1956-1957 đều bị đuổi khỏi trường đại học, cho đi lao động cải tạo (như các giáo sư Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu, Phan Khôi). Giáo sư Trần Văn Giàu, đảng viên cao cấp, nhưng vì "tiêu cực đấu tranh" nên cũng không được tiếp tục dạy ở đại học (mãi đến sau năm 1975, ông Giàu mới được phép diễn thuyết ở các trường đại học).

          Bất cứ nhà giáo dục nào cũng hiểu rõ : Đại Học là nơi đào tạo nhân tài cho đất nước, vì thế NHÂN TỐ QUAN TRỌNG HÀNG ĐẦU LÀ ĐỘI NGŨ THẦY GIÁO (giáo sư, phó giáo sư, giảng viên và cán bộ hướng dẫn). Có đội ngũ thầy giáo giỏi mới đào tạo được một lớp học trò giỏi, là một chân lý phổ biến, không thể phủ nhận !

          Vậy mà thực trạng thầy giáo đại học từ sau 1959-1960 của ngành đại học miền Bắc Việt Nam đã được TUYỂN LỰA THEO TIÊU CHUẨN  "HỒNG"  HƠN  "CHUYÊN".
"Hồng" là "đỏ về mặt tư tưởng", nghĩa là phải tuyệt đối trung thành với Đảng, dạy đúng theo lời của Đảng. Những người mà Đảng coi là "hồng" bao gồm các thành phần : Đảng viên, Đoàn viên xuất thân từ giai cấp cơ bản (công nhân, bần cố nông, dân nghèo thành thị). Những người thầy nầy, dù không có bằng cấp cao, dù học lực trung bình, cũng được Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng phong cho chức "giáo sư" hay "phó giáo sư" để có "học vị" lên đứng trên bục giảng đường. Tỷ lệ những người thầy đại học này chiếm đến 80% tổng số cán bộ giảng dạy đại học của miền Bắc Việt Nam trong giai đoạn 1960-1975.
Bởi thế, giáo sư Tạ Quang Bửu khi còn làm Bộ Trưởng Đại Học (1961-1968) có nói một câu khá hài hước : " Đại HỌC CỦA CHÚNG TA CHỈ LÀ PHỔ THÔNG CẤP 4 ". Còn giáo sư Trần Văn Giàu thì kết luận thẳng rằng : " NẾU ANH KHÔNG CÓ BẰNG TIẾN SĨ, KHI TỔ CHC MUỐN ANH LÀM GIÁO SƯ M

C NHIÊN ANH LÀ TIẾN SĨ ( ! ). NẾU ANH CÓ BẰNG CẤP TIẾN SĨ , MÀ TỔ CHC MUỐN ANH LÀM THẰNG CHĂN BÒ, ANH PHẢI LÀ THẰNG CHĂN BÒ ( ! ) ".

          Phương thức tuyển lựa đội ngũ thầy giáo đại học của miền Bắc Việt Nam có hai cách : Tuyển lựa những người được đào tạo trong nước, và tuyển lựa những người được đào tạo ở các nước xã hội chủ nghĩa (chủ yếu là Liên Xô và Trung Quốc).

     *  NHNG THẦY GIÁO Đ[1]I HỌC ĐƯỢC TUYỂN LỰA  TRONG NƯỚC.

          Trong giai đoạn lịch sử này (1960-1975) không có ai có bằng cấp Tiến Sĩ cả, mà chỉ có những người đã học xong CHƯƠNG TRÌNH 10+3 ( tức là 10 năm ở cấp phổ thông từ tiểu học đến trung học, học thêm 3 năm ở đại học ) hoặc CHƯƠNG TRÌNH 10+4  ( sau khi tốt nghiệp phổ thông học thêm 4 năm đại học ). Trung thực mà nói, trong đội ngũ thầy giáo đại học (sau khi tốt nghiệp đại học được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy) được tuyển lựa ở diện này cũng có một số người giỏi (có thể chiếm tỷ lệ 5%) và về sau đã nổi tiếng là nhờ sự tự học của họ như Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn.

     *  NHNG THẦY GIÁO Đ[1]I HỌC ĐƯỢC TUYỂN CHỌN TRONG SỐ ĐI HỌC Ở CÁC NƯỚC
         XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.

          Phần đông trong số họ được đào tạo qua trường bổ túc công nông (có trình độ lớp 2 hay lớp 3 vào học 3 năm, 4 tháng lên một lớp thì đậu bằng tương đương lớp 10), rồi học một năm ngoại ngữ của nước mà họ được đi du học (chủ yếu là Liên Xô và Trung Quốc). Sau 4 hay 5 năm học ở nước ngoài, đậu bằng kỹ sư, cử nhân hay phó tiến sĩ. Bất cứ học sinh công nông nào được cử đi du học ở các nước xã hội chủ nghĩa, dù học giỏi hay dở, đến thời hạn vẫn được cấp bằng (theo chính sách "chiếu cố Việt Nam" của phe quốc tế cộng sản). Có thể khẳng định tỷ lệ giỏi cũng không quá 5%. Trường hợp phó tiến sĩ sinh vật học Phan Văn Khải, đương kim thủ tướng của Cộng Sản Việt Nam cũng xuất thân từ đội ngũ công nông du học này.
                                                                    *
                                                                 *     *

          Một số thầy giáo đại học sau này được Nhà Nước Cộng Sản phong giáo sư và đã nổi tiếng là giỏi như giáo sư sử học Phan Huy Lê (em ruột của bác sĩ Phan Huy Quát, nguyên chủ tịch Liên Minh Á Châu Chống Cộng Việt Nam, đã chết trong nhà tù của Cộng Sản Việt Nam sau năm 1975); giáo sư toán học Phan Đình Diệu; giáo sư ngôn ngữ Nguyễn Tài Cẩn v..v... tuy không thuộc thành phần cơ bản, nhưng họ không có biểu lộ "mất lập trường chính trị" và nhất là không có hành động chống đối, làm tốt công tác giảng dạy, đào tạo theo chính sách của Đảng (ít nhất là trước 1990). Nói cách khác, dù là người có tài, đỗ đạt cao, nhưng không thuộc thành phần cơ bản, nếu có được giảng dạy ở đại học thì cũng là loại giảng viên thường, không được giữ những chức vụ như Chủ Nhiệm Khoa hay Trưởng Bộ Môn, thậm chí không được giữ cả chức Chủ Nhiệm Lớp.

          Sau năm 1975, khi đảng Cộng Sản Việt Nam dùng võ lực cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, và đặt cả nước vào chung một chế độ chính trị "Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam", do việc "mua chuộc" một số trí thức khoa bảng của chế độ Việt Nam Cọng Hòa
nên về HÌNH THC TUYỂN DỤNG THẦY GIÁO Đ[1]I HỌC CÓ THAT ĐỔI; NHƯNG VỀ BẢN CHẤT GIAI CẤP CỦA CHÍNH SÁCH V N KHÔNG HỀ THAY ĐỔI ! Chính vì lẽ đó mà nhiều giáo sư của chế độ cũ dần dần từ bỏ chế độ mới, vượt biên bỏ nước ra đi, mang đầy sự hận tủi của người trí thức lưu vong !

          Để cho bộ mặt đại học khỏi phải mang tiếng là "Phổ thông cấp 4", và cũng để "sánh ngang" với nền đại học nước người, Nhà nước Cộng Sản Việt Nam liền cho phong hàm, cấp vị một cách "khoáng đại". Hàng loạt Phó Tiến Sĩ, Tiến Sĩ, Giáo Sư, Phó Giáo Sư ra đời không theo qui chế nào của đại học quốc tế (!?). Theo sự đánh giá của các chuyên gia đại học quốc tế thì nhiều lắm chỉ có 5% trong số được phong hàm, học vị đại học của Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam (sau năm 1975) là đạt tiêu chuẩn (!?). Số lượng thầy giáo tăng lên một cách đột ngột, mà nếu xét về hiện tượng chưa chắc có một quốc gia nào, dù là hiện tại như Pháp, Anh, Mỹ, so sánh bằng: Theo thống kê chính thức của Bộ Đại Học và Giáo Dục Chuyên Nghiệp (của Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam) tỷ lệ trung bình của thầy giáo Đại Học so với sinh viên toàn quốc là 1/6. Còn tại một số đại học lớn ở Hà Nội là 1/2.5; đặc biệt có một vài đại học là 1/1 (số liệu thống kê năm 1993).

          2.-  PHƯƠNG THC THI TUYỂN SINH VIÊN.

          Theo các thông tri tuyển sinh vào đại học của Bộ Giáo Dục (trước năm 1966) và Bộ Đại Học và Giáo Dục Chuyên Nghiệp (sau năm 1961) cho đăng công khai trên các báo của Nhà Nước thì "không phân biệt thành phần giai cấp và tín ngưỡng, miễn em nào có bằng lớp 10 (phổ thông hoặc bổ túc công nông) đều được quyền dự thi tuyển vào trường đại học nào mà các em thích; đồng thời nếu đạt đủ điểm qui định thì không có lý do nào không được nhận vào trường đại học".
Nhưng sự thật thì không hoàn toàn đúng như lời bố cáo trong các bản thông tri tuyển sinh hằng năm của Bộ Giáo Dục (hay Bộ Đại Học.....).

          Thực tế, có sự phân biệt đối xử theo một chính sách rất khắc nghiệt đối với các em học sinh không thuộc thành phần cơ bản (công nhân, bần cố nông, lớp nghèo thành thị ) như là :

          *  Kiên quyết loại bỏ các em học sinh thuộc các thành phần địa chủ, tư sản... và càng kiên quyết loại trừ các em thuộc thành phần làm việc cho chế độ cũ ( làm cho Pháp trước năm 1954 và làm cho Việt Nam Cọng Hòa hoặc làm cho Mỹ sau 1955 ). Nếu có trường hợp em nào quá giỏi, có dư luận đông đảo của quần chúng biết đến, thì cho vào học các trường trung cấp chuyên nghiệp (nhưng rất hạn hữu). Chính sách giai cấp này đã mang lại một hậu quả rất nghiêm trọng : Không những đã kềm hãm và giết chết tài năng của tuổi trẻ, làm tổn hại đến nhân tài của đất nước trong tương lai; mà còn tạo ra một thảm cảnh làm tan nát cuộc đời của một số em, vì thất vọng buồn chán..... rồi gia nhập vào đội quân "xã hội đen" (!).

          *  Ưu tiên tối đa cho các em thuộc thành phần cơ bản, đặc biệt là con em của cán bộ trung cao cấp đảng, con em của các đảng viên đang nắm quyền thế ở địa phương, từ  Xã, Huyện, Tỉnh đến Trung Ương. Do đó, có những em rất kém cũng thi vào đại học. Theo dư luận xã hội : Đó là thi "đậu lý lịch" (!). Chính sách ưu tiên cho giai cấp cầm quyền này đã tạo một hậu quả nghiêm trọng lâu dài cho tương lai của dân tộc; bởi vì chỉ đào tạo một tầng lớp trí thức không đủ tiêu chuẩn về mặt kiến thức, và thiếu cả phẩm hạnh của trí thức là tự tin, dựa vào sức mình là chính ! Chính một số trí thức mới được đào tạo trong cái lò này đã và đang trở thành những "ông quan cách mạng" chỉ biết vâng, dạ, xu nịnh, mánh mung làm thiệt hại lớn cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước !
          Thực tế, tưởng rằng đã được thay đổi tận gốc từ lâu sau khi đảng Cộng Sản Việt Nam tuyên bố đổi mới tư duy, mở cửa về kinh tế, cải cách về giáo dục (từ sau 1990). Nhưng thực chất vấn đề "chủ nghĩa giai cấp", vẫn còn nguyên, dù rằng báo chí của Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam có tuyên truyền rầm rộ cho sự thay đổi này (!). Chính sách giai cấp, chủ nghĩa thành phần (hay chủ nghĩa lý lịch) vẫn còn thống trị trong đầu óc các cán bộ tổ chức có trách nhiệm duyệt xét tuyển sinh. Vì lý do đó, đã nãy sinh tâm lý phổ biến đối với các em học sinh học giỏi, nhưng không thuộc thành phần cơ bản, muốn bỏ nước ra đi ngày càng nhiều. Họ có hoài bảo sẽ đỗ đạt cao ở nước ngoài. Đó là một nguyện vọng chính đáng, nhưng là một hiện tượng đáng buồn cho sự nghiệp đào tạo trí thức tại nước nhà cho dân tộc ! Khốn khổ thay ! Không phải em học sinh nào vượt biên, bỏ nước ra đi, đều đến bến bờ vinh quang ! Tất cả đều bắt nguồn từ một chính sách sai lầm tả khuynh của Đảng Cộng Sản Việt Nam, mà đến nay họ mới nhìn thấy trên khía cạnh lý thuyết. Nhưng họ vẫn kiên quyết bảo vệ chính sách độc quyền giai cấp ấy !

          3.-  SỰ THỐNG TR CỦA MÔN "CHỦ NGHĨA MARX - LÊNIN" VÀ H

U QUẢ CỦA NÓ.

           Như trên đã trình bày : Trong chính sách đào tạo "trí thức mới" (hay trí thức xã hội chủ nghĩa) của Đảng Cộng Sản Việt Nam thì, coi trọng  "HỒNG" hơn "CHUYÊN".

          Muốn tô "hồng" tư tưởng, tình cảm và lập trường của sinh viên chỉ có cách là nhồi nhét thật nhiều, thật sâu môn học "chủ nghĩa Marx-Lênin" cho sinh viên; đồng thời bắt buộc sinh viên phải nhận thức được rằng môn "chủ nghĩa Marx - Lênin" là môn học quan trọng hàng đầu ở đại học, là một môn học có vai trò quyết định cả tương lai thăng tiến của mỗi sinh viên sau khi tốt nghiệp đại học (!).

          Vì vậy, trong chương trình giảng dạy ở các trường đại học xã hội chủ nghĩa Việt Nam, môn chủ nghĩa Marx - Lênin coi như là môn bắt buộc phải đạt điểm theo quy định.

          Môn học chủ nghĩa Marx - Lênin bao gồm những bài học về :

     a)  Triết học Marx-Lênin (Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử).
     b)  Kinh tế chính trị học Marx-Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học (cụ thể là học về chính sách của các đảng cộng sản, đặc biệt là chính sách của đảng Cộng Sản Liên Xô,                                         
Trung Quốc và Việt Nam). Nội dung giảng dạy môn này cho sinh viên ở các trường đại học chuyên nghiệp (Bách khoa,Y Dược, Nông Lâm, Kiến trúc, Thủy lợi v..v...) nhẹ hơn sinh viên các trường Khoa học Xã hội (Kinh tế, Luật, Sử, Văn....). Tuy nhiên, nói chung môn chủ nghĩa Marx-Lênin dạy ở các trường đại học không nhằm đào tạo những "cán bộ lý luận" Marx-Lênin (như trường Đảng Nguyễn Ái Quốc hay trường Đại Học Chính Trị), mà chủ yếu là rèn luyện lập trường chính trị, lập trường "tin tưởng tuyệt đối" vào sức mạnh vạn năng của chủ nghĩa Marx-Lênin, của Đảng Cộng Sản (!).

          Vì mục đích và yêu cầu của môn chủ nghĩa Marx-Lênin ở các trường đại học như vậy, nên điều quan trọng nhất là "cưỡng bức tư tưởng" hơn là tiếp thu một môn khoa học xã hội. Do đó, các thầy giáo dạy chủ nghĩa Marx-Lênin ở các trường đại học cũng có những tiêu chuẩn khác. Trước tiên, họ phải là đảng viên đã được trui rèn trong quá trình thử thách sự trung thành đối với Đảng. Sau đó, họ được đào tạo qua một lớp học chủ nghĩa Marx-Lênin (ngắn hạn là 1 năm, dài hạn là 2-3 năm)  và có khả năng giảng dạy (hay truyền đạt đúng như chỉ thị của Đảng), chớ không cần có khả năng nghiên cứu phát hiện ra những lỗi lầm của học thuyết Marx-Lênin. Cuối cùng, họ chỉ cần có một trình độ văn hóa nhất định (trình độ sơ học hay trung học càng tốt), không đòi hỏi họ có bằng đại học. Nhưng, họ lại là những thầy giáo có vai trò lãnh đạo các thầy giáo của các bộ môn khác trong trường đại học. Mọi chủ trương, chính sách về cán bộ, về lương bổng, thậm chí về nội dung giảng dạy ở nhà trường đại học đều do thành phần này quyết định là chủ yếu.

          Đối với sinh viên, nếu học kém về môn chủ nghĩa Marx-Lênin thì không được lên lớp, không đủ điểm trong kỳ thi tốt nghiệp về môn này thì không được cấp bằng tốt nghiệp, dù số điểm của các môn khác có cao đến đâu (!). Sinh viên phải thi lại vào năm sau, hoặc năm sau nữa, cho đến khi nào đậu môn chủ nghĩa Marx-Lênin mới được nhận bằng tốt nghiệp. (!). Vì vậy, dư luận sinh viên đã cho rằng : " MÔN CHỦ NGHĨA MARX-LÊNIN LÀ MÔN QUYẾT ĐNH CUỘC ĐỜI ", hay mỉa mai hơn " MÔN CHỦ NGHĨA
MARX-LÊNIN LÀ CHA CỦA CÁC MÔN HỌC KHÁC ".
Trong thực tế, nhiều sinh viên học môn này không phải để nâng cao kiến thức, mà "học gạo"  để đối phó, miễn sao cho đủ điểm đậu, chớ không cần gì hơn. Do đó, đa số sinh viên sau khi tốt nghiệp nhất là sinh viên khoa học cơ bản (Toán, Lý, Hóa, Sinh vật...) và
sinh viên kỹ thuật chuyên nghiệp (Cơ khí, Luyện kim, Điện học, Xây dựng, Nông Lâm nghiệp, Kế toán, Tài chánh...) đều không thể giải thích nổi một câu hỏi thuộc phạm trù lý luận của chủ nghĩa Marx-Lênin (Thí dụ : Tại sao gọi là Duy Vật Biện Chứng ? Nội dung của Chủ nghĩa Duy Vật Lịch Sử là gì ? Những điểm khác nhau giữa chủ nghĩa Xã Hội Khoa Học và Lịch Sử Đảng ? v..v...).

          SỰ THỐNG TR MÙ QUÁNG ĐẾN CUỒNG TÍN CỦA BỘ MÔN CHỦ NGHĨA MARX-LÊNIN TRONG CÁC TRƯỜNG Đ[1]I HỌC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIT NAM , KÉO DÀI
TỪ NĂM 1956 ĐẾN NĂM 1990 : 19 năm của riêng miền Bắc Việt Nam, và 15 năm cho cả nước Việt Nam. Đây quả là một tai ách đối với ít nhất 9-10 thế hệ đại học, nối tiếp nhau (nếu tính trung bình, một thế hệ là 4 năm). Nó bóp chết biết bao nhiêu tài năng của dân tộc, đồng thời nó còn gây một hậu quả trầm trọng cho việc xây dựng và phát triển đất nước trở thành một quốc gia văn minh và hiện đại !

          Sau sự biến động ở Đông Âu, khối Cộng Sản Quốc Tế do Liên Xô đứng đầu đã sụp đổ hoàn toàn (1988-1991, lý tưởng Cộng Sản trở thành cơn ác mộng,  và CHỦ NGHĨA MARX-LÊNIN KHÔNG CÒN Ở TÌNH TR[1]NG XÉT L[1]I HIN Đ[1]I, MÀ NÓ ĐÃ RƠi VÀO TÌNH TR[1]NG B CHỐI BỎ !  Những thần tượng Marx, Engels, Lênin, Xít ta Lin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh lần lượt sụp đổ trong lòng tin, ngay cả đối với các đảng viên Cộng Sản thức tỉnh. Vì vậy, việc học tập môn chủ nghĩa Marx-Lênin ở các trường đại học Việt nam cũng bị xét lại : Thầy giáo lên bục cũng không dám tin những điều của họ giảng là chân lý. Sinh viên ngồi học thì cảm thấy chán nản vì thấy mình đang là con cừu non trước sự thuyết giảng đầy dối trá. Cả thầy và trò đều mất lòng tin, đều cảm thấy khó chịu vì bị bắt buộc giảng và học đến như những người cuồng tín. Nhưng, trong khi các nước Đông Âu và Nga đã bãi bỏ hẳn giáo trình chủ nghĩa Marx-Lênin ở đại học, thì ở Việt Nam vẫn cứ duy trì một môn học vô giá trị đó đối với việc đào tạo tầng lớp trí thức mới. Tuy nhiên, sức mạnh của dòng tư tưởng đối kháng trong sinh viên đại học đã trưởng thành theo phong trào dân chủ tự do của toàn dân, nên đảng Cộng Sản Việt Nam không dám ngoan cố trắng trợn như những năm 1991 về trước và đã âm thầm cho phép nới lỏng yêu cầu học môn chủ nghĩa Marx-Lênin, vô hình trung không còn coi môn học này là môn học có tính quyết định số phận tốt nghiệp của sinh viên nữa.

          Cho đến nay, giáo trình "chủ nghĩa Marx-Lênin" cho các trường đại học đã được biên soạn lại nhiều lần, nhưng chưa có một giáo trình nào hoàn chỉnh. Đã có nhiều ý kiến cho rằng : Bộ Đại Học và Giáo Dục Chuyên Nghiệp nên bỏ môn học "chủ nghĩa Marx-Lênin", hay ít nhất chỉ xem đó là một môn học bình thường và học hay không là quyền chọn lựa của sinh viên (?). Vẫn chưa thấy ban Khoa Giáo Trung Ương Đảng trả lời dứt khoát (?).

          4.-  THỰC TR[1]NG CỦA NỀN Đ[1]I HỌC VIT NAM TRONG TIẾN TRÌNH CẢI CÁCH
                HIN NAY.

          Ông Bộ Trưởng Đại Học Trần Hồng Quân luôn luôn lên tiếng về chương trình cải cách nền đại học của chế độ Cộng Sản Việt Nam trong mấy năm qua, nhưng thực tế thì không tiến triển bao nhiêu. Theo các quan chức của nền đại học Việt Nam thì MỘT TRONG LÝ DO QUAN TRỌNG LÀM CH

M SỰ ĐỔI MỚI CỦA NỀN GIÁO DỤC Đ[1]I HỌC LÀ
"KHÔNG CÓ NGÂN SÁCH". Ví dụ như : Theo tài liệu của Bộ Tài Chánh Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cho ta thấy ngân sách của Nhà Nước dành cho việc giáo dục đại học thật là quá ít, như năm 1993 chỉ có 85 triệu Mỹ kim (chiếm 15% trên tổng số ngân sách của toàn ngành giáo dục). Phần lớn số tiền đó dành để trả lương cho giáo chức và nhân viên phục vụ ở đại học. Vì vậy, chính phủ Cộng Sản chấp thuận cho Bộ Đại Học tiến hành trước tiên là CẢI TỔ TÀI CHÁNH như thu học phí đại học, cho phép mở đại học bán công, dân lập và tư thục; đồng thời phát triển nguồn thu tài chánh từ các hoạt động nghiên cứu khoa học và dịch vụ tư vấn. Nhưng trong thực tế từ năm 1991 đến năm 1995, trong tiến trình cải tổ đại học, việc cải tổ tài chánh không đạt được kết quả đáng kể, để bù đắp cho sự thiếu hụt trầm trọng của ngân sách giáo dục đại học. Ngược lại, đã tạo ra sự cạnh tranh kiếm tiền giữa các trường đại học, làm giảm sút chất lượng giảng dạy và gây nhiều mâu thuẫn, cũng như tệ đoan tham nhũng trong các kỳ thi tuyển vào đại học
(ý kiến của Tiến Sĩ Nguyễn Thiện Tống, giáo sư đại học của chế độ Cộng Sản Việt Nam).
Và, theo các nhà nghiên cứu giáo dục đại học thì LÝ DO CHÍNH LÀM CHO CÔNG CUỘC CẢI CÁCH Đ[1]I HỌC TIẾN TRIỂN CH

M CH[1]P LÀ DO SC Ỳ CỦA THẾ LỰC BẢO THỦ TRONG HÀNG NGŨ LÃNH Đ[1]O ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC. Họ tuy đã chấp nhận về mặt lý thuyết rằng : "Phải cải cách nền đại học để đáp ứng kịp thời những nhu cầu về trí thức và đào tạo một xã hội giao lưu và mở cửa ra bên ngoài, nên phải chấp nhận quy luật cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường, đào thải không nhân nhượng đối với mọi cá nhân đã và đang tụt hậu trước trào lưu tiến hóa  của một xã hội văn minh và tiến bộ"
(xem Thông tri về "Cải cách nền đại học", 1992, phần "Lý do phải cải cách nền đại học").
Họ cũng thừa nhận rằng : "Trong một thời gian dài hệ đại học Việt Nam được xây dựng và đào tạo trí thức mới theo kế hoạch Nhà Nước. Đại học tách rời với nghiên cứu, và tách rời nhu cầu tiến lên của xã hội, lại càng tách rời với sự tiến bộ không ngừng của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang tiến hành trên hầu khắp thế giới văn minh" (tài liệu đã dẫn). Tài liệu điều tra của liên ngành Lao Động - Thương Binh - Xã Hội với liên hiệp các hội Khoa Học Kỹ Thuật thành phố HCM thì trong số hơn 10,000 kỹ sư, cử nhân, bác sĩ ra trường trong niên khóa 1994-1995 của nước cho thấy 70% "trí thức mới chưa đủ trình độ thích ứng với những đòi hỏi của một nền kinh tế thị trường". Theo như sự than phiền của nhiều giáo sư đang giảng dạy trong chế độ của Cộng Sản Việt Nam thì "Các giáo sư đánh giá và cho điểm các luận văn tốt nghiệp (chớ không phải luận án !) chỉ đồng nghĩa với việc 'trả xong nợ sách đèn'. Nghĩa là các luận văn tốt nghiệp chỉ là sự luyện tập cho sinh viên về phương diện nghiên cứu chuyên đề khoa học. Thực tế, nó chẳng đóng góp gì  cho khoa học và đời sống của xã hội". Và theo ông Nguyễn Văn Giao, chuyên viên cao cấp của văn phòng chính phủ Cộng Sản Việt Nam khẳng định : "Nhà Nước không ổn định được mức độ chất lượng đào tạo, và cũng không có khả năng đảm bảo chất lượng, nhất là trong lãnh vực nghiên cứu khoa học". Thực tế này đến năm nào mới khắc phục ?
Sự cải cách nền đại học đang "bước những bước như rùa bò, trong khi nhu cầu điều hành, quản lý một nền kinh tế thị trường thì chạy với tốc độ cấp số nhân" !

          Chúng ta biết thời đại hiện nay là thời đại của hỏa tiễn và điện tử, đòi hỏi những nhà trí thức, những chuyên gia phải có khả năng thích nghi với tiến bộ của khoa học, kỹ thuật hiện đại thật mau chóng, phải có khả năng sáng tạo không ngừng mới được hữu dụng. Thời đại hôm nay đòi hỏi những người có trình độ đại học không được phép dừng lại ở những gì đã học được trong nhà trường, mà phải đòi hỏi đổi nghề nhiều lần trong nghề lao động trí óc của một chuyên gia. Ngày nay, với đà văn minh mới, việc tổ chức hợp lý hóa lao động lấy máy móc làm yếu tố quyết định của Taylor đã lỗi thời. Với kỹ thuật hiện đại, chất lượng tri thức về khoa học kỹ thuật của con người là nhân tố hàng đầu trong việc tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, và tạo hiệu năng cho toàn bộ nền kinh tế của quốc gia. Vì vậy, nhiệm vụ chính của nền đại học là đào tạo những trí thức mới thích ứng không những cho hôm nay mà cho cả ngày mai, cho những thời buổi đột biến mà chưa ai đoán chắc được ! Nền đại học Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam liệu có làm nỗi nhiệm vụ đó hay không, khi thế giới bước vào thế kỷ thứ 21, một thế kỷ có nhiều đột biến bất ngờ (?).

          Vì như trên đã có đề cập, số lượng giáo chức của đại học Việt Nam hiện nay rất đông, nhưng lại thiếu những giáo sư có đủ trình độ để giảng dạy ở đại học theo yêu cầu mới. Theo tài liệu thống kê của Bộ Đại Học Cộng Sản Việt Nam năm 1994-1995 cho thấy : Số giáo chức đại học có bằng cấp trên đại học (Phó Tiến Sĩ, Tiến Sĩ) ở các viện đại học lớn (Hà Nội và Thành phố HCM) chỉ chiếm hơn 30% trong tổng số giáo chức đại học cả nước. Trong khi đó, ở các nước như Mỹ, Anh, Pháp hay Nhật, Úc v..v...giáo sư đại học đều phải có cấp bằng Tiến Sĩ. Đó là chưa kể bằng cấp Phó Tiến Sĩ, Tiến Sĩ ở Việt Nam còn nhiều điểm yếu hơn bằng cấp quốc tế. Tình trạng này đã tạo nên một dư luận phổ biến trong giới tuyển dụng "trí thức mới" rằng : " Đ[1]I HỌC VIT NAM CHỈ SẢN XUẤT HÀNG GIẢ (!?). Và mỉa mai thay, " NGƯỜI CHƯA TỐT NGHIP Đ[1]I HỌC CŨNG ĐI CHIÊU SINH CAO HỌC. Không thể nào tưởng tượng được trường phổ thông cũng đứng ra thông cáo mở Cao học" ( Theo Tiến Sĩ Đào Công Tiến, giám đốc trường Đại Học Kinh Tế thành phố HCM ).

          Việc mời một số giáo sư người Việt nước ngoài, hay một số giáo sư người Pháp, người Mỹ  vào dạy một số môn ở các đại học Việt Nam chỉ là một việc làm có tính cách "tô son điểm phấn" cho chính sách cải cách đại học của Cộng Sản Việt Nam. Thật sự, nó chẳng mang một ý nghĩa chuyển mình nào về mặt chất lượng giáo dục đại học.

                                                                      *
                                                                   *     *

          Muốn cải cách nền đại học cho có kết quả tốt trong tình hình hiện nay của Việt Nam Cộng Sản là vấn đề rất khó khăn. Vấn đề chính không phải là khó khăn về mặt ngân sách, mà ĐIỀU KHÓ KHĂN NHẤT LÀ QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NHÀ LÃNH Đ[1]O TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIT NAM. Họ có chịu từ bỏ  chính sách giai cấp trong việc đào tạo các chuyên gia hay không ? Họ có chịu để cho nền giáo dục đại học được mở rộng, tự do phát triển như nền giáo dục đại học ở các nước Âu Mỹ hay không ?

          Việt Nam không thiếu mầm non nhân tài, có thể khẳng định là không thua kém bất cứ dân tộc nào trên trái đất này. Điều này đã được chứng minh hùng hồn qua sự thành công của tuổi trẻ Việt Nam ở Hải Ngoại trong hai thập niên qua ( 1975-1995 ). Thế nhưng ngày nay nền giáo dục Việt Nam tụt hậu hơn vài chục năm so với các nước láng giềng
Châu Á. Thử hỏi trách nhiệm lỗi lầm này thuộc về ai ?

          Để thay lời kết luận, chúng tôi xin trích đăng lại lời than vãn của ông Trần Hồng Quân, đương kim Bộ Trưởng Đại Học của Cộng Sản Việt Nam, rằng : " Nếu chúng ta đào tạo chất lượng kém thì số lượng càng lớn càng lãng phí mà thôi. Chúng ta làm HÀNG GIẢ
thì có tội với xã hội và người học. Có tội ở đây là HÀNG GIẢ gây ra tai hại cho xã hội, nhưng đồng thời HÀNG GIẢ chiếm mất chỗ lẽ ra phải có của HÀNG TH

T để thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội to lớn" ( Theo bài " Chất lượng giáo dục đồng thời ", báo
Tuổi Trẻ, 27-11-94 ) ./.
                                                                                                 Lê  Tùng  Minh

No comments: