Saturday, September 8, 2012

ĐẶNG PHÙNG QUÂN * TÁC PHẨM VÀ CHIẾN TRANH

Đặng Phùng Quân
TÁC PHẨM VÀ CHIẾN TRANH

Tôi có một bạn văn, người xứ Tây ban nha - trước đây anh là một nhà ngoại giao, và chặng cuối anh đến cư ngụ ở thành phố Houston, nơi tôi đang ở - với một bạn gái người Mỹ. Anh đã về hưu. Anh tặng cho tôi mấy quyển sách đã xuất bản. Những quyển sách mới nhất của anh. Ở tờ gấp bìa 2 của quyển La escritura no escrita ghi đôi dòng về tác giả: José LuisCastillejo (Sevilla, 1932). Formó parte del grupo zaj. Autor del ensayo Actualidad y participación (Tecnos, 1968). Con su libro, La caida del avión en el terreno baldio (1967) inició su trabajo dentro del ámbito de la escritura experimental. A éste siguieron La politica (1968), The book of i's (1969), The book of eighteen letters (1972) y El libro de la letra (1973). En los fondos documentales de la Staatsgalerie de Stuggart se conserva su producción inédita. Abandonó la escritura en 1978.[i] Công việc viết dường như một thử nghiệm. Anh bỏ văn tự từ 1978.


La Escritura no Escrita dẫn trên do nhà Taller de Ediciones, Facultad de Bellas Artes de Cuenca xuất bản năm 1996 theo đề từ của tác giả đã viết trong năm 1976. Trước khi anh gác bút. La Escritura no Escrita thực ra chỉ là diễn ngôn bằng văn tự để tiếp tục một quyển sách về một quyển sách, trong một quyển sách, như tên một đề án "Un libro de un libro"(1977) anh cũng gửi tặng tôi,[ii] song thực ra cũng chỉ là diễn ngôn về quyển sách trước đó "The book of i's"[iii] - quyển sách 400 trang của một chữ i. Anh khởi thảo một tác phẩm khác, chữ t và đã hoàn tất vào năm 2002: Tlalaatala. Anh đã say mê nói với tôi về một cách nhìn, cách nghĩ trong một thế giới quan phi văn tự, tiến gần đến vô ngôn.


Vô ngôn, phi văn tự - Castillejo đã lấy cảm hứng từ tư tưởng Đông phương. Anh đọc sách vở đông phương, và cuối cùng viết những trang sách để trắng.



Với Castillejo, đến một lúc không thể có tác phẩm. Đặt vấn đề khả hữu của tác phẩm chỉ có ý nghĩa, không thể có tác phẩm.


Sau gần ba mươi năm triền miên của một cuộc chiến gọi là chiến tranh Việt nam, người ta thử đặt vấn đề làm thế nào hình thành một tác phẩm lớn cho cuộc chiến.


Đặt vấn đề như vậy có nghĩa là tin vào một quy luật: văn chương chỉ thực sự sinh động trong điều kiện xảy ra những biến động lớn của lịch sử. Nói một cách khác, văn chương phát triển cùng với sự sa đọa của chính trị xã hội. Khi xã hội càng loạn lạc, khi con người càng bần cùng, văn chương càng mãnh liệt sáng tạo.



Những câu hỏi đặt ra là: liệu văn chương có phải phản ánh hiện thực? trung thực với hiện thực như bản sao chép? hay văn chương phải thể hiện cái điển hình hiện thực?



cuộc chiến là nguyên nhân hay hậu quả của những biến động? song, cuộc chiến nào? trong cái toàn diện? hay những mặt phân rời hiện tượng?



Ngày nay, với những tư liệu đồ sộ của những kẻ trong cuộc, những nhân chứng ở mọi phe lâm chiến phơi bày một sự thực thô bỉ là cuộc chiến không có chính nghĩa, cũng chẳng có một chung cuộc, so với những cuộc chiến trải dài trong lịch sử chống ngoại xâm. Liệu ta có thể đứng ở góc cạnh nào để nhìn thấy hiện thực? Không thể. Và đó là sự thất bại của mọi toan tính đưa cuộc chiến vào văn chương, đưa văn chương nhập cuộc xã hội. Tại sao vậy? Không có sự thống nhất từ tư tưởng cho đến ngôn ngữ trong xã hội trước và sau cuộc chiến, nơi con người ở trong cũng như ngoài nước. Cơ bản là thiếu một cơ sở thông giao - cái khiếm khuyết này là hệ lụy của sự phân hóa xã hội tự trong cốt lõi.



Chừng nào sự phân hóa ngôn ngữ và tư tưởng vẫn còn là hội chứng của xã hội thời hậu chiến, chỉ có những tác phẩm thất bại [iv].


Hủy triệt một nền văn học đã thành không hẳn tất yếu nẩy sinh một nền văn học khác (tôi đã viết ở đâu đó như vậy). Song, người ta có thể tin tưởng ở tương lai khi có một hành động thông giao khả dĩ thiết lập được mối thống nhất trong quan hệ nội tại của ngôn ngữ và tư duy, giữa thực tại và lý tính, hình thành một tác phẩm thể hiện được cái tổng thể xã hội có thể khả hữu - điều bao hàm cả nhận thức của nhà văn và giáo dục quần chúng cũng như không giản lược vào sự hóa thạch của quá khứ.



Đặng Phùng Quân





--------------------------------------------------------------------------------

[i] Castillejo nguyên là thành viên của nhóm tiền phong Zaj,với một số tác phẩm đã xuất bản khởi sự công trình đi vào lãnh vực văn tự thử nghiệm. Trong một giai phẩm đồ sộ của Zaj, không chỉ những bài viết mọi thể loại, còn những hình ảnh sinh hoạt những buổi đọc thơ, trình diễn nhạc, những đàn ông đàn bà khỏa thân...

[ii] (Proyecto para una serie de obras de Escritura no Escrita): Este proyecta se realiza a partir de un libro encuadernado de cuatrocientas páginas en blanco, con énfasis en la dimensión vertical que facilita la lectura ascendente/descendente, es decir el punto de partida es un objeto no escrito que todavia no constituye "Escritura no escrita" y cuyas páginas en blanco se fotografian e imprimen de diversas formas o modos.

Cùng với bốn trang sách mỏng là một tấm ảnh đồ 60 X 79 cm trang sách trắng.

[iii] La i como negación!!!
i-lógico
i-letrado
i-
La i como negación.
El libro de la i es el libro de una letra que niega, un libro crítico.

[iv] Vào một thời điểm nhất định của nước Nga, Solzhenitsyn đã từng than thở: Bởi vì không có tất cả sự thực thì không thể có văn học được.
Sự thất bại văn chương không chỉ hạn định nơi chúng ta, mà chứng thực ngay cả ở cái gọi là "Vietnam writers".

 






No comments: