Monday, September 3, 2012

VÕ KỲ ĐIỀN * CHU VĂN AN VÀ TÔI

CHU VĂN AN VÀ TÔI

Những ngày mới định cư ở Montreal, một thành phố lớn của Canada, tôi
được người bạn thân chở đi chơi Quebec. Thành phố nhỏ, đẹp và xinh xắn
y như một thành phố bên Tây. (vì thường coi mấy hình chụp phong cảnh
nước Pháp trong các sách vở, tạp chí…)
Hai đứa đi thang lang hết đường nầy sang ngõ kia, cảnh đẹp như tranh vẽ,
tôi là nhà quê được ra tỉnh, đâm mê mang, ngó ngang ngó dọc. Chợt thấy
một nhà hàng chuyên các món ăn Pháp thuần túy, có quảng cáo các món
ăn ngon thêm câu ngộ nghĩnh –quí khách được coi tay miễn phí. Quảng cáo
nầy hấp dẫn quá, tôi khoái chí kéo anh bạn bước vô liền. Sau khi ăn uống
no nê, tôi đến bà thầy ngồi phòng bên cạnh, rụt rè chìa ra cái biên lai ăn
uống và nhờ coi tay dùm. Gọi là bà chớ thật ra cô đầm nầy còn trẻ, độ
chừng trên dưới 30, đặc biệt là khá đẹp. Bà nắm lấy bàn tay tôi, tôi cảm
thấy tay bà mát rượi, da đầm sao mà mượt mà, êm ái như nhung. Bà cười
nheo mắt, chắc tại tôi hơi run…
Bà nói nhiều chuyện về đời tôi, đại khái tánh tình ra sao, ưa màu gì, tôi ưa
số mấy, giao thiệp với bạn bè và hạp với bạn gái hay bạn trai… Tôi nghe
vui vui và bất chợt bà nói câu nầy : ông là người có tài nhưng không biết
sử dụng cái tài đó. Ông làm cái gì cũng bỏ dở nửa chừng… rồi bà cười và
kết luận - cho nên kể như ông không có tài năng gì ráo trọi, làm cái gì
không ra cái gì. Lúc đó tiếng Tây tôi còn kém, giọng Quebecois lại khó
nghe, đại khái tôi hiểu ý bà là như vậy. Tôi tự ái, hỏi lại- xin bà vui lòng
giải nghiã cho tôi hiểu rõ hơn chỗ nầy..
Bà chỉ cho tôi đường chỉ tay ngoằn nghèo- rồi giải nghiã, khi nhỏ, ông sanh
ở một nơi cư ngụ một nơi, không theo một trường nào lâu dài, nay học
trường nầy, mai học trường kia, làm quen bạn gái, nay cô nầy mai cô kia,
chuyện gia đình cũng vậy, nghề nghiệp cũng vậy, nay làm nghề nầy, mai
làm nghề kia, nhà cửa cũng vậy, các trò chơi trong đời cũng vậy… Ông mê
thì mê mang, hết mê rồi ông bỏ liền không luyến tiếc, tình cảm thì say
đắm như nghệ sĩ nhưng lý trí thì của một ông thầy giáo chừng mực, thành
ra đời ông cái gì cũng được có phân nửa, làm sao mà thành tựu lớn cho
được, phải không nào, ông thử nghiệm lại coi. Rồi bà cười, ngay cả sống ở
Việt Nam cũng có phân nửa đời thôi, bây giờ ông ở Canada nè.. mà chưa
chắc ở Montreal hoài đâu, rồi ông sẽ đi nửa…

Mùa xuân nầy, tôi đến cư ngụ tại Toronto. Buổi trưa nhận cú phone người
bạn mới rủ viết về những kỷ niệm học ở Chu Văn An khiến tôi đâm nhớ
miên man và lan man những thầy những bạn Chu Văn An, Chu Văn An….
Những ngày tháng mới lớn. Lời của bà đầm chợt nhớ - ông đâu có học
trường nào lâu. Quả đúng y như vậy, chuyện học hành của tôi cũng lung
tung, tôi học Chu Văn An chỉ trọn vẹn có một năm, năm Đệ Nhứt, niên
khoá 1959 - 1960, tính đến nay đã 43 năm rồi, đoạn thời gian quá dài đối
với một đời người, có chuyện nhơ,ù chuyện quên...
Nhớ lại hồi đó, tôi hoàn toàn không có ý niệm nào về việc học, việc chọn
ngành nghề. Hễ lớn lên là phải đi học, chớ không phải đi chơi. Như vậy là
làm đủ bổn phận rồi, mà bổn phận đối với ai, đối với cái gì thì không biết,
vì có ai nói gì đâu mà biết. Đậu xong Tú Tài Nhứt, khoẻ quá tha hồ đi chơi,
đi chơi... Có anh bạn hỏi -mầy nộp đơn trường nào chưa. Tôi trả lời tỉnh
queo-chưa, còn lâu mà. Anh ta trợn mắt, lâu gì mà lâu, còn có mấy ngày
nửa là hết hạn nộp đơn vô mấy trường công rồi, coi chừng không kịp, nộp
đơn xong còn phải chờ cứu xét chấp thuận, nếu được thì hay quá, không
được thì năm nay mầy học ở đâu.
Tôi nghe mà đâm lo – theo mầy thì bây giờ tao phải làm sao. Anh bạn nói,
mầy chỉ còn cách nộp đơn vô học Chu Văn An thôi, vì mầy đậu Bình Thứ,
đương nhiên được nhận, chớ mầy nộp Pétrus Ký thì phải chờ cứu xét, rủi
đông quá, thì có thể không được.


Tôi bèn ba chưn bốn cẳng xách đơn vô nộp Chu Văn An mà run trong bụng.
Việc được học trường nầy là đương nhiên rồi vì có quy định rõ ràng cho
người đậu cao, nhưng không phải run vì việc đó, mà tôi là dân Nam kỳ,
đáng lẽ phải xin học Petrus Ký. Trường Chu Văn An là của Bắc kỳ, nghe
nói học sinh Bắc Kỳ khôn ngoan, lanh lợi và ma mảnh, lại ưa đánh lộn lắm.
Tụi nó đánh lộn với tụi học sinh Kỹ Thuật Cao Thắng hà rầm.. tụi Cao
Thắng là dân thứ dữ, ưa dùng bù lon, kềm búa, mà không sợ, lại dám đánh
lộn thì chắc là phải dữ hơn, tôi đoán vậy. Tôi vốn ở tỉnh nhỏ và chưa quen
gặp gỡ bạn bè người Bắc nhiều, thưở đó người Bắc và người Nam còn xa
lạ lắm, chớ không như bây giờ.



Trường là một dảy lầu hai từng, trong khuông viên trường Petrus Ký, trên
đường Cộng Hoà, nó vốn là ký túc xá cho học sinh nội trú, bây giờ được
dành ra cho Chu Văn An từ khi ngoài Bắc di cư vô, có hàng rào kẻm gai
ngăn đôi hai trường ra. Ở ngay cổng ra vào cạnh Petrus Ký có quán bán
bánh cuốn nóng nhưn thịt của vợ con bác tùy phái. Bánh cuốn rất ngon và
thơm lừng mùi củ hành phi, không lúc nào vắng khách hàng. Tôi còn nhớ,
có lần đương học, đói bụng quá thèm ăn bánh cuốn, trốn học lén ra quán
ngồi ăn, bị ông Tổng (giám thị) Lãng đi ruồng, chạy trốn muốn chết, ngày
đó bỏ học, lang thang ra chợ Sài Gòn, chun vô coi hát cho hết ngày.
Ngày đầu tiên vào lớp, tự nhiên đám Nam Kỳ tụi tôi được chừng chục đứa,
sớm làm quen nhau và giành ngồi hết mấy dảy đầu bàn. Mấy bạn còn lại
ngồi chỗ nào, tôi không nhớ. Tôi may mắn gặp lại được các bạn thân là
Huỳnh Thiếu Hoa và Chiêm Thanh Hoàng, hai bạn nầy cùng học Văn Lang
với tôi năm vừa qua. Bàn sau lưng tôi là Triệu Quốc Mạnh, Trương Bửu
Sum, Võ Văn Nho, Huỳnh Quảng….
Như vậy trước là thầy, xung quanh tôi là bạn thân hết, có gì mà sợ. Mà quả
tình cũng không có gì đáng sợ. Ngày qua ngày, các bạn Bắc cũng hiền
lành, cũng ham học, cũng lễ phép… y như tụi Nam chúng tôi và cũng chưa
thấy tụi nó đánh lộn lần nào. Nhưng mà chưa chắc giống y, hình như tụi
Bắc học giỏi hơn. Tôi thuộc hạng thông minh và khá giỏi, ở mấy trường
cũ, Nguyễn Trãi, Văn Lang… thầy giảng bài là hiểu ngay liền, không thua
đứa nào. Nhưng mà bây giờ mỗi lần làm bài tập so điểm lại thua vài đứa,
nhứt là Nguyễn Hoàng Giáp, ngồi bên góc trái, tận phía sau. Tay nầy ốm
ốm đen đen, hơi xấu trai, lầm lầm lỳ lỳ mà sao học hay quá, môn gì cũng
nhứt lớp. Tôi đâm ra khó chịu, ganh tức và tìm cách chọc phá.
Nguyễn Hoàng Giáp ngồi tuốt phía sau. Mỗi lần thầy viết bài học trên
bảng, thì Giáp đi lên trên cạnh chỗ tôi ngồi, đóng cánh cửa sổ lại, để ánh
sánh đừng phản chiếu chói chang, cho dễ thấy. Tôi chờ khi Giáp quay lưng,
đưa tay đẩy nhẹ cánh cửa mở ra và ngồi im. Khi Giáp quay về tới chỗ, thì
vẫn không đọc được bài. Giáp tưởng là cửa đóng không kỹ bị gió thổi tung
ra.. Giáp kiên nhẫn đi trở lên và đóng cửa lại kỹ càng, khi quay lưng đi thì
Trương Bửu Sum lẹ tay tháo chốt cửa và mở toát ra… rồi cũng ngồi im
ngoan ngoản.
Giáp trở về, nhìn lên bảng đen chói chang, biết có đứa phá và không biết
đứa nào, giận dữ và chữi đổng - đồ khốn lạïn, lạn, lạn, lạn,… giọng Bắc của
Giáp nặng sệt và kỳ cục, giọng Nghệ An- Hà Tĩnh gì đó, vang vang giửa
lớp nghe lớn lắm, chữ lạn kéo dài ngoằn. Mấy thằng Nam tụi tôi nháy
giọng của Giáp chửi lại -đồ khốn lạn, cũng lớn không thua gì giọng Giáp.
Giọng Nam của chúng tôi cũng nghe kỳ cục lắm, khốn lạng, lạng, lạng…
Cả lớp lúc đó không còn Nam, Bắc gì hết, xúm nhau lại mà cười rần rần.
Giáo sư đang giảng bài là cha Khang, dạy Triết, cha mặc áo chùng thâm,
hiền thiệt là hiền, giửa trưa nóng bức, nghe cả lớp cãi lộn cũng ngừng lại
hỏi, các con làm gì mà ồn thế.
Bạn Nguyễn Hoàng Giáp nghe đâu sau nầy là Tiến sĩ Dược Khoa là là giáo
sư Đại Học Dược rồi hình như nhập ngũ, bạn có thời là Giáo sư Trường Võ
Bị Đà Lạt hay Kinh Tế Chánh Trị, Kinh Doanh gì đó, tôi nghe như vậy mà
không chắc.
Nếu bạn Giáp tình cờ mà đọc được những dòng nầy thì cười lớn một phát
nghen và cứ chữi tiếp, cái thằng Võ Tấn Phước nầy khốn lạn thiệt tình…

Cha Khang, dạy môn Triết thiệt là khó hiểu. Cha không soạn bài, mỗi buổi
có giờ dạy thì cha cầm cuốn Triết Học Khảo Luận của Cao Văn Luận, vừa
đọc vừa giải nghiã. Giọng cha trầm trầm như đọc kinh. Giửa trưa, nóng bức,
lớp học lại đông, không ai còn ham muốn nói chuyện nữa, thiệt là buồn
ngủ hết sức. Vậy mà có buổi vui ghê, quên buồn ngủ. Số là vào những
ngày gần lễ Giáng Sinh, cha không dạy bài trong chương trình. Cha nói
chuyện Chúa Hài Đồng được sanh ra ở thành Bethlem. Chúa ra đời ở máng
cỏ, chỉ trong vài phút mà cha nói gần hai tuần, vẫn chưa hết … Sau khi nghỉ
lễ vô, thì cha nói tiếp những đêm vui Giáng Sinh ở Pháp, Ở Anh, Ở Hoà
Lan, ở Na uy…rồi cuối cùng cha nói tới lễ Giáng Sinh ở Hà Nội. Có đứa
vọt miệng hỏi -thưa cha, tại sao trong đêm Giáng sinh người ta phải ăn
Réveillon bằng ngỗng. Cha nói đó là tập tục ở Âu Châu, có từ lâu đời. Sau
đó cha nói tiếp, ở ngoài Bắc đâu có ngổng mà ăn, người ta ăn réveillon
bằng thịt chó, có gì ăn nấy chớ không bắt buộc.
Việc ăn thịt chó lúc đó còn quá xa lạ đối với học sinh Nam chúng tôi và
điều đó cũng là thứ cấm kỵ. Cả đám đâm ra vô phép hỗn hào với cha :
-Cha ăn thịt chó, cha ăn thịt chó….
Tôi cứ tưởng là cha sẽ giận dữ và rầy la, nào ngờ cha cười hiền hoà và nói
- ừ ừ, cha có ăn và thịt chó ngon lắm. Chúa sanh ra muôn loài để cho người
ăn thịt như mình ăn thịt bò, thịt heo, thịt gà vậy… Nghe cha nói, tôi chưng
hửng và thấy mình sai lầm.
Cha Khang chắc đã mất từ lâu rồi, tôi nghĩ như vậy nhưng dáng điệu, cử chỉ
khoan hoà, từ ái của cha, tôi còn nhớ mãi. Cha đúng là nhà tu hành và là
nhà giáo đầy đạo hạnh. Tôi đem tâm phân biệt, chấp trước nặng nề mà phê
phán cha, khó mà tha thứ được, vậy mà cha không để ý đến, coi như là
không có…
Bây giờ đây tuổi đời khá cao, tôi kính phục cha nhiều hơn thời còn đi học.
Tôi tuy học được những bài Triết khô khan nhưng không học được công
phu hàm dưỡng của cha. Lớp Đệ Nhứt của tôi năm ấy 47 học sinh, thấy
chơi nhiều hơn học. Vậy mà thi kỳ nhứt đậu ngay 43 đứa và 4 bạn còn lại
cũng đậu nốt kỳ nhì. Toàn là đậu hạng cao, chỉ có vài bạn đậu Thứ. Ngộ
ghê chưa. Chu Văn An thiệt là giỏi.

Năm ngoái tôi có nói chuyện với bạn Chu Văn An cũ là Chiêm Thanh
Hoàng, Thiếu Tá Lôi Hổ hay Biệt Kích gì đó, chủ tịch Hội Aùi Hữu Võ Bị
Đà Lạt, hiện nay ở Boston. Hoàng nhắc lại Chu Văn An của chúng tôi ngày
xưa và hỏi tôi còn nhớ Triệu Quốc Mạnh.
Tôi nói -còn chớ sao không, cái thằng hiền lành, mập mập. Hoàng cười –nó
mà hiền, mầy có biết bây giờ nó làm gì không.
Tôi trả lời tỉnh queo -không. Rồi hỏi- nó làm gì, khá không, có vượt biên
như anh em mình không.
Hoàng cười chua chát và cho tôi biết, sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức
thì Trang Sĩ Tấn cũng từ chức theo, luật sư Triệu Quốc Mạnh thay thế chức
vụ Tổng Giám đốc Công An Cảnh Sát thành phố Sài Gòn trong Chánh phủ
Trần Văn Hương và Dương Văn Minh. Sau ngày mất nước thì Triệu Quốc
Mạnh được trọng dụng và làm lớn hơn nữa, nó vượt biên như anh em mình
để làm chi.

Bà thầy coi chỉ tay nói tôi nhiều chuyện, đúng hay sai thì bây giờ chưa biết
được. Nhưng chuyện bà nói tôi thường hay đổi trường và học trường nào
cũng chỉ có phân nửa thì thiệt là đúng. Nếu tôi học một trường thiệt dài,
thiệt lâu như các bạn ở Chu Văn An, Pétrus Ký thì hy vọng tôi sẽ giỏi hơn
nhiều. Tôi chỉ học Chu Văn An vẻn vẹn có một năm, tiếc quá…
Bây giờ tuổi đời đã trải, vui buồn đều gặp, có làm điều gì tốt đẹp thì tôi
thường cho là nhờ học Chu Văn An , còn có làm gì kém dở, sai sót, tôi
thường nói mình học Chu Văn An có một năm, uổng quá, phải chi được học
ở đó nhiều hơn….
Võ Kỳ Điền (15-2-2003)
  

No comments: