Sunday, September 9, 2012

HỒ TRƯỜNG AN * ĐẶNG PHÙNG QUÂN

BẢY SẮC CẦU VỒNG
BẢY NHÁNH SÔNG 

Hồ Trường An
Đặng Phùng Quân với Miền Thượng Uyển Xưa
và Một Dặm Tương Thân




Khi tôi ngỏ ý muốn đề cập tới một số truyện ngắn trong hai tập truyện Miền Thựợng
Uyển Xưa (chung với các truyện ngắn của Nguyễn văn Sâm) và Một Dặm Tương Thân
(chung với các truyện ngắn của Hàn Song Tường) thì Đặng Phùng Quân có gửi thư cho tôi
biết một cách khái quát hành trình và hành trạng văn chương của anh trong hai tác phẩm
ấy như sau:
Miền Thượng Uyển Xưa:
Mưa núi là truyện ngắn đầu tiên viết năm 1975 - bẵng một thời gian năm năm không
sáng tác vì hoàn cảnh thời thế - viết tại đảo Galang. Tôi gọi nó là văn chương thời thế - ở
vào giai đoạn nhà văn không là một hiện tượng riêng lẻ nhưng là một tập thể, viết để
khôi phục một khí hậu văn chương đã mất, một ngôn ngữ đang băng hoại.
Trong Tiểu thuyết khả hữu, tôi giải thích: trong những đoản thiên tiểu thuyết, tôi
chuyển từ nhân vật tôi sang chàng/ nàng không phải như những nhân xưng trong tiểu
thuyết quy ước, mà là sự xóa bỏ cấp độ nhân xưng, vô danh trong nghệ thuật tha hóa.
Trong nỗi nhớ của một ngày, Một dặm tương thân hành trạng của nhân vật ở cùng
một lịch sử, đối nghịch với nhân vật Mưa núi, Ở một phương trời xa như hai mặt thực tại.
Đọc những đoản thiên tiểu thuyết trong Miền thượng uyển xưa theo một mạch nhất
quán. Những thế giới của chàng đang chập chờn đan lẫn vào nhau... những tâm cảm
rung động dạt dào của tự do mới đến... hạnh phúc khi nghĩ đến một người, có một người
để nghĩ đến... đó không phải là thiên đường, mà một miền hạnh phúc nào đó trong một
đời chỉ bắt gặp một lần nhưng sẽ nhọc nhằn nhớ mãi không nguôi... bao nhiêu năm, tìm
kiếm một cái gì thất lạc. Nhưng không sao nhớ ra được... như một khung cảnh rất xưa
trong đời. Nàng lái xe theo con lộ mới mở ngang qua cầu, trời vẫn còn mưa sớm, nàng
dừng xe lại bên lề, đi xuống phía bờ sông, ngồi trên kè đá nhìn giòng nước chảy lững lờ,
bất giác nàng đưa hai tay bưng lấy mặt như muốn ôm lấy cái hạnh phúc vừa bắt gặp...
tiếng gọi thôi thúc trở lại chốn cũ, như tìm lại một giòng sông trong cuộc đời.
Một Dặm Tương Thân:
Một dặm tương thân khởi đầu từ: Thuở nàng còn là một thiếu nữ mới lớn, tuổi của
con nàng bây giờ... xác định một thuyết thoại ở thời hiện tại, song nhân vật sống hay
chết như trong truyện kể vẫn còn mơ hồ. Không thể xác định cảnh trạng ở ngôi vị nào:
thật tội nghiệp nếu nàng biết cuộc gặp gỡ ấy chẳng phải tình cờ trong ba phân cảnh
chính, hai phân cảnh đầu về nàng và nàng không hiện hữu ở phân cảnh cuối. Gián cách
của cảnh trạng và liên tục của thuyết thoại.
Người đàn bà ở Ch. Ha là một tiểu thuyết lịch sử, nếu hiểu lịch sử là một ý thức.
Hình ảnh những cánh tay giơ cao theo ngọn cờ độc lập, tự do chập chờn dưới màn khói tử
thi xương trắng la liệt khắp nơi. Lịch sử như thế đó.
Dung nhan và Tìm kiếm một người nào là những tiểu thuyết phá thể viết trong khí
hậu '' tiểu thuyết mới'' và kết thúc ở Dung nhan và Tìm kiếm một người nào là những
tiểu thuyết phá thể viết trong khí hậu '' tiểu thuyết mới'' và kết thúc ở Đêm lạ là một câu
văn duy nhất viết một mạch, tưởng chừng nhưng không/ thời gian chỉ là một ý niệm, là
một, là không. Đêm lạ là một câu văn duy nhất viết một mạch, tưởng chừng nhưng
không/ thời gian chỉ là một ý niệm, là một, là không.
Mạch sáng tác của Đặng Phùng Quân ngừng lại vào năm 1987. Phải đợi tới năm
1997, anh trở lại với độc giả qua cuốn Tự Truyện. Dù trải qua 10 năm, anh sáng tác ít oi,
nhưng s ự nghiệp văn chương của anh (thành quả sáng tác cộng với công trình biên
khảo) vẫn là một tòa kiến trúc nguy nga trong văn giới.
Miền Thượng Uyển Xüa gồm có 8 truyện ngắn của Đặng Phùng Quân : Müa Núi, Thư
Nhà, Trong Nỗi Nhớ Của Một Ngày, Bên Trời Lăn Đận, Ở Một Phương Trời Xa, Miền
Thượng Uyển Xüa, Cơn Bão Lạ, Sau Cuộc Hội Nghị.
Một Dặm Tương Thân gồm có 6 truyện ngắn của Đặng Phùng Quân : Một Dặm Tương
Thân, Người Đàn Bà Ở Ch. Ha, Dung Nhan, Tìm Kiếm Một Người Nào, Tưởng, Tưởng Nhớ
và Đêm Lạ.
Đọc sách của Đặng Phùng Quân (biên khảo, tiểu luận, truyện ngắn, ngay cả thơ nữa)
chúng ta phải vận dụng trí óc để tìm kiếm những dấu vết của thần trí sáng tạo, những sợi
đan sợi dệt của tinh thần canh tân mà tác giả hằng đeo đuổi. Tác giả phủ nhận điều nầy,
nhắm tới để tiền pháo hậu xung những điều kia. Hành trạng cách viết của anh rất ít nhà
văn dám động tới. Tuy nhiên giọng điệu anh không hung hăng, sự tấn công của anh
không rền nổ, công trình kiến trúc cái mới của anh rất bình thản. Nhưng đó là những đợt
sóng ngầm dưới đáy vực sâu, những cơn đ?a chấn nằm im dưới tầng sâu vạn trượng của
quả địa cầu.
Trong công cuộc tìm hiểu và thưởng ngoạn văn chương anh, độc giả phải vật lộn với
hành trình của chữ nghĩa cùng cách diễn tả của anh. Và nhờ thiện chí lẫn kiên nhẫn, họ
sẽ tìm ra nhiều điều lý thú. Công việc đó đã từng có Nguyễn Nghiệp Nhượng, Huỳnh Phan
Anh làm cuộc văn chương song hành cùng anh. Anh không lẻ loi. Anh ung dung tiến bước
trên lộ trình sáng tác lẫn biên khảo của mình suốt một phần ba thế kỷ.
Từ lâu, cái thói quen cố hữu của người đàn ông sống một mình là ưa xê dịch, ngay cả
cái đoạn đường đi về mỗi ngày cũng thay đổi lộ trình. Dường như chàng không muốn
nhìn lại những dấu hiệu chỉ đường quen thuộc điều khiển. Cũng không nơi ở cố định.
Phòng trọ đơn chiếc, không trẻ con, không nuôi thú.Những ngọn đèn tù mù lối vào hành
lang cư xá thăm thẳm, tĩnh mịch như một tu viện. Chàng đã giam kín cả những tình cảm
sôi sục một thời. Bất ngờ, cơn mê xưa thức giấc. tại sao nàng. Chàng vẫn nghĩ người đàn
bà ấy đã yên phận ở một khung trời êm ả, trên miền đất xa lạ này.Cuộc sống hẳn cuốn
hút con người phải hội nhập, bằng lòng với những tập tục mới, bận rộn, máy móc.
Có những đêm chàng lái xe lên đồi cao, ngồi ngoài trời lộng gió uống rượu và ngó
mông xuống vùng không gian bao la, lối chảy ra biển, lối đưa vào nội địa, ngắm hút say
mê những giòng ánh sáng ngoằn ngoèo di động xa xa của đoàn xe chạy xuôi ngược,
tưởng tượng những linh hồn trong cái xã hội lạnh lẽo này cũng như những ngọn đèn ấy đi
mãi không bao giờ gặp nhau. Thuở nhỏ, chàng hay tỉ mỉ quan sát những đoàn kiến leo
tường, châu đầu vào nhau rồi lại tiếp tục bỏ đi không biết về nơi hang ổ nào. Trong cái
kiến trúc trật tự đều đặn ấy, chàng cảm như thấy cái buồn nản của đời người. Những
ngày đầu đến định cư ờ thành phố ồn ào này, chàng cũng lặng lẽ ẩn thân để ngắm nhìn
thiên hạ. Cảnh sống vẽ ra phía trước ngăn nắp, nhưng khoắng lên cái hốt hoảng trong
tâm hồn chàng. Liệu mình có cưỡng lại được guồng máy để kịp gìn giữ cái tự do quay trở
về. Chàng nhớ, một người bạn trẻ cũng có cái phản ứng tự nhiên như vậy. Hắn muốn di
chuyển mãi, với những đồng bạc cuối cùng đủ mua một cái vé xe, một mẩu bánh kẹp và
(may mắn) cuốn sổ điện thoại ghi những nơi vô định sắp tới. Cái mù loà chập choạng ở
phía trước chỉ phản ảnh lại cái quá khứ chập chùng, nặng chĩu những đam mê, thân yêu
vàng ngọc. Bởi thế, đến nơi ở mới của chàng vẫn nhớ một hình ảnh yêu dấu ấy hiện diện
nhưng chàng vẫn ương ngạnh nhốt kín trong kỷ niệm.
(Miền Thượng Uyển Xưa, các trang 145, 146)
Đa số độc giả đọc sơ sài các tác phẩm văn chương của Đặng Phùng Quân vội đổ hô
anh làm văn chương như một ông Tây, ông Mỹ với tư tưởng ngoại lai bắt nguồn từ những
trường phái triết học Tây Phương. Họ lầm! Bé cái l?m vì đều võ đoán một cách bất công.
Những thắc mắc siêu hình, những thôi thúc của tri thức đã tạo cho nhân vật của anh
trong truyện ngắn Một Dặm Tương Thân nầy một chiều hướng lao tới Phật giáo nói riêng,
lao tới tư tưởng và triết học Đông Phương Á Châu nói chung. Cho nên trong đoạn chót
của lá thư mà tác giả gửi cho tôi, tôi rất tâm đắc với anh qua những dòng như sau: Dung
nhan và Tìm kiếm một người nào là những tiểu thuyết phá thể viết trong khí hậu '' tiểu
thuyết mới'' và kết thúc ở Đêm lạ là một câu văn duy nhất viết một mạch, tưởng chừng
nhưng không/ thời gian chỉ là một ý niệm, là một, là không. Đêm lạ là một câu văn duy
nhất viết một mạch, tưởng chừng nhưng không/ thời gian chỉ là một ý niệm, là một, là
không.
Trong giáo lý của kinh điển Đại Thừa tất cả vạn pháp đều là Không, tất cả đều quy về
Một. Không gian và thời gian chỉ là huyễn hoặc, chỉ hiện hữu do mê vọng của chúng sinh.
Ở nhận định nầy, Đặng Phùng Quân chứng tỏ anh nắm bắt khá nhiều tinh thần then chốt
của Phật giáo, của Lão giáo và ngay cả cái then chốt giáo của phái Soufisme (của Hồi
giáo) là chối bỏ cái tinh thần nhị nguyên. Lại nữa, những giáo chủ tư tưởng Đông Phương
như ông Thích Ca, ông Lão tử, ông Trang tử hay một vài đạo sư các tôn giáo, các giáo
phái hay các hệ phái bên Ấn Độ rất kỵ sách vở từ chương. Đối với họ, những nét tạo
hình, những hình ảnh biểu kiến, những gì năm giác quan chúng ta tiếp xúc, những ý nghĩ
(ý niệm, tư tưởng) mà các học giả uyên bác đưa vào sách vở, thật ra chỉ đưa chúng ta
vào một thế giới vô thường quen thuộc. Đó là cảnh giới mộng ảo của người mê vọng,
đoạn lìa với cái thực tại tuyệt đối tức là cái thực tại thường hằng và bất biến. Trong khi
đó, chân lý (còn cái tên sự thật tuyệt đối, sự thật cuối cùng) thì lọt ra khỏi cái thế giới
quen thuộc đó. Ở đây, Đặng Phùng Quân lại cho rằng không gian và thời gian chỉ là ý
niệm. Nếu là ý niệm thì không phải là sự thật tuyệt đối, một thực thể thường hằng. Chỉ
bởi cái mê vọng của chúng ta nên sự thật bị cắt chia từng manh mún, cho nên thời gian
cũng bị phân chia thành ba giai đoạn gồm quá khứ, hiện tại và vị lai. Cũng thế, không
gian cũng bị cắt rời thành chỗ này, chỗ kia, chỗ khác. Đối với nguời chứng ngộ thì bản
thể của vạn pháp vốn là không (cái không tuyệt đối, chứ không phải cái không đối
nghịch với cái có) thì làm gì còn vướng víu thêm ý niệm? Làm gì có sự thời gian và
không gian để bị chia chẻ? Chúng ta có thể tự hỏi: Đành rằng nhà văn Đặng Phùng Quân
tiêm nhiễm triết học Tây phương nhiều hơn triết học Đông phương Á Châu, nhưng vì sao
anh đã đi vào một hành trình khá sâu của tư tưởng Phật giáo qua truyện Đêm Lạ? Có
phải Phật pháp là cái chìa khóa passe partout đã từng mở mọi ổ khóa, luôn cả những ổ
khóa rắc rối? Hay đây là trường hợp những tư tưởng lớn gặp nhau? Dù tác giả còn cho
rằng thời gian và không gian chỉ là một ý niệm; nhưng anh đã đưa hai yếu tố ấy đạt tới
cái gọi là một là không thì đã đến gần tư tưỏng nhà Phật rồi.
Trong truyện ngắn Đêm Lạ, Đặng Phùng Quân một mạch bằng một câu văn duy nhất
làm tôi nghĩ đến các họa gia theo pháp môn Thiền bên Nhật Bản. Họ chỉ vẽ một mạch
bằng một nét duy nhất để làm hiển lộ tinh thần bất nhị (le non-deux, le non-dualisme),
cái cốt tủy của kinh điển Đại Thừa. Và bút giả cũng không quên bốn câu thơ thấm nhuần
Thiền phong Thiền vị trong bài thơ bất hủ của Thiền Sư Chân Nguyên (1846- 1726) như
sau:
Hữu thuyết giai thành báng
Vô ngôn diệc bất dung
Vị Quân thống nhất tuyến
Nhật xuất lĩnh đông hồng
Họa gia kiêm văn gia Võ Đình dịch như sau ( trong quyển Hương Thiền) :
Nói ra là bị kẹt
K hông nói cũng chẳng xong
Vì anh đưa một nét
Đầu núi ánh dương hồng.


Chỉ một nét vạch ra mà tâm thức của Thiền sư sáng bừng trong vòng một sát-na để
đi vào đốn ngộ. Một nét vạch ấy tức là một hành động quyết liệt do một trực giác thù
thắng và tuyệt vời hướng dẫn để Thiền giả đưa vạn hữu và vạn pháp quy về một mối.
Truyện ngắn Đêm Lạ gồm 8 trang trong hai phân đoạn, mỗi phân đoạn chỉ có dấu
phẩy (,), không có dấu chấm (.), kkông có dấu chấm hỏi (?) và cũng không có dấu chấm
than (!). Cuối phân đoạn đầu lại có nhiều chấm (...) ở chữ chót.


 Để làm sáng tỏ lối viết
theo tôn chỉ mà tác giả dã nêu ra, tôi xin trích ra một vài dòng trong phân đoạn chót:
Chàng không nhớ rõ ra khỏi khu phố chợ, đi trên con đưòng nhỏ trồng những rặng
cây găng san sát như hàng dậu ngăn cách những căn nhà thấp thoáng ánh đèn phía sau,
tiếng giầy chạm lên những viên đá nhỏ, mùi dạ lan quyện trong không trung đưa chàng
phiêu bồng vào một cõi xa lạ, lần đầu trong đời chàng cảm thấy hơi thở của thiên nhiên
chạm vào da thịt, khứu giác như mở ngỏ đón nhận huơng đêm, phân biệt mùi lá cỏ, khí
trời sắc bén đến độ tế vi, chàng nhận ra thân xác cũng nhẹ nhỏm, như thể một phần nào
đang mờ nhạt trong bóng tối, có thể lý trí vẫn linh hoạt, tiếng nhủ thầm của người nói
chuyện một mình, hay phần não b? cựa quậy, bước chân đi mộng du vào cảnh trí mời
gọi, đêm ngăn trở tầm thị giác, nhưng đêm mở rộng những chiều kích thực tại, chàng
quên hẳn phương hướng, dường như một ngọn đèn lẩn khuất đâu đó, cũng là dấu mốc,
tai nghe như muôn điệu âm thanh đang chìm dần mất hút vào hư vô, có lúc một điệu
nhạc dìu dặt vọng ra từ căn nhà nào đó khuất trong những lùm cây kia, điệu nhạc không
rõ lời chắc hẳn phát xuất từ đài bá âm thành phố, ý nghĩ lại miên man - khoảng cách của
đời sống, thu gọn trong một khoảnh khắc, những ảnh tượng nơi trí nhớ có phải ký ức
thực sự, chàng không rõ, bỗng dưng khuôn mặt người đàn ông cận thị vừa gặp ban chiều
ở văn phòng nhà trường lại hiện ra, liệu ông ta có gia đình chưa, tại sao ông lại chỉ chàng
đến một nơi tạm trú chàng không hề được giới thiệu, chàng cũng quên bẳng hỏi tên
người học trò đó, khuôn mặt ông như đã quen thuộc trong cuộc đời, và lúc này chàng
nghĩ, ông ta có còn nhớ đến chàng, nên quay trở lại tìm kiếm ông, hẳn ông đang đợi
chàng ở một điểm hẹn, ông ta thử thách chàng, lối đi trước mặt có thể dẫn đến ngôi
trường - chàng nhớ lại, ông ta nói ở đây không an ninh vì gần cơ sở đồn trú quân sự,
thỉnh thoảng xảy ra những đợt pháo kích, ông ta có dọa nạt chàng, bóng đêm thị trấn
thật hiền hòa, vùng đất đặt chân lên như chao xuống một thung lũng dấu kín hình thể,
rồi trong màn đen một vệt sáng từ từ tiến về phía chàng, tiếng máy nổ lớn dần, những
người lính ngồi thu mình trên chiếc xe tuần tiễu, ánh đèn quét một vòng qua mặt chàng
nhưng không ai lên tiếng hỏi, ánh sáng lại lui dần vào phía sau lưng, dấu tích tao loạn
đánh thức chàng trở lại vùng kỷ niệm thất lạc đã lâu, hình ảnh người đàn bà thoát khỏi
đời chàng, cơn mộng mị triền miên rơi vào khoảng trống, nỗi mất mát đau đớn, khiến
chàng ăn năn để nàng ra đi, cơn sốt toàn thân trở lại lúc này...
(Đêm Lạ, các trang 188, 189)

Tôi tạm dùng nhiều chấm (...) sau chữ này để tạm ngưng phân đoạn chót của Đêm
Lạ. Cách viết tuy có luông tuồng, nhưng nhờ những dấu phẩy (,) phân câu nên đọc tới
đâu chúng ta hiểu tới đó. Chúng ta không cần mằn mò để hiểu từng chi tiết nhỏ. Chúng
ta chỉ biết nhân vật chàng đứng trong bóng đêm của vùng bất an ninh, đầu óc suy nghĩ
lung tung, kỷ niệm từng đợt lao xao như cánh bướm đậu trên dòng suy tư triền miên của
chàng. Cái thơ mộng (hương dạ lan, điệu nhạc) xen lẫn những dấu tích tao loạn qua cuộc
tuần tiễu trộn vào nhau, tạo cho đoạn văn trên cái đẹp bi thương qua hình ảnh cô Trà
Hoa Nữ mang bệnh lao phổi, qua hình ảnh thảm cỏ mượt nhung ngụy trang mìn bẫy, hố
chông.

Không kiên nhẫn, không tìm ra thú đọc sách đặc thù, chúng ta sẽ cảm thấy văn
chương Đặng Phùng Quân phiền nhiễu, rối rắm. Nắm bắt được hai đức tánh khi đọc sách
như đã nói trên đây, chúng ta sẽ tìm gặp văn chương anh có một cái hậu vị ngọt đằm
thắm của miếng cơm nhạt nhẽo nhai lâu trong miệng, như bắt gặp nước gỗ của bộ ván
nằm lâu năm bóng ngời lên vóc lụa.


Tôi không dám bảo rằng mình hiểu khá nhiều đường lối và cái vũ trụ văn chương
của Đặng Phùng Quân. Cũng thời một vận sự mà tác giả nêu ra, tôi hiểu theo chiêu cảm
của tôi, người khác hiểu theo chiêu cảm của người khác. Ở đâu đó, tôi bắt gặp một câu
của nhà văn Albert Camus; hình như trong cuốn Những Nhà Văn Nữ Việt Nam của Uyên
Thao thì phải; tôi hoàn toàn không đồng ý với nhà văn nước Pháp đã từng đoạt giải Nobel
kia. Rằng: En écoutant ces appréciations sur mon livre, un sentiment singulier me vient:
ce n'est pas cela! (nghe những lời nhận định về quyển sách của tôi, một cảm giác lạ lùng
đến tôi: nào phải vậy!). Bởi sao? Đọc loại văn chương sâu sắc, độc giả chỉ có thể có một
vài cảm nhận tương đồng với những gì trên mặt chữ mà tác giả đã viết ra. Nhưng sau
lưng mặt chữ, hay dưới tầng lớp sâu kín của mặt chữ, mỗi người có một chiêu cảm riêng,
một khai phóng và óc tưởng tượng riêng. Tóm lại thế giới trong loại văn chương mới
không chỉ ở những điều mà tác giả đã viết ra mà còn ở những điều do độc giả liên tưởng
và mường tượng nữa. Đem vấn đề thưởng ngoạn qua câu chữ đâu nghĩa đó trong văn
chương mới, tôi e rằng đọc sách như vậy không nắm bắt được gì nhiều ở vũ trụ văn
chương của tác giả.
Tác giả đã cho chúng ta biết rằng: Mưa núi là truyện ngắn đầu tiên viết năm 1975 -
bẵng một  thời gian năm năm không sáng tác vì hoàn cảnh thời thế - viết tại đảo Galang.
Tôi gọi nó là văn chương thời thế - ở vào giai đoạn nhà văn không là một hiện tượng
riêng lẻ nhưng là một tập thể, viết để khôi phục một khí hậu văn chương đã mất, một
ngôn ngữ đang băng hoại. Trong truyện nầy, tác giả kể chuyện chàng đã vượt biên và
hiện đang ở đảo, gặp nàng (một kẻ vượt biên như chàng). Cả hai rằng buộc bởi một tình
cảm mù mờ, có thể là tình yêu, có thể là đồng cảnh tương lân. Mối tình đó như một vệt
sương mỏng hay một bóng mây nhẹ lướt qua thế giới tình cảm của họ nhưng cũng đủ
làm say mê và thấm thía cho độc giả nào có tâm hồn lãng mạn. Tuy nhiên điểm chính
câu chuyện là con người đi tìm điểm tựa cho tình cảm và điểm tựa cho tinh thần để tạm
khỏi đối diện với cô đơn. Truyện thứ hai là truyện Thư Nhà kể lại chuyến vượt biên gian
khổ của chàng cùng đứa con trai khi họ luồn lách theo đuờng bộ qua ngả Căm-bốt. Và
xen vào đó là những đoạn bức thư của vợ chàng kể lể nỗi nhớ nhung ở quê nhà và vụ
mất chiếc xe đạp, cả một tài sản của kẻ sống nhục nhằn dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa.
Trong truyện Trong Nỗi Nhớ Của Một Ngày, độc giả bắt gặp chàng (một kẻ theo Cộng
Sản và thoát ly Cộng Sản) từ trại tị nạn đi máy bay đến phi trường El Paso để gặp gỡ
nàng. Và có thể để chung sống với nàng luôn hay trong một thời hạn nào đó.
Nếu sắp thứ tự thì Sau Cuộc Hội Nghị phải xuất hiện đầu tiên, kế đó là Thư Nhà,
Mưa Núi, Trong Nỗi Nhớ của Một Ngày. Có thế, biến cố của lịch sử đời chàng mới xuôi
một dòng luân lưu theo dòng thời gian. Các truyện ngắn của Đặng Phùng Quân trong tập
truyện Miền Thượng Uyển Xưa rốt cuộc chỉ là ba chương trong một quyển tiểu thuyết.
Còn những truyện ngắn như Bên Trời Lận Đận, Ở Một Phương Trời Xa, Miền Thượng Uyển
Xưa, Cơn Bão Hạ, nếu chúng ta sắp kế tiếp theo 4 truyện ngắn vừa nêu trên, nhưng phải
theo dấu mốc của thời gian thì sẽ làm cho truyện dài thêm dài hơn, xuôi theo một đường
thẳng mạch lạc. Cái nhất quán trong văn chương của Đặng Phùng Quân là đó.
Theo tác giả: Trong Tiểu thuyết khả hữu, trong những đoản thiên tiểu thuyết, tôi
chuyển từ nhân vật tôi sang chàng/ nàng không phải như những nhân xưng trong tiểu
thuyết quy ước, mà là sự xóa bỏ cấp độ nhân xưng, vô danh trong nghệ thuật tha hóa.
Đây không phải là công việc làm mới mẻ. Ở vài truyện ngắn của các nhà văn thời
thượng như Nguyễn thị Hoàng, Nguyễn Đình Toàn, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Nghiệp
Nhượng, ngay cả nhà luôn văn áp dụng bút pháp cổ điển như Võ Phiến qua một vài bài
tùy bút trong hai quyển Phù Thế và Ảo Ảnh cũng đã làm công việc nầy. Vâng, công việc
đó xóa bỏ cấp độ danh xưng, không tôi, không anh, không chúng tôi, không các anh,
không bọn họ... Nhưng lại kẹt ở ngôi thứ ba trong cấp độ nhân xưng (nàng/ chàng hoặc
nó, hắn, y ta, y thị, ả, đương sự...). Nhưng đây là bước đầu của sự phủ nhận mà ngành
văn nghệ mới thường chủ trương và xiểng dương, tức là xóa bỏ quy ước trong cách xưng
hô mà loại văn chương cổ điển, văn chương quy ước thường áp dụng. Nhân vật trở thành
vô danh, ai nghĩ sao cũng được. Và vì đó là nhân vật vô danh nên hắn có hình dáng, chân
dung, thân thế, hành trạng bập bềnh trong sương khói mông lung của cõi mường tượng
và cõi ấn tượng của độc giả. Nó là nhân vật đơn thuần tức là có thật trong cuộc đời (le
vrai personnage) hay là nhân vật hư cấu tức là nhân vật giả tưởng (le personnage
fictif), điều đó không quan hệ. Có quan hệ chăng là nó làm cho thế giới tuởng tượng của
độc giả thêm mênh mông, lưu lượng ý tưởng của họ thêm dồi dào và lênh láng như con
sông mùa tuyết tan băng rã. Vậy thì có phải nhờ vô danh, nhân vật có thể là người này,
người nọ hay người khác trong cái mà tác giả gọi là nghệ thuật tha hóa? Và trong một
bức thư Đặng Phùng Quân bảo tôi rằng nghệ thuật trong cái thế giới tha hóa là nghệ
thuật trong cái thế giới điên loạn (le monde aliéné/ le monde cassé). Có thể chăng đây là
một manh nha, một khởi thủy của phong trào phủ nhận nhân vật? Đúng ra, tác giả chỉ
phủ nhận cái tên của nhân vật chứ chưa phủ nhận chủng loại hoặc sự hiện hữu của nhân
vật. Lâu lắm rồi, tôi có đọc một đoạn văn trong quyển L'Ère du Soupçon của bà Nathalie
Sarraute do học giả Nguyễn văn Trung dịch ra tiếng Việt. Eo ơi, bà ta tả một sinh vật
người không ra người, con bạch tuột không ra con bạch tuột, tôi không hiểu bà ta muốn
xếp sinh vật ấy vào chủng loại nào? Đây là quái vật đúng hơn sinh vật. Nhưng có người
bảo đó là máu, là phún xuất thạch (tức là magma) Và tôi tự hỏi bà ta có chủ ý chủ tâm
làm cái gọi là phủ nhận nhân vật hay không?
Nhưng dù gì thì dù, đọc văn của Đặng Phùng Quân độc giả không chú ý lắm nhân vật
chàng và nàng lắm đâu. Họ chỉ để tâm trí theo dấu chân ngôn ngữ và ý tình cùng nhân
sinh quan và đôi khi tư tưởng triết học của tác giả hơn.
Trong Sau Cuộc Hội Nghị, tác gi ả trình bày thân phận các nhà trí thức miền Nam
sau khi bị Cộng quân miền Bắc cưỡng chiếm. Họ phải l?ng nghe và cỗ vỏ một cuốn sách
của tên Viện trưởng viết theo chỉ thị của Đảng:
Không có báo cáo khoa học nào được đọc trong hội nghị.Viên thư ký đưa ra một bản
đúc kết theo một quan điểm nhất định, phù hợp với đường lối và tình hình hiện tại. Người
ta tin rằng có những ẩn ý trong các báo cáo, nên tốt hơn hết là không nên đọc trước diễn
đàn. Viện trưởng mở đầu cuộc thảo luận. Hắn nhấn mạnh, đây là một hội nghị chuyên
môn trong nội bộ, các đồng chí cứ mạnh dạn phát biểu mọi suy nghĩ. Một người ngồi bên
cạnh, ghé tai chàng thì thầm. Cậu biết không, cái tên ở ngoài nớ vừa trình làng cuốn sách
do Viện xuất bản đã đi gặp mấy tên 30 để đi bỏ nhỏ anh em là đừng đem sách của y ra
chỉ trích. Y viết theo yêu cầu vấn đề chuyên môn của anh em mình nên biết trước là nói
mò nhiều lắm. Nhưng làm thế nào hơn. Sức hiểu biết hạn chế. Quyển sách của y – chàng
hiểu - chỉ là một loại đơn đặt hàng. một sản phẩm phải qua những giai đoạn kiểm tra về
tính đảng, có lồng vào được trong đó những trích dẫn của lãnh đạo không.
Vấn đề đang xoay quanh thảo luận về những điểm tích cực. Một người ở góc bàn bên
kia đang bênh vực quan điểm tích cực. Y phát biểu, điều đó đã giúp y giác ngộ con đường
đấu tranh. Giọng nói chứa sự bực tức. Chàng thoáng hiểu, có một giai đoạn y được chức
thứ trưởng trong cái chính phủ lâm thời đã bị khai tử. Bây giờ là dịp con chim hót lần cuối
cùng. Hót phản kháng với một cường điệu yếu ớt, uất hờn. Chàng liên tưởng đến bên kia
trời Âu, những trí thức khuynh tả đang tỉnh mộng. Trong một tờ báo lọt về, chàng đọc
thấy cuộc vận động Một con tàu cho Việt nam, dấu hiệu đầu tiên của sự thức tỉnh. Điều
đó có liên hệ gì với hội nghị hôm nay. Rà lại đám trí thức cũ ở đây. Hay chỉ để hoàn tất
một công tác đã đề xuất trong kế hoạch, cán bộ Viện đã lĩnh tiền công tác phí ra vào
trong Nam. Cái vòng đã vẽ sẵn, tri thức đã chết. Không thể có tri thức, tất cả những gì
khác chỉ là chủ nghĩa xét lại. Những khuôn mặt chìm dần trong ánh sáng vàng vọt của
căn phòng hội.
Tội nghiệp thân phận trí thức. Những hình ảnh khốn khổ. Khuôn mặt xương xẩu của
viên Viện trưởng Ngoại văn nói trước đám cử tọa trí thức khi nhắc đến giai đoạn đấu tố,
chính ông bố của y cũng bị đem ra tố khổ. Trong thoáng giây mau đó, y khựng lại như để
nuốt trôi cục nghẹn ở cổ họng. Khuôn mặt điểm râu tóc bạc phơ của nhà sử học già nua
bùi ngùi nhắc lại quãng đời Nhân Văn, như một kẻ đào ngũ không được giảng dạy phải về
ngồi nghiên cứu, trong một hội nghị hôm nào. Hình ảnh kẻ chấp bút viết ba ngàn trang
bản thảo cho lãnh tụ cũng chỉ là một thứ công cụ. Khi quyền lực độc chiếm cả tiếng nói
văn hóa. Văn hóa cũng cạn tuyệt, như cái chết tức tưởi của một người đồng nghiệp dưới
lưỡi búa khảo cổ mới đây, trả lại cái nghiệp chưa trọn.
(Thư Nhà, các trang 42, 43)
Tuy nhiên những đoạn trong ba truyện ngắn đó tuy sống thực và tuy rất suspens,
nhưng chỉ tạo cho tác giả trở thành một nhà văn tả chân già dặn, một nhà văn thời thế
tuyệt vời. Nhưng đó không phải là điều mà tác giả mong mỏi. Có lẽ đa số độc giả sẽ tâm
đắc với tác giả qua câu chuyện văn hóa và thân phận văn nghệ sĩ dưới chế dộ Xã Hội Chủ
Nghĩa trong truyện ngắn Sau Cuộc Hội Nghị. Vì sao? Đa số các nhà văn hải ngoại chỉ
thích trình bày thảm cảnh những lớp quần chúng ở các lãnh vực gần gũi với bậc trung lưu
từ cấp thấp trở xuống. Và hình như chưa có tác giả nào khai thác nỗi nhục nhằn của giới
trí thức, giới làm văn hóa dưới ch ế độ Cộng Sản cả.
Những nét đặc thù trong văn chương Đặng Phùng Quân là anh tạo cho văn chương
thời thế của mình những nhân vật chính đều có cái thế giới ưu tư riêng lẻ. Ưu t ư bám sát
họ không rời, họ thắc mắc, họ nhìn ngoại cảnh và xã hội chung quanh, họ nhìn sâu vào
nội giới của mình. Nói rõ hơn, họ suy nghĩ về cá nhân, về gia đình, về tổ quốc, về các
biến động trên dòng sinh mệnh của đồng bào, trên những chặng lộ trình cam go tiếp nối
của lịch sử v.v... Họ lại còn suy nghĩ về phận người, thắc mắc những vấn đề siêu hình,
những trái cựa của tâm cảm và nội giới cùng những cái nghịch lý và phi lý của cuộc đời.
Cho nên chẳng có nhân vật nào được hạnh phúc cả.
những lúc ngồi vớ nhau ở bờ giếng, ánh trăng phản chiếu xuống mặt nước, trên
cao đồi sắn chạy dài thầm thầm trong đêm tối, ngăn cách với bên này qua những vòng
rào kẽm gai, nàng lại nhớ.
Những ngày công tác ở nông trường. Nghĩ lại thật buồn cười. Thi đua vun sới cho bo
bo lên cao, trổ bông. Rốt cuộc cũng hoang phí như tuổi trẻ. Nông trường thí iđểm đầu
tiên của thành phố, dựng lên trên ruộng đất của nông dân vùng kháng chiến. Những kẻ
lặn lội trong các hầm địa đạo, ngây ngất với danh xưng đất thép thành đồng và một giấc
mơ nho nhỏ, ngày nào thành công sẽ được cầy trên mảnh ruộng nhỏ bé của mình. Để rồi
ngày thắng lợi, chỉ ăn những cái bánh vẽ khẩu hiệu với chủ nghĩa, lại đấu tranh bằng bạo
lực. Dùng súng bắn máy cầy. Tội nghiệp cho những đồng đội của nàng, cũng ngây ngất
tiêm nhiễm liều ma túy phả bằng mớ kinh kệ lao động đổ mồ hôi sức lực, hóa thân làm
nô lệ cho một trận tuyến chính sách, kế hoạch mà bên trong là sự xung độtthầm lặng
nhơ bẩn giữa hai đám Bắc, Nam.
Nàng tâm sự, ngày đầu tụi em còn mang ảo tưởng là mình đang đi xây dựngnhững
kibbutz như kiểu Do Thái lập quốc. Đưa ý nghĩ đó ra bị kiểm thảo gay gắt. Rồi tự an ủi
với nhau, phải học tập để biến đổi cái thói quen thành thị tư sản. Phải biến xanh thành
chuyên hồng. Xa thành phố cả năm trời, không chứng kiến những cảnh đổi đời quái đản
đang diễn ra trên đất nước. Lớp cầm quyền mới thống trị trên sắt máu bạo lực, cũng đê
hèn nô lệ ngoại bang, cũng tham nhũng thối nát như bọn cầm quyền trước kia. Điều uất
ức của tuổi trẻ là sự dối trá lại được vẽ vời bằng những lý tưởng hoang đường mà chính
kẻ đứng trên bục giảngcũng đang tự biết nói những điều lừa người, lừa mình. Cho đến khi
nông trường hoàn toàn thất bại, cả về thu hoạch lẫn ý nghĩa. Viên giám đốc bị hạ tầng
công tác, bao nhiêu công lao trí vận ngày xưa đổi lấy một sự hy sinh của một con cờ trên
mặt trận chính trị. Ngày trở về thành phố, em tưởng như một người rừng. Không phải
gặp cái không khí xa hoa thành thị, nhưng tại tinh thần mình lạc hậu trước một quang
cảnh xã hội điêu tàn ngoài trí tưởng tượng của
mình...
(Bên Trời Lận Đận, các trang 91, 92)
Nói thế, không phải các nhân vật chàng luôn sống trong dằn dặt đau thương không
nguôi đâu. Thỉnh thoảng họ cũng bắt gặp một mảnh vụn hay bóng dáng hạnh phúc.
Nhưng theo tác giả thì: Những thế giới của chàng đang chập chờn đan lẫn vào nhau...
những tâm cảm rung động dạt dào của tự do mới đến... hạnh phúc khi nghĩ đến một
người, có một người để nghĩ đến... đó không phải là thiên đường, mà một miền hạnh
phúc nào đó trong một đời chỉ bắt gặp một lần nhưng sẽ nhọc nhằn nhớ mãi không
nguôi... bao nhiêu năm, tìm kiếm một cái gì thất lạc. Nhưng không sao nhớ ra được...
như một khung cảnh rất xưa trong đời. Như thế, dù chàng nầy vượt biên thành công, dù
chàng kia khi ở đảo có một mối tình, dù chàng khác nữa sớm được sang Hoa Kỳ định cư,
dù chàng thứ 5 hay thứ 6, thứ 7 khác nữa tìm gặp lại vài cố nhân mà họ đã từng gắn bó
tình cảm thiết tha, nhưng chưa chắc độc giả tin rằng có chàng nào được hạnh phúc.
Hạnh phúc hiện lên cuộc đời họ trong một thời hạn nào đó qua bóng dáng, qua mảnh
vụn. Bóng dáng thì có bao giờ mà được trường tồn hay vĩnh cửu? Còn mảnh vụn chỉ là
một phần cái có thật, chứ không thể là một sự thật nguyên vẹn. Ưu tư làm các chàng
thống khổ, dĩ vãng trên cố hương làm các chàng bị dằn dặt không nguôi. Làm sao họ tìm
gặp một thiên đường giữa cơn xáo trộn của lịch sử, trong cái lạc lõng bơ vơ dù đã tìm gặp
đất nước tự do để dung thân?
Tác giả đã cho tôi biết: Trong nỗi nhớ của một ngày, Một dặm tương thân hành trạng
của nhân vật ở cùng một lịch sử, đối nghịch với nhân vật Mưa núi, Ở một phương trời xa
như hai mặt thực tại.
Nhân vật chàng ở Trong Nỗi Nhớ Của Một Ngày và nhân vật chàng trong Một Dặm
Tuơng Thân thuộc thành phần bên kia giới tuyến của chủ nghĩa Quốc Gia. Còn nhân vật
chàng trong Mưa Núi thuộc người Quốc Gia vượt biên tìm tự do và nhân vật chàng trong
Ở Một Phương Trời Xa là người Quốc Gia du học ở Hoa Kỳ rồi trở về nước và kẹt luôn sau
bức màn tre khi miền Nam lọt vào tay Cộng Sản. Các chàng đều trưởng thành trong cuộc
nội chiến, đều tham dự vào các cuộc biến động lịch sử dù ở bên này hay bên kia. Khuynh
hướng chính trị, nhân sinh quan, thời điểm xuất hiện của họ trong văn chương của Đặng
Phùng Quân tuy có khác, nhưng các điểm chung của họ là cùng trong một giai đoạn lịch
sử, cùng là mẫu người ưa phân tích mọi vấn đề, luôn luơn quay mòng bởi những vấn nạn
của thời cuộc hay những vấn đề thuộc về siêu hình (như tự do tinh thần bị tước đoạt, như
sự tìm kiếm cái hạnh phúc đích thực, như sự phản kháng trước những giả trá lừa lọc của
chủ nghĩa...).
Thế giới dưới mắt chàng, là một con đường hầm hun hút. Bạo hành phục kích
cùng khắp.Trong đêm tối, chúng ta đi tìm nhau. Hay đi tìm ngõ thoát. Từ cái cuộc sống
êm ả này, con người đang thiêm thiếp trong một khoang xe đầy hơi ngạt. Quờ quạng như
kẻ mộng du. Chuyến tàu vẫn chạy, vẫn mải miết lao vào bão lửa. Cơn hồng thủy mấp mé
trên những quãng đường chúng ta đi qua. Hình ảnh ấy hiện ra trong trí tưởng, từ lúc
chàng trở lại hoạt động. Có phải, nơi tâm thức mỗi con người chúng ta, nỗi bất ổn thao
thức ấy thúc giục chúng ta không thể bỏ cuộc. Niềm ấm áp như một thoáng gió nam
mát rợi trong lòng, chàng nghĩ, ở một nơi nào đó, nàng và người bạn đời của nàng cũng
đang có mặt. Trên trận tuyến mới. Những cuộc biểu tình. Phản kháng. Vận động. Thuyết
phục. Những sợi mắt xích đang kết hợp thành dàn công sự sắt thép. Khởi đầu của sức
mạnh. Chỉ có sức mạnh mới chống lại được bạo ngược. Từ độ đó, nàng không viết thêm
gì nữa. Sinh hoạt như triều biển dâng đã tạo thành những thnôg báo thay cho cánh thư.
Còn gần gũi hơn. Bởi vì, khoảng xa của ngàn trùng cách biệt chẳng còn ý nghĩa. Chúng
ta đang thấy nhau ở tuyến đầu. Dầu ánh sáng chưa hiện ra ở cuối chân trời mù mịt. Dầu
chúng ta đang thắp từng ngọn lửa nhỏ. Dầu lối đi vẫn là sạn đạo gian truân. Dầu một
ngày, như những chiến sĩ tiền phong khác trong vòng vây thù nghịch, cảnh dầu sôi lửa
bỏng, người bạn đời của nàng cũng biệt tích nơi rừng già giăng đầy cạm bẫy của kẻ
thù....
(Ở Một Phương Trời Xa, trang 124)
Trước khi sang qua quyển Một Dặm Tuơng Thân, chúng ta hãy cùng đọc những gì tác
giả Đặng Phùng Quân viết cho bút giả về nội dung các truyện ngắn của anh trong tác
phẩm nầy:
Một dặm tương thân khởi đầu từ: Thuở nàng còn là một thiếu nữ mới lớn, tuổi của
con nàng bây giờ... xác định một thuyết thoại ở thời hiện tại, song nhân vật sống hay
chết như trong truyện kể vẫn còn mơ hồ. Không thể xác định cảnh trạng ở ngôi vị nào:
thật tội nghiệp nếu nàng biết cuộc gặp gỡ ấy chẳng phải tình cờ trong ba phân cảnh
chính, hai phân cảnh đầu về nàng và nàng không hiện hữu ở phân cảnh cuối. Gián cách
của cảnh trạng và liên tục của thuyết thoại.
Người đàn bà ở Ch. Ha là một tiểu thuyết lịch sử, nếu hiểu lịch sử là một ý thức.
Hình ảnh những cánh tay giơ cao theo ngọn cờ độc lập, tự do chập chờn dưới màn khói tử
thi xương trắng la liệt khắp nơi. Lịch sử như thế đó.
Dung nhan và Tìm kiếm một người nào là những tiểu thuyết phá thể viết trong khí
hậu '' tiểu thuyết mới'' và kết thúc ở Dung nhan và Tìm kiếm một người nào là những
tiểu thuyết phá thể viết trong khí hậu '' tiểu thuyết mới'' và kết thúc ở Đêm lạ là một câu
văn duy nhất viết một mạch, tưởng chừng nhưng không/ thời gian chỉ là một ý niệm, là
một, là không. Đêm lạ là một câu văn duy nhất viết một mạch, tưởng chừng nhưng
không/ thời gian chỉ là một ý niệm, là một, là không.
Tôi đã đề cập ít nhiều tới Đêm Lạ ở phần trên. Truyện ngắn nầy được coi như phần
kết thúc của ba truyện ngắn phá thể: Dung Nhan, Tìm Kiếm Một Nguời Nào và Đêm Lạ.
Tiếp theo đây, tôi chỉ cần nói qua 5 truyện ngắn của Đặng Phùng Quân trong tác
phẩm Một Dặm Tương Thân. Đó là: truyện ngắn cùng tựa với tập truyện cùng Người Đàn
Bà Ở Ch. Ha, Dung Nhan, Tìm Kiếm Một Người Nào, cùng Tưởng,Tưởng Nhớ và Đêm Lạ.
Người Đàn Bà Ở Ch. Ha được tác giả xem như một tiểu thuyết lịch sử nếu hiểu lịch
sử như một ý thức. Đây là câu chuyện chàng và đứa con trai vượt biên bằng đường bộ
qua ngả đất Chùa Tháp. Trên lộ trình, chàng gặp nhiều người tốt như người dẫn đư?ng,
người chủ nhà ở thị trấn địa đầu và người đàn bà ở Ch. Ha. Đây là người đàn bà Miên
thuộc thành phần trí thức, lấy chồng Việt nhưng anh ta sống trên đất Miên từ nhỏ. Chồng
du học bên Pháp, rồi trở về Nam Vang làm công chức cao cấp bên phe Quốc Gia. Còn
nàng theo Khờ-me đỏ. Sau khi Khờ-me đỏ cưỡng chiếm Cao Miên, chồng nàng bay ra
ngoại quốc. Còn nàng ở lại để làm nhân chứng cuộc tàn sát diệt chủng cũa lũ Miên Cộng.
Hãy kể cho em nghe cuộc sống của anh trong suốt quãng đường đời đã qua, hình
dung một người đến từ miền xa lạ, mang theo những thăng trầm hằn dấu trên mái tóc
điểm sương, những nét nhăn của khuôn mặt, khóe mắt còn mệt mỏi. Ánh sáng đã lu mờ
theo ngọn bấc lụi dần không đủ soi vòng tay trong nhau, hội ngộ tình cờ từ thuở nào.
Chàng không kịp nghĩ đến tại bóng tối đồng lõa, hay niềm thân mật của con người đồng
tình trong cảnh huống lận đận đã thấy nơi nhau chia sẽ nỗi an ủi ở một tâ trạng khốn khó
bên vực thẳm thời thế. Chàng vẫn là người khách lạ. Không chỉ trong đêm nay. Khi chào
đời, đã không được quyền chọn lựa nơi sinh trưởng, lớn lên trong cảnh đất nước qua
phân, xuất thân ở một gia đình nghèo nhưng cha mẹ cũng cố gắng lo cho học hành tốt,
hấp thụ nền giáo dục phương Tây như nàng, cũng nếp sống, nếp nghĩ lạc lõng trước khi
thức tỉnh tìm thấy lại những gì thân quen quên lãng. Những biến cố triền miên của xứ sở
nội chiến khiến tâm thức nghiêng ngửa trước những ngả đường đối lập. Bạn bè, sách vở
quanh ta, thôi thúc, dằn vặt, thách đố. Cũng như nàng, thế giới chung quanh thật lạ mặt
với chàng hơn vùng trời xa xôi. Trước ngày lên đường, chàng còn xao xuyến khi dấn thân
vào nơi đất nghịch. Lúc vượt ngang trạm biên phòng, ghe dừng lại những bến nước đìu
hiu, ngước nhìn qua khe liếp thấy con dốc xoai xoải lên phía đồi cao hoang vắng, cây
cành xum xuê, khung cảnh tự nhiên gợi lại trong lòng quê hương đã mất, tâm hồn bâng
khuâng như muốn níu kéo lại sợi tơ trời mong manh của khoảnh khắc tư lương chùng
chình, cả giây phút vượt qua tường thành nhà ga lọt vào trong khuôn viên để đáp chuyến
xe lửa lên miền Bắc, nhìn những người Miên lam lũ đang vội vã chạy ngược xuôi tìm một
chỗ đứng trong khoang, hay xô đẩy nhau leo lên nóc xe, cái hình ảnh đám đông hỗn độn
trong buổi sớm chen chúc nhau ấy - giữa những tiếng súng bắn chỉ thiên dọa nạt của lính
canh ngoài cổng - gợi lên trong lòng chàng nỗi ưu uất cảm hoài về thân phận dân tộc bị
áp bức đời đời kiếp kiếp ở vùng trời khốn khó này. Nơi đâu, con người cũng quằn quại
dưới bạo lực. Chàng liên tưởng đến những dinh thự rợp bóng cờ và biểu ngữ, những bức
chân dung lãnh tụ đồ sộ diễu cợt đám quần chúng cùng khổ. Hình ảnh những cánh tay
giơ cao theo ngọn cờ độc lập, tự do chập chờn dưới màn khói tử thi xương trắng la liệt
khắp nơi.
(Người Đà Bà Ở Ch. Ha, các trang 91, 92)
Một chàng trí thức Việt Nam khước từ một đất nước bị khống chế tự do, một người
thiếu phụ Miên cũng thuộc thành phần trí thức lại còn là mẫu người lý tưởng, nhưng bị
chủ nghĩa Cộng Sản gạt gẫm; cả hai gặp nhau để cùng hàn huyên tâm sự về chủ nghĩa,
về tình người. Họ nhìn về cái ánh sáng tự do chiếu lộng lẫy trên các đất nước Tây Âu để
rồi thông cảm nhau, để chàng Việt Nam khi từ giã nàng và tiếp nối tiếp lộ trình vượt biên
sẽ nhớ mãi tới nàng mà không cần biết tên nàng. Chàng chỉ biết nơi nàng ẩn cư là Ch. Ha
để có một kỷ niệm tuyệt vời, để thỉnh thoảng gợi nó ra và để cho tâm hồn phì nhiêu tình
ý.
….. Sau chiến thắng, cuộc hồng thủy thanh trừng nội bộ, những kẻ điên loạn diễn tập
chính sách cai trị kỳ dị (phân biệt dân mới - cũ, lập công xã và những nhà tù tàn sát tập
thể kiểu Tuol Sleng...) Chàng vẫn còn thấy vẻ kinh hoàng của những người sống sót sau
cơn khủng cụ trên mỗi nét mặt người dọc đường. Chàng hỏi, lúc bấy giờ nàng ở đâu? Cha
mẹ mất tích trong đám đông bị lưu đày vào vùng công xã xa xôi nào đó. Lại một lần nữa,
nàng rời bỏ thành phố trốn lên miệt biên giới, tận mắt thấy những đống xương trắng vô
định, thoát khỏi những cuộc loạn dâm tập thể, những đồng chí đã cùng chia sẻ một thời
gian khổ giờ đây trở thành vệ binh đỏ cuồng tín. Nỗi đau rã rời của kẻ mất trí. Nàng
mong mỏi cuộc đổi thay - niềm hy vọng mơ hồ của kẻ bất lực. Đôi lúc, tâm thần giao
động kinh hoàng vì ngờ vực phản bội, nàng tự hỏi, còn ai muốn sống trong cuộc tự sát
dân tộc này.....
.....
(Người Đàn Bà ? Ch. Ha, trang 94)
Cuộc vượt biên bằng đuờng bộ trong truyện ngắn Người Đàn Bà Ở Ch. Ha kéo dài
trên 6 trang, phản ảnh rất sống thực cuộc vượt biên của tác giả. Nó nằm trong lịch sử
của cuộc đời tác giả. Tác giả có thể thuyết phục độc giả tin rằng đây là câu chuyện có
thật 99% một cách trơn tru, dễ dàng. Nhưng từ lúc người đàn bà Miên xuất hiện thì hiệu
quả của sự thuyết phục yếu dần vì ai biết được chỗ nào hư cấu, chỗ nào có thực? Nếu
trong hàng ngũ độc giả có 50% người tin tưởng cũng là quý lắm rồi. Do đó, đây là một
chuyện dã sử đúng hơn nếu nói theo bản chất. Dã sử thì dựa vào những chi tiết, những
biến cố, những phân đoạn của lịch sử để tác giả dựng lên một câu truyện hư cấu giả
tuởng. Nhưng nếu tác giả dùng ý thức để xem Người Đàn Bà Ở Ch. Ha thành một câu
truyện lịch sử thì đây là một biến cố trong lịch sử của cuộc đời Đặng Phùng Quân đúng
hơn, chứ không phải là giai đoạn lịch sử của dân tộc Việt Nam hay lịch sử của 3 chủng tộc
Việt Miên Lào. Nhưng mà thôi, dù lịch sử hay dã sử gì gì đi nữa thì đây là một truyện
ngắn có tầm vóc nguy nga của một tòa kiến trúc bất hủ, gieo trong lòng độc giả một dư
âm lưu luyến thiết tha khó nguôi ngoai khi họ đọc xong. Và dù có bịa ở đoạn người đàn
bà Miên xuất hiện thì tác giả bịa rất khéo, y như là ghi chép một đoạn biến cố có xảy ra
thực sự. Văn chương vốn cần bịa khéo như thật chứ không cần ghi chép sự thật một cách
khô cứng và vụng về, có phải?
Dung Nhan là một truyện ngắn thật đặc thù. Nhân vật xưng tôi, trong một buổi sinh
hoạt của nhóm người trẻ tuổi có gặp một cô thiếu nữ. Độc giả không hiểu cái mức độ
quyến luyến họ như thế nào, nhưng nhân vật xưng tôi đặc biệt chú ý tới nàng khi ngắm
nàng nằm ngủ sau khi ăn cơm trưa. Rồi cả hai cùng về thành phố. Trước khi chia tay, cô
gái yêu cầu đuợc gặp lại đương sự. Nhân vật sau đó đến một khu tịch mạc gần trại cưa
để tìm nàng. Tác giả không nói rõ nhân vật xưng tôi đã vào trong ngôi nhà nàng hay
không, nhưng đương sự cho nguời dùng để đối thoại (gọi người ấy bằng bạn) biết nhà
nàng bày biện như thế nào. Bạn sẽ bắt gặp nàng tắm xong, nhưng chưa lau khô mình
mẩy mà đến bàn phấn chải tóc, soi gương và uống một ly rượu. Ở đoạn mô tả đó, nhân
vật xưng tôi cố tình vắng mặt để ngôi thứ hai (bạn) xuất hiện trên trang sách và quan
sát bên trong nhà nàng và dự khán cái sinh hoạt của nàng. Nhưng độc giả sẻ thắc mắc:
Cái bên trong ngôi nhà và sinh hoạt của nàng có phải đúng như sự thực mà nhân vật
xưng tôi mô tả cho bạn biết hay không? Hay đó chỉ là sản phẩm của óc tưởng tượng và
vẫn còn nằm trong dự phóng, trong cõi mường tượng sa đà của đương sự? Tác giả không
nói rõ. Anh muốn độc giả chúng ta nêu lên một nghi vấn. Người bạn dùng để đối thoại có
phải chăng là cái tôi dự phóng của nhân vật xưng tôi, chứ chưa hẳn là người có thật để
đương sự dùng làm kẻ đối thoại? Thế có nghĩa đó không phải là cái tôi đích thực mà là cái
tôi dùng để chứng kiến bên trong ngôi nhà và cái sinh hoạt của nữ chủ nhân do nhân vật
xưng tôi tưởng tượng ra. Đọc Dung Nhan, độc giả dễ bị chi phối bởi sự trà trộn giữa cái
thực và điều tưởng tượng trong thế giới dự phóng hay trong cõi mường tượng của nhân
vật xưng tôi. Và qua Dung Nhan, bút giả không hiểu đó có phải là loại văn chương phá
thể hay không? Vì rằng ở truyện nầy lằn mức hư thực bị xóa mờ. Do đó cái cấu trúc của
nó lạ lẫm, vượt loại văn chương quy ước bằng những nét sắc sảo.
Tìm Kiếm Một Người Nào là một câu truyện tình giữa anh chàng vừa thi hành xong
nghĩa vụ quân sự và trở về định cư trong thành phố và một người đàn bà lang bạt kỳ hồ
(une aventurière) từ ngoại quốc về thăm thành phố (có thể là thành phố Sài Gòn hay
một thị trấn nào trên miền Nam đất nước). Còn thời điểm thì sao? Tác giả cũng không
xác định giai đoạn nào trên dòng cuồng lưu của lịch sử. Dưới ngòi bút của Đ?ng Phùng
Quân thì tình yêu của họ mơ hồ quá, dù tác giả có gài vào trang áp chót (trang 142) ba
chữ nỗi đam mê. Nhưng ba tiếng ấy đó không gợi cho độc giả một ngọn lửa nóng bỏng
trên từng phân đoạn, trên từng dòng chữ như những mối tình say đắm của văn chương
thông thường. Cả hai hôn nhau trong rạp hát, cả hai đưa nhau đi ăn, đi bát phố, rồi làm
tình khi cả hai về nhà chàng. Chàng còn có đi tắm theo kiểu người Thổ Nhĩ Kỳ. Tới ngày
nàng phải lên đường để trở về với công viêc ở ngoại quốc thì nàng hủy bỏ chuyến bay.
Rồi cả hai mướn một biệt thự để sống chung nhau. Nhưng rồi cả hai phải chia tay nhau.
Cuộc chia tay cũng không được diễn tả, chỉ được nói qua quít một câu ngắn ngủn. Xin
đọc:
...... Như kỳ hạn sống chung của chúng tôi đã lần lữa kéo dài. Thói quen mới không thể
thiếu, nỗi thân mật riêng tư mỗi ngày nhắc lại vẫn như khám phá điều còn ẩn giấu, nàng
thường gỡ đôi kính của tôi « để nhìn sự vật cho bớt rõ » - khi hai thân xác gần bên nhau,
điếu thuốc lá đốt lên, đầu lửa đỏ cháy soi không gian tịch mịch - những người xa ở nơi
nào, bây giờ dường như nghe nói đến tựa hồ tuyệt âm hao, hay thảng thốt chia cách giữa
đôi biên giới không có hy vọng nào trùng phùng tái ngộ. Trong biệt thự, mà chúng tôi
tưởng chừng như xa cách với thế giới người từ lâu lắm. Bạn hữu đã bỏ đi cả. Những lá
thư lười biếng hồi âm cũng bặt dần. Thành phố ở thật xa. Nỗi đam mê ngày càng làm trí
nhớ quên dần. sự thích thú tăng dần lên với lòng bồn chồ, chúng tôi càng nóng nẩy.
Nàng đã nhận được những thủ tục làm xong có thể lên đường đi Âu Châu nhận việc mới,
ngày khởi hành còn không bao lâu nhưng nàng vẫn ương ngạnh chờ đợi sự chia ly bất
ngờ. Dịp kia đã x ẩy đến khi tôi nhận được lệnh gọi đi thụ huấn. Chúng tôi đã lên đường
cùng ngày.
(Tìm Kiếm Một Người Nào, trang 142)
Cuộc tình và diễn biến được thuyết thoại nhiều hơn là mô tả. Nhưng xen vào những
dòng kể lể là những câu nổi bật những đường nét tạo hình rất sống thực, rất sắc sảo cứa
mạnh vào ấn tượng độc giả. Đây là một truyện ngắn đắm chìm trong cái không khí uể
oải, với động tác chậm chạp và buồn bã của nhân vật làm bút giả liên tưởng tới những
séquences trong các cuốn phim Ý như Le Bel Antonio của Mauro Bologhini (1960) hay
phim Huit Et Demi của Federico Fellini.
Theo tôi, Tưởng, Tuởng Nhớ không phải là một truyện ngắn mà là một tùy bút có
nhiều đoạn rất thơ mộng. Đây là một bài tác giả gửi gấm tâm tình của mình vào công
việc viết văn. Công việc đó theo thiển ý của tôi, gồm có hai yếu tố chính là thần trí sáng
tạo (esprit de création) và cảm hứng (les inspirations).
Từ bấy lâu nay, bút giả có cái định kiến như sau: Muốn khích động hai yếu tố đó, mỗi
nhà văn có một thái độ riêng: có kẻ cuồng nhiệt coi văn chương như một tôn giáo, có kẻ
hành xử một cách hung hăng như theo kiểu bạo dâm (lesadisme), có kẻ khổ hạnh, có kẻ
lâng lâng thống khoái như kẻ làm cuộc hành hương tận ngôi thiền tự trên đỉnh núi v.v...
Đâu đó, tôi bắt gặp hai câu tuyên ngôn của nhà văn Huỳnh Phan Anh: Viết là đâm nổ
mặt trời/ Viết là thách thức thần linh. Những hành trạng cá biệt của kẻ cầm bút, tôi
không dám phê phán. Nhưng tôi biết chắc rằng muốn thắp sáng thần trí sáng tạo, muốn
khơi dậy cảm hứng, nhà văn thuờng lôi kéo cuộc sống nội tâm lệch lạc qua một bên để
tìm những khe trống cho ngọn lửa thần bí soi sáng và khơi dậy hai yếu tố đã kể trên
đây. Một cuộc sống nội tâm ngăn nắp quá, lành lặn quá thì làm sao nứt nẻ ra những khe
trống?
Riêng nhà văn Đặng Phùng Quân thì hiền lành quá đỗi, có thể bảo là ngoan lành và
điềm đạm một cách dễ thương trong công việc viết lách. Vậy mà thần trí sáng tạo của
anh vẫn bừng tỏa, cảm hứng của anh vẫn tràn trề lênh láng. Anh chỉ cần tưởng và tưởng
nhớ là bắt gặp hai cái nhu cầu của mọi nhà văn.
... Chưa bao giờ chàng thấy đêm diệu kỳ như lúc này khi hai người tiếp tục lại câu
chuyện vừa đứt quãng, bởi một ý tưởng vừa lén động tới lúc họ cùng nhắc lại một kỷ
niệm, của vùng ký ức nào đó miên man theo ngày tháng, những quãng sống dày đặc
tưởng như gánh nặng của một đời, có phải, xe vẫn chạy, những tàng tích nào quá khứ
vừa quật khởi, những giai đoạn trầm mình trong đớn đau thử thách của thời thế, bạo
hành lộng khởi, quyền lực thấp hèn, tất cả rồi cũng qua như một trò đùa, bởi vì sau cùng
người chứng đã thoát ra bên ngoài, nhìn lại không thấy mình, không thấy người, chỉ thấy
những hoạt cảnh câm nín, không lời; có chăng, cái còn lại là những điều đã viết ra, viết
dường như không thể ngừng lại, viết như đi hoang vu vào cõi sa mù nào để tìm lời đồng
vọng, bỗng dưng chàng nói với bạn về những cảnh huống gặp nhau, về một nhà xuất bản
mang tên 68, thời điểm của một cuộc nổi dậy, về một người đàn bà Zdena ; viết như một
hẹn ước trùng phùng trên những hội điểm vô hình, viết trong một luân hồi vĩnh viễn đi
trên những sợi dây đu cao thế, viết để thấy nhịp đập của tim còn co thắt trước những tấn
áp chuyên chính, viết để gọi lại lời khấn đi trong đêm sao băng tàn khốc, viết nín cùng
hơi thở dồn dập của tình yêu chia cách, viết của một cái bắt tay bằng hữu từ miền Trung
Đông Âu mù ám, cũng hoạn nạn, cũng mịt mùng, viết cho nhau nghe những thống khổ
ngục tù, những kinh nghiệm xe tăng và đại bác xâm lược, viết lên tìm kiếm vòng quay
lịch sử tân dân chủ nhiễu nhương, viết cùng người, cùng ta, cùng thù nghịch, cùng đền
đài, lăng miếu xác hoa và da thịt, hóa thân trong một cuộc truy hoan vô tính, viết chừng
như bay lên cùng trời đất. Có những điều viết mười mấy năm vẫn còn ám ảnh, vẫn đi
tìm, như thể hành trạng một đời, viết trong khung hẹp của một thời, viết để mở ra cửa
ngõ sáng tạo.
(Tưởng, Tưởng Nhớ, các trang 163, 164)
Đặc sắc nhất trong các truyện ngắn của Đặng Phùng Quân trong tập truyện Một Dặm
Tương Thân là truyện ngắn cùng tựa.Trong truyện, nàng là một cô thiếu nữ có nếp sống
khép kín, phức tạp, dường như tiêm nhiễm cái triết lý khắc kỷ . Nàng bám chặt một ý
định, hay một lý tưởng và sống chết với nó cho tới cùng. Cho nên trong cuộc tình phất
phơ, ngô không ngô, khoai chẳng ra với chàng, nàng vẫn xem đó là một mối tình thiên
thu hiện hữu bởi một định mệnh oan nghiệt do nghiệp lực từ thời tiền kiếp nào đưa đẩy:
... Tuổi dậy thì, bằng hữu thủ thỉ cho nhau nghe những điều hiểu biết về một thế giới
bên ngoài, những chuyện tình lí thú, những tưởng tượng về một đối tượng khác phái,
thân xác đàn ông, những nụ hôn đầu vụng dại, những cảm xúc hiếu động, thăm thú
trong khung cảnh hẹn hò hoang sơ của tuổi trẻ. Nàng cũng tò mò lắng nghe những câu
chuyện gẫu của bạn bè. Hình ảnh người đàn ông qua hiện thân chàng lại tha thiết trong
cõi riêng nàng. Có lần một người bạn hỏi nàng đã biết yêu chưa, nàng chỉ mỉm cười
không trả lời. Nói thế nào về người yêu, nàng tưởng chừng như đã vĩnh viễn trao thân gửi
phận cho chàng. Điều bí mật ấy của riêng nàng. Ngày tháng qua, vết thương lòng như
dao cắt không lành tưởng chừng như tuổi đời đã già cỗi, tưởng chừng như người yêu
không còn trên thế gian này. Nàng thấy mình thật lớn, nhưng khờ dại. Có lần người bạn
gái mới quen ở năm cuối cùng bật Trung học nhất định đòi nàng nghe một chuyện thầm
kín. Nàng yêu người thầy học cũ, cuộc tình ấp ủ đã hai năm. Làm thế nào để người mình
yêu hiểu tâm sự, cô bạn hỏi. Nàng lại nhớ chàng, ý nghĩ thoáng đến trong tâm tưởng
nghi hoặc về chuyện của mình. Liệu chàng có thật yêu nàng hay nàng chỉ là một người
bạn nhỏ bé chưa bao giờ ghi khắc trong trái tim chàng. Nếu chàng yêu, dù khó khăn cách
trở chàng cũng phải tìm về nàng. Nhớ giây phút thân mật, chàng lại vùng bỏ trốn. Nàng
muốn ngỏ với bạn, nhưng nàng ngại những điều nói ra làm thương tổn hình ảnh chàng,
khiến nàng ngờ vực cuộc tình của mình. Người bạn gái quả quyết, nhất định sẽ chiếm
hữu hoài vọng của mình. Rồi một ngày mình phải được yêu, dầu có thế nào. Tình yêu chỉ
đến một lần, nàng chẳng biết chủ động. Và kỷ niệm như chìm sâu. Những giọt nước mắt
sầu muộn dưng dưng khi nàng ngồi thơ thẩn một mình trước những tập sách vở trên bàn
học. Nàng viết những ý nghĩ lần đầu trên một cuốn sổ nhỏ, tưởng chừng như để nói với
chàng, để chinh phục chàng (những ý nghĩ đến từ một vùng trời thân ái, thật táo bạo, khi
ngỏ cho chàng hiểu tâm hồn thơ đã dào dạt những say đắm đam mê ngày gặp gỡ, những
ý nghĩ thám hiểm cõi yêu mông lung đầy ác mộtng, những giận dữ nổi loạn đời, những
thoáng kỷ niệm trong căn nhà cũ, những nét phác họa dở dang một không gian suối hoa
mật ngọt nào của tương lai, song điều chân thật sâu kín nhất của nàng là niềm nhớ mãi
khi hai thân xác gần kề vẫn ám ảnh không rời, nàng nhớ chàng, nỗi nhớ của một người
tình chăn gối...)
(Một dặm Tương Thân, các trang 22, 23)
Còn chàng thì khác, ưa thay đổi, ưa nổi loạn phản kháng, không tìm được cho mình
một chỗ đứng, một lý tưởng thích nghi. Do đó mà chàng không hạnh phúc, chàng khổ sở
vì bị dằn co với những t? tưởng phức tạp, phiền toái. Cái hệ lụy ấy do chàng chủ trương,
chàng chính là nạn nhân của cái nghịch lý của đời sống mình, cái mâu thuẩn của nội tâm
mình.
...Thế giới của chàng. Không, nàng nghĩ, cái thế giới ấy phải của hai đứa, với một
biên cương ngăn cách với xã hội bên ngoài. Từ cái lối đi qua một phố chợ, những bức
tượng tôn giáo cao hơn người thật bày ngổn ngang bên lề đường của mấy tiệm tạc tượng,
khi mưa đầu mùa tới làm ngập lụt, nàng phải vén cao ống quần trắng, tay xách dép khi
tới căn nhà của chàng. Căn nhà lá phủ một lớp tôn trên mái, cửa nhìn ra bụi chuối bên
một con mương đầy lá xanh. Thế giới của chàng đó, những nét vẽ đầy khắp, trên vách,
trên hai cánh cửa, trên giá gỗ ở ngoài trời. Những mẫu phác họa vội vã, còn nguyên sơ
hình ảnh vừa bắt gặp, như những sợi tơ trời bay lượn trong không gian tinh khôi. Và bây
giờ, thêm sự hiện diện của nàng. Con người chàng, sự nổi loạn vô trật tự. (Tại sao anh
đang theo học Y khoa, lại bỏ ngang sang Văn Khoa. Rồi chưa đầy một năm, anh lại xin
vào Mỹ Thuật. Tai sao anh lại bỏ học. Những th ắc m ắc tìm hiểu về sự hoang đàng phá
phách đang diễn ra trong tâm hồn chàng)... Những kinh kệ - nói theo ngôn ngữ của
chàng - như ám ảnh chàng thường trực, ru chàng vào một vòng lưới hoài nghi khôn
cùng. Kiến thức đời không giữ gìn chàng yên phận. Chàng không muốn giam mình trong
bốn bức tường trắng bệnh viện, khi những vết đau da thịt không trầm trọng bằng cơn nội
thương xã hội - con người cá thể có nghĩa lý gì trong hạnh phúc toàn bộ đại thể đang
đắm chìm trong khổ nạn. Mà xã hội, viên thày thuốc không còn đủ thiên chức, khi mảnh
bằng chuyên môn được đánh giá bằng tiền bạc. Sách vở từ chương cũng chẳng tạo thêm
niềm tin cho thế giới trước mặt hiện tại. Học vẽ, không gian của thẩm mỹ như đưa nhãn
quan vào một cảnh giới khác, những tạo hình như đoạn lìa trước mặt. Trốn lánh thực tế
trước mặt có phải? Không, chàng đang đi tìm một chân trời tự do chưa hiện nét. Nàng với
trực giác linh khiếu nào đó, như thầm hiểu điều đó. Như tình yêu vừa chớm nở. Kể cả,
tính bướng bỉnh vô cùng của chàng. Trong cái guồng máy xã hội nhập nhằng, những
quán lệ bàn giấy giăng mắc, cuộc chiến tàn bạo đến đâu, chàng đã từ khước tuân hành,
kể cả một thủ tục đơn giản như khai báo bằng cấp....
(Một Dặm Tương Thân, các trang 14, 15)
Cuộc sống ở ngoài xã hội và cuộc sống nội tâm của cả hai (chàng và nàng) không
đơn giản. Cuộc sống ngoài cuộc đời của họ với những xã hội phồn tạp do một mãnh lực
huyền bí lôi kéo họ vào, nhận chìm họ, đọa đày họ. Nếu hiểu theo thuyết nhà Phật tâm
cảnh tương ưng thì đây là một thí dụ điển hình.
Tác giả kể mọi diễn biến ở thời hiện tại. Truyện có ba phân cảnh chính. Hai phân cảnh
đầu nói về nàng. Còn phân cảnh thứ ba nói về chàng. Tuy nhiên, ở phân cảnh một vẫn
có một đoạn nói cuộc gặp gỡ giữa chàng và nàng tại một quán sách: nàng nhờ chàng
dịch cho nàng nghe một đoạn trong tập thơ của Saint
John Perse. Và tác giả cũng có nói qua loa về thân thế, tánh nết, cuộc sống nội tâm cũng
hoài bão và nhân sinh quan của chàng, cái kỷ niệm ôm ấp yêu đương ngắn ngủi của cả
hai trước khi chàng bị bắt vì tội bất phục tùng nghĩa vụ quân sự. Nhưng ở phân cảnh nầy
chàng chưa xuất đầu lộ diện đâu.
Phân cảnh hai bị nàng chiếm trọn. Ở đây, độc giả biết được một vài đoạn đời của
nàng. Nàng lấy chồng do mẹ nàng sắp đặt. Nàng không yêu chồng, vẫn hoài hoài tuởng
nhớ tới chàng. Nỗi lòng nàng, những ý tưởng của nàng hướng về chàng được ghi trên tập
nhật ký bị bại lộ. Chồng nàng ghen và mới hiểu rõ tại sao cuộc chung sống lứa đôi củavợ
chồng mình không hạnh phúc. Cảnh đồng sàng dị mộng kéo dài không biết bao giờ mới
hết. Nàng bồng đứa con gái trở về sống với mẹ của nàng. Chồng nàng leo cao trên chiếc
thang danh vọng, càng quên vợ con. Riêng nàng, nàng vẫn tìm cách gặp chàng. Và rồi
cuộc tái ngộ cũng đến, nhưng chàng bị giam trong trại kỷ luật vì tội hành hung một viên
cố vấn Mỹ. Nàng chỉ biết đứng ngoài vòng rào nhìn chàng. Sau cùng, nàng trao cho
chàng quyển nhật ký của mình.
Phân đoạn ba là phân cảnh dành trọn vẹn cho chàng. Ở đoạn đầu, tác giả có nhắc
tới chút ít những sinh hoạt của chàng trước khi gặp nàng và yêu nàng. Chàng theo sinh
viên biểu tình chống M ỹ khi lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên Đà Nẳng. Có thể,
theo bút giả (chứ không phải tác giả) suy luận, chàng tiêm nhiễm nhận định ngây thơ về
chính trị và lòng nhân đạo mù quáng của lũ trí thức Tây Âu nên thấy quân đội Mỹ có cái
tinh thần kiêu căng và cái thói ưa giật dây dụi để điều khiển kẻ khác (la manipulation)
nên chàng gia nhập vào nhóm sinh viên phản chiến. Khi bị cưỡng bức nhập ngũ, chàng
càng thấy lính Mỹ đáng ghét hơn vì : Nơi bãi trận rộng lớn, chàng tận mắt thấy những
lính Mỹ biểu hiện tinh thần Yankee đối với dân bản xứ, đùa rỡn diễu cợt trên xác chết
(sic). Chàng hành hung với tên cố vấn Mỹ, rồi bị trọng cấm. Rồi chàng bỏ hàng ngũ Quốc
Gia theo người giao liên vào mật khu Cộng Sản và hoạt động cho họ. Trong gian lao khổ
ải, khi cận kề cái chết, chàng có quyển nhật ký của nàng bên mình. Chàng gặp một thiếu
nữ từ ngoài Bắc tình nguyên vào lực lượng thanh niên xung phong để chiến đấu trong
Nam. Thế là cả hai kết hôn nhau. Nhưng ở trong hàng ngũ Cộng Sản, chàng bỡ ngỡ và đi
đến thất vọng khi thấy:
.... Cuộc sống đôi lứa chẳng bình thường như thời hòa bình, mỗi người một phần vụ
công tác, có những lúc nàng ở hẳn bên đơn vị khác, họ cũng chẳng có thời giờ để nghĩ
đến nhau, nỗi nhớ của người tình chăn gối. Và tình thế gấp rút theo những biến động
chung trên toàn đất nước - từ cuộc chiến lan rộng những mật khu ven giới, tin tức về
những trận không chiến ác hiểm, những lực lượng chính quy từ miền Bắc tăng viện với
những đoàn cơ giới ngày đêm di động trên khắp nẻo đường mòn...Mật bầu không khí
khẩn trương dàn trải – ý nghĩa cuộc chiến toàn diện thay đổi hẳn. Vị thế của lực lượng địa
phương thu hẹp (từ thất bại của cuộc nổi dậy mùa Xuân, hàng ngũ tan tác, song các cấp
ủy vẫn gia sức tuyên huấn về sách lược trường kỳ tất thắng, đề cao hy sinh cho đại
cuộc). Chàng như bơi theo giòng lũ...Chung quanh chàng dần dần mất hút những bằng
hữu bám trụ, sống yêu thương từng hàng kinh, rạch, ruộng, đồng, sống cho một lý tưởng
đơn sơ giành lại quê hương khỏi áp bức bất công. Những đồng đội mới đến từ một xã hội
đã thiết lập ổn định, biểu lộ một thái độ bàn giấy lạ lùng. Đời sống không phải nằm trong
ý nghĩa chiến đấu, mà nằm trong sách lược nhất định của Đảng...Lần thứ hai trong đời,
chàng lại nhói lên trong tâm khảm cái bất ổn rã rời như khi lìa bỏ gia đình ra đi...
(Một Dặm Tương Thân, các trang 48, 49)
Rồi cuốn nhật ký của nàng bị thất lạc. Rồi vợ chàng sang Đông Âu du học. Khi miền
Nam lọt vào tay Cộng Sản, chàng theo toán người tiếp thu về thành phố.Chàng vẫn
mang sự bất mãn và tinh thần phản kháng trầm kha nên chàng bị giam giữ. Một người
bạn cũ làm an ninh cho tòa Đai Sứ nhận ra chàng, giúp chàng làm thủ tục định cư ở
nước thứ ba. Và rồi trên đất nước Hoa Kỳ chàng mường tượng lại khuôn mặt nàng và vẽ
lại chân dung nàng với cái tựa trích trong câu thơ của Perse: Un grand poème né de rien
. Thế là vào hôm triễn lãm, chàng gặp một cô thiếu nữ xưng là con gái của nàng sau khi
ngắm bức tranh. Cháu biết tên bác rồi. Ngưòi trong tranh là mẹ cháu (sic). Cô gái cho
biết r?ng mẹ cô trước khi lâm chung có yêu cầu ông ngoại bà ngoại cô giúp cô vượt biên.
Kết cuộc câu truyện được tác giả hạ bút như sau :
... Trong những ngày sau cùng, cô bé nói, mẹ cháu yếu đuối đến độ suy nhược. Mẹ
chỉ muốn đi thật xa, thoát khỏi cái thế giới đổ nát với những mảnh vụn tan tành của
khung kính vạn hoa đã vỡ. Mẹ muốn trốn chạy một đời sống giả trá. Một quá khứ chập
chùng. Moôt người đợi chờ trong tuyệt vọng. Lắng nghe con gái nàng tâm sự, những hình
ảnh dĩ vãng hiện về dấu tích mê lầm để lại nơi kẻ mộng du không trọn vẹn. Chiều xa dần
khoảng trùng dương bao la, cõi đất người thu hẹp lại tầm mắt. Chàng như tìm lại bản
thân, một hình thể khác đoạ đày. Cô đơn thống thiết, khi người thiếu nữ chia tay trở về
campus. Lại một cuộc trốn chạy những gì thân yêu nhất, chàng để lại bức họa chân dung
ấy cho con gái nàng, gửi lại tâm hồn mình lạc lõng rong chuyến lên đưòng.
(Một Dặm Tương Thân, các trang 58, 59)
Chúng ta có thể coi truyện ngắn Một Dặm Tương Thân như một truyện tình thời
chiến dựa trên một xâu chuỗi biến cố của lịch sử để dựng nên những bối cảnh lót nền cho
câu chuyện thêm màu sắc thời đại. Tác giả trong thâm tâm, anh
không cố tình viết truyện tình thời chiến như Nhã Ca trong Tình Ca Trong Lửa Đỏ hay
như Từ Tốc trong Tinh Tinh Nguyệt Lượng Thái Dương (mà Liêu Quốc Nhĩ dịch với cái tựa
Những Tinh Cầu Cô Độc). Anh muốn đi thật xa hơn cái trạm mà các tác giả viết chuyện
tình nhắm tới trên lộ trình cam go của văn chương. Vì sau mặt chữ của câu chuyện trong
Một DặmTương Thân có những điều viễn thâm chôn giấu khá nhiều. Đó là những xung
đột của tâm cảnh, của lý tưởng. Đó là những điều dằn co của khuynh hướng vào đời,
những xâu xé nội tâm,
những thần tượng và chủ nghĩa mới bừng sáng cho người hằng chuộng lý tưởng chẳng
được bao lâu lại sụp đổ tan hoang. Và đó cũng là bạo lực được ngụy trang bằng mặt nạ
đẹp đẽ, bằng xảo ngữ điêu ngôn để rồi bị phơi bày khuôn mặt thật ghê tởm ra.
Đặng Phùng Quân viết văn với tinh thần của một nhà thám hiểm. Anh nhìn trước
nhìn sau, nhìn ngang nhìn dọc, nhìn trong nhìn ngoài đối tượng quan sát. Chưa đủ! Anh
còn sục sạo tìm những cái bí ẩn mà những trào lưu, những trường phái văn chương có
tinh thần cầu tiến đòi hỏi. Anh muốn xóa bỏ những quy ước, những lối cũ đường mòn đã
từng làm cho văn chương hóa thạch, đã từng làm cho tinh thần sáng tạo chai cứng và
đóng băng. Anh miệt mài soi tìm những hang ổ, những tụy đạo sâu kín dưới bình diện
phẳng lặng của hiện hữu để tìm những cái bí nhiệm trong cuộc sống, trong nội tâm con
nguời, để đưa vào văn chương. Cuộc hành hương và lộ trình của anh không có mấy ai
muốn dấn thân. Cho nên anh ít có bạn đồng hành và cũng ít có ai chịu hướng mắt theo
dõi.

No comments: