Saturday, September 8, 2012

VÕ QUANG YẾN * HOA CAU VƯỜN TRẦU

HOA CAU VƯỜN TRẦU
Võ Quang Yến


Bóng một giàn hoa một lá trầu,
Ngày xanh lui lại nhớ hàng cau
Thái Ngộ Khê
Sau mấy chục năm tha hương, về nước
dự đám cưới một người cháu, tôi ngạc
nhiên thấy nhà trai còn đem cau trầu làm
sính lễ lại đón cô dâu như thời trước. Tôi
mừng thầm, sau hai cuộc chiến tranh dài
dăng dẳng, thảm thê, truyền thống vẫn
còn giữ và dân tộc không quên chuyện
truyền thuyết tình cảm, sâu xa của hai anh
em Cao Tân, Cao Lang và cô gái học Lưu
tên Liên thời Hùng Vương kể lại
trong Lĩnh Nam chích quái.Thật ra, Việt
Nam ta không phải là nước độc nhất dùng
cau trầu trong dịp cưới hỏi. Suốt vùng
châu Á, phía đông bao trùm Thái Bình
Dương đến các đảo cạnh Úc châu, phía
tây vượt quá Ấn Độ đến bờ biển Phi châu,
phía bắc lấn tràn Miến Điện và miền nam
Trung Quốc, phía nam chiếm toàn Đông Nam Á với quần đảo Nam Dương, ở đâu đất
đai và khí hậu cho mọc cau, trầu là nơi đó có tục lệ cau trầu.
Bên Java, khi một chàng trai hỏi ý một cô gái, cô gởi trả một miếng trầu bọc hai lá : nếu
úp cùng chiều là cô ta ưng ý. Cô vợ Arakan bên Myanmar thì đem lá trầu xé làm hai đưa
cho chồng một nửa : nếu anh quấn làm miếng trầu ăn tức là anh đồng ý để vợ ra đi.
Không phải tình cờ mà người Mã lai lấy tên cây cau, pinang, đặt tên meminangcho cuộc
dạm hỏi rồi pinangam cho đám hỏi, còn người ở đảo Bali thì đặt tên cho một hòn
núi Pinang Gunggam. Bên Ấn Độ, bất cứ lễ sinh con hay lễ tế người chết đều phải có
cau trầu. Người Borneo đặt cau trầu quanh thi hài người quá cố cùng với những vật
thường dùng hằng ngày. Người Sumatra mang cau trầu đi biếu dân làng mình đến
viếng cũng như lúc sắp từ giả... Cưới hỏi, ly dị, kết nghĩa, chia ly,... rất nhiều quan hệ xã
hội lúc sống, khi chết, đã được diễn tả qua cau trầu.
Đi xa hơn, cau trầu còn là mối liên quan giữa người và thần linh. Nước miếng đỏ trong
miệng người ăn trầu, rất lạ mắt và có phần ghê tởm cho những người phương Tây, hình
dung một sức mạnh cốt tử trong mắt nhiều bộ lạc. Người Macassar ở Sulavesi dùng
nước ăn trầu thoa trán và thái dương trẻ con bị bệnh. Bên Philippines thì nước trầu
được bôi vào bụng con nít để tránh cảm lạnh. Ở nhiều chỗ khác, nước trầu còn có tính
chất bùa yêu mầu nhiệm. Ở Timor chẳng hạn, thầy phù thủy nhìn màu nước trầu phết
vào trán người chiến sĩ để suy đoán vũ lực và khả năng chiến đấu. Bên Java, đường
gân lá trầu chỉ định bản chất cơn bệnh, còn màu nước trầu thì biểu lộ tính tình. Người
Batak ở Sumatra cung hiến miếng trầu cho ma quỷ để chúng khỏi rượt đuổi con
người (1). Ở Bali, tôi chứng kiến được hằng ngày các cô gái tân thời, áo cụt, quần jeans,
tóc dài, da thắm, đẹp như tiên nữ, tung tăn, tươi cười, hồn nhiên chạy đặt những khay
-2-
trầu bằng lá tí hon trước cửa nhà cũng như khắp các nẻo đường, theo một tục lệ có từ
ngày xưa, bất chấp chúng có tồn tại được lâu hay không.
Thật ra, cau trầu không chỉ là một chuyện dị đoan. Nếu bây giờ miếng trầu qua các tay
phù thủy, thì trước kia những thầy thuốc như Sushruta ở Ấn Độ từ thế kỷ 1, những
lương y Ả Rập như Rhazes, Avicienne qua thế kỷ 10 đã công nhận những giá trị y học
của cau trầu. Các sách xưa ghi miếng trầu kích thích nhiệt huyết, đem hương vào miệng,
củng cố cơ thể, nảy nở vẻ đẹp, tiêu tan bệnh tật, giúp thêm điềm tĩnh,... Nó còn có khả
năng tăng sức tim, chữa đau răng, củng cố nướu răng,... Theo một số sách khác, nó là
một trong những thích thú trong đời bên cạnh ăn uống, áo quần, hương hoa, phụ nữ.
Ngày nay, miếng trầu được xếp ngang hàng với guarana, kola,... những chất nhai chơi
có khả năng kích thích (9). Trái lại, các tu sĩ Myanmar tin nhai trầu cổ võ suy nghĩ, kích
thích tịnh tâm (2) .
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm
Tục lệ cau trầu chỉ được phổ biến ở Âu châu từ
những thế kỷ 16, 17, 18, bắt đầu với những
người Bồ Đào Nha. Tiếp xúc với người Ấn Độ và
người Mã Lai, họ hấp thu hai danh
từ vittilei và vetila để chỉ trầu,dần dần đọc trạnh
ra vettele, bettele,…cho đến ngày nay
thành betle hay betel. Bên phía cau thì hai danh
từ akakeya (Ấn Độ) và adakka (Mã Lai) đã đưọc
biến ra thành arec,(noix d'arec), aréquier. Những
người Anh quen dùng chữ betle chỉ định trầu, từ
đấy cây trầu betle vine, lá trầu betle leaf, miếng
trầu betle quid,và kỳ quái là cả ngay trái cau betle
nut cho nên lúc ban đầu hay có sự lẫn lộn.
Ở Ấn Độ, tiếng Sanskrit để chỉ trầu là tâmbula,
đổi thành tambuli, tambulam trong tiếng
Pali, tamboli, tambolam trong tiếng
Prâkrit, tambul trong tiếng Persan, al tambul trong
tiếng Ả Rập. Phát xuất từ một tiếng Sanskrit
khác, parna, người Hindi ngày nay gọi trầu là pân,
cho nên những quầy quán bán trầu bên Ấn Độ,
Myanmar mang tên panshop. Trong ngôn ngữ
Nam Á, chữ trầu thay đổi với các sắc tộc :
Khơme mluv, Bana bơlơu, Stieng mlu, Kha blu,
Kha blu, Thái Lan phlu, Môn jablu, halang lamlu (1). Người Chăm một thời gồm có hai thị
tộc : Dừa và Cau. Thị tộc Cau chiếm giữ vùng Panduranga tức Phan Rang ngày nay và
tháp Pô Klaung Garai đã được vua Jaya Simhavarman III (ta gọi Chế Mân) dựng lên
trên núi Trầu (3) tức Bôn Hala. Lễ vật cúng ở đây ngoài dê, gà, bánh rượu, lúc nào cũng
có kèm theo cau trầu. Sách vở còn kể nghệ nhân Chăm biết dùng vàng, bạc, đá quý tạo
nên những hộp đựng cau, trầu, vôi chạm trổ công phu. Trong đám quân binh tháp tùng
nhà vua, luôn có những người lính mang những hộp ấy và lễ vật cống hiến Trung Quốc
không bao giờ thiếu hộp cau trầu. Ở miền Nam nước ta còn có làng Trầu Phù Lưu,
Thập bát Phù viên tức Làng Trầu 18 thôn làm nên quê hương vườn trầu lý tưởng (4) .
Ở Việt Nam ta, từ điển Alexandre Rhodes viết blâu, đọc giầu ở miền Bắc thay
vì trầu. Ngoài vôi, cau trầu thường được ăn với vỏ cây chay. Cũng như ở các nước
Đông Nam Á khác, cau trầu có mặt trong tất cả các buổi lễ cúng, cưới hỏi, trang hoàng,
-3-
trong hoàng tộc cũng như ngoài dân gian.
Nó "biểu tượng cho sự kính trọng, cho
lòng biết ơn, cho sự tạ lỗi - mỗi một khi
nhà có việc, đều không thể thiếu cơi trầu,
bình vôi, người bạn đường chung thủy
của trầu cau - là quyền lực của người nội
tướng trong gia đình..." (4a). Trong giao
tiếp, miếng trầu là đầu câu chuyện, thay
vì điếu thuốc, chén trà. Rồi khi quen nhau
nhiều, không xa nhau lâu được : Láng
diềng đã đỏ đèn đâu, Chờ em chừng giập
bã trầu em sang (Nguyễn Bính). Nhận
một miếng trầu là gần như một lời cam
kết : Miếng trầu ăn nặng bằng chì, Ăn rồi
em biết lấy gì đền ơn. Sau nầy thành vợ
thành chồng, có con cái, ru con ngủ cũng
còn lẩn vẩn với chuyện cau trầu : Mua vôi chợ Quán chợ Cầu, Mua cau Nam Phổ, mua
trầu chợ Dinh...
Nhưng nếu bản thân cau trầu luôn còn là bài thơ muôn thuở của con người (4) thì ngày
nay khoa học lại phân tích tìm kiếm trong các loại thảo mộc nầy những tính chất dược lý
có thể đem ra ứng dụng trong đời sống hằng ngày. Mang tên khoa
học Pepper (hay Piper) betle (hay betel) L., trầu, hay trầu không, thuộc họ Hồ
tiêu Piperaceae. Tên khoa học của cau, còn được gọi binh lang, tân lang, là Areca
catechu L., thuộc họ Cau Arecaceae. Trái cau thường được miêu tả trong sách báo qua
tên areca nut hay, vì lầm lẫn như đã thấy, betle nut. Bên ta nhân dân dùng lá trầu giã
nhỏ, cho thêm nước sôi vào dùng rửa những vết loét, mẩn ngứa, viêm mạch bạch huyết.
Nước pha lá trầu còn được dùng làm thuốc nhỏ mắt chữa viêm kết mạc, chữa bệnh
chàm mặt của trẻ em. Có nơi còn giã lá trầu cho đắp lên ngực để chữa ho và hen, hoặc
đắp lên vú cho sữa không ra nữa. Trái cau thường được dùng làm thuốc lợi tiểu (gọi là
đại phúc bì), chữa giun sán cho người và súc vật, giúp sự tiêu hóa, chữa viêm ruột, lỵ,
trẻ con chốc đầu, hợp với thường sơn, thảo quả trong đơn thuốc "trường sơn triệt
ngược" chữa sốt rét (*).
Đôi ta nâng mấy cơi trầu
Đem phân tích, lá trầu chứa đựng năm propenylphenol có tính chất khử nấm, trừ giun :
chavicol, chavibetol, allyl pyrocatechol, chavibetol acetat, allylcatechol acetat. Những
chất phenol khác cũng đã được tìm ra : hydroxy chavicol, eugenol, methyl eugenol,
isoeugenol, flavon, quercetin, nhiều nhất là safrol trong hoa. Hydroxy chavicol, tác dụng
mạnh nhất, cùng eugenol và tocopherol là những chất kháng oxi hóa đã được chiết xuất
từ thân trầu. Những chất 3beta-acetyl ursolic acid, ursolic acid và beta-sitosterol có tính
chất chống viêm. beta-sitosterol cũng đã được xác định dưới dạng palmitat trong rễ trầu
cùng piperin, piperlonguminin trong thân và tritriacontan, cepharadion, dotriacontanoic,
stearic acid trong lá. Bên Ấn độ, một cuộc khảo cứu các tinh dầu, phân biệt được các
loại trầu trồng ở các vùng. Trầu Bangla chứa nhiều eugenol (64%), đặc biệt chống nấm,
trầu Desawari nhiều propenyl benzodioxol (45%). Hai chất anethol và cis-caryophyllen
nổi trội trong trầu Meetha. Trong năm loại trầu vùng Kapoori thì có cả một loạt hóa chất :
alpha-thujen, beta-ocimen, delta-cadinen,... Trầu Sanchi đặc biệt có steraldehyd không
tìm ra trong các trầu khác.
-4-
Tinh dầu trầu có tác dụng hạ huyết áp, duỗi bắp cơ, trị giun sán, chữa dị ứng (22)như lá
trầu (23). Trầu hỗn hợp với những phần chiết tiêu lốt Piper longum, thùn mùnEmbelia
ribes, cam thảo dây Abrus precatorius, tinh dầu Polianthes tuberosa, natrium borat, làm
thành một thuốc ngừa thai dài hạn (11). Trầu có khả năng hủy bỏ tác dụng đột biến của
những chất gây ung thư nitrosonornicotin và methyl nitrosoamino pyridyl butanon từ
thuốc lá nhờ những eugenol, hydroxy chavicol, chlorophyll, vitamin C cũng như chống
dimethyl benz[a] anthracen nhờ beta-caroten. Trầu chiết được dùng với bạc hà trong
một hỗn hợp thuốc thơm để cho vào nước súc miệng (21). Có hoạt kháng chống oxi
hóa (24), lá trầu lại hoãn chậm sự ô khét bơ dầu nhờ vậy giữ được lâu (25) .
Như trong lá chè, trái cau chứa đựng nhiều tannin gây ra mùi vị đặc biệt và được xem
như là những chất gây ung thư. Từ tannin nầy, đã được chiết xuất ra những catechin,
epicatechin, leucocyanidin, cùng những chất proanthocyanidin, di- tri- tetra- và penta
procyanidin. Trong số các procyanidin, đặc biệt arecatannin B1 ức chế hoạt động của
trùng HIV-1-PR. Một số chất khác quan trọng trong trái cau là những alcaloid (2,38
mg/g) : (%) arecolin (0,30-0,63), arecaidin (0,31-0,66), guvacolin (0,03-0,06), guvacin
(0,19-0,72) và những dẫn xuất nitroso của chúng rất độc hại cho gen, cho tế bào biểu
mô miệng, niêm mạc mũi, có thể gây u tuyến ở phổi. Những aflatoxin B1, B2, G1, G2 (3,5-
26,2 μg/kg) trong cau bị nhiễm trùng Aspergillus flavus cũng có tác dụng gây ung thư.
Safrol có khả năng gây ung thư ở thực quản. Acrolein thì rất độc hại cho gen nhưng lại
làm giảm hạ đường trong máu thỏ đã bị alloxan gây bệnh đái đường. Vôi Ca(OH)2 cho
phát xuất những gốc OH có thể làm tổn thương những tế bào miệng. Người ta biết khi
thay đổi pH, chẳng hạn lúc tiếp xúc với vôi là một chất alcali, những alcaloid có khả
năng thay đổi màu, ví dụ nhuộm đỏ trong nước miếng người ăn trầu. Vôi có khả năng
ức chế methyl mercaptan phát tiết ra ngoài nên ăn trầu đở hôi miệng. Chính vôi cũng đã
thủy phân arecolin và guvacolin ra thành arecaidin và guvacin. Cùng với hai chất nầy,
đã được xác định những alcaloid khác : nicotin, methyl nicotinat, ethyl nicotinat cùng
dimethyl piperidin carboxylat, ethl methyl tetrahydro pyridin carboxylat. Những
polysaccharid trong vỏ trái có tính chất chống bổ thể, trình bày một số đường 48,2%
(rhamnose, arabinose, mannose, galactose) cùng uronic acid, protein. Saccharin được
xác định trong cau dưới dạng muối natri. Ngoài các acid mỡ (lauric, myristic, palmitic,
stearic, phtalic acid) cau còn chứa đựng những amin acid : ít tryptophan, methionin, hơn
15% prolin, hơn 10% tyrosin, phenylalanin arginin.
Trong một cuộc khảo cứu rộng lớn trên 100 thảo mộc ở Á Đông, hãng Coreana
Cosmetics đã tìm ra cau cùng với riềng, nghệ, cải, đinh hương, đơn bì, đại hoàng,…
trong số những cây có thể dùng để chiết xuất chất kháng oxi hóa. Một ứng dụng được
thực hiện dựa lên tính chất nầy là cho trộn cau với dương mai (28) hay với
riềng Curcuma longa, đinh hương Syzygium aromaticum, mộc hương Saussurea
lappa (có khả năng khử melanin) làm thuốc bảo vệ da (18). Có mỹ phẩm dựa lên tính
chất khử thải những gốc tự do của cau (27), hỗn hợp vói vitamin C(29) hay cam thảo
bắc Glycyrrhiza glabra (30). Nhờ khả năng ức chế tác dụng 5’-nucleotidase,
glucotransferase trong Streptoccocus mutanscủa những chất phenol, procyanidin và
acid mỡ, cau được dùng để chữa sâu răng, trị viêm răng, chống mảng răng (17). Bên ta
trước kia đã thấy có thói dùng vỏ trái cau chùi răng, một vật liệu vừa hữu hiệu vừa dễ
kiếm cần phải được khuyến khích. Những chất phenol, đặc biệt những ester, thức biệt
thành NF-86I, NF-86II, NPF-86IA, NPF-86IB, NPF-86IIA, NPF-86IIB, cau được đưa vào
thuốc trị u khối (13,14), chữa các chứng nhiễm virus (16). Vì ức chế glycerophosphat
deshydrogenase, chúng được cho vào thức ăn chống béo (20). Cũng như trầu, tiêu Piper
nigrum, rau ngót Sauropis androgynus,… cau thuộc số ít thảo mộc ức chế rất mạnh giun
tròn Bursaphelenchus xylophilus, theo một bản báo cao Mã lai. Trong cau có một phần
tannin ức chế được enzym chuyển đổi angiotensin nên được xem là chất chống huyết
-5-
áp (12). Dùng dichloro methan chiết xuất, cau cống hiến một chất thuốc chống trầm
cảm (26).
Vườn em đất tốt trồng cau
Một vấn đề khá quan trọng đã được nhiều
giới khoa học lưu ý, đặc biệt ở Ấn Độ là
khả năng gây ung thư của miếng trầu.
Các bài tổng kiểm đã được sử dụng lượt
kê gần 500 bản báo cáo đủ loại. Kết luận
đến nay chưa ngã ngũ rõ ràng. Công tác
sâu rộng và đầy đủ nhất, tuy hơi xưa
(1985), được Tổ chức Quốc tế Khảo cứu
về Ung thư thực hiện (5). Theo bài nầy, có
đủ chứng cớ để tin ăn trầu, thêm hút
thuốc, dễ gây ung thư trên con người
nhưng không thể buộc tội miếng trầu một
mình. Như vậy là nghĩa là người vừa ăn
trầu vừa hút thuốc có nhiều khả năng mắc
bệnh ung thư họng nhưng không thể nói
gì về người chỉ ăn trầu mà thôi. Hai mươi
năm sau nầy, nhiều bài tổng kiểm khác lại
bổ túc. Theo Giáo sư Iwao Hirono (6), dựa
lên những khảo cứu về mặt dịch tể học ở
đàn ông, đàn bà các nước Ấn Độ, Mã Lai,
Trung Quốc, thì ung thư chỉ do những yếu
tố môi trường như cách thức ăn trầu chỉ định chứ không dính dáng gì đến di truyền dân
tộc. Ông đưa ra mâu thuẫn lá trầu có khả năng ức chế gây ung thư benzo[a]pyren còn
cau và vôi thì có tác dụng ngược lại. Một công tác tương đối mới hơn (1989) (7) nhấn
mạnh vai trò của những alcaloid trong miếng trầu vì chúng tác dụng với vôi để cấu tạo
những gốc tự do phá hoại màng nhầy trong miệng, nơi mà vôi đã từng gây viêm. Đằng
khác, thuốc lá vừa gây phản ứng nitroso hóa các alcaloid kia vừa đem thêm vào những
nitrosamin độc hại của chính mình. Tuy nhiên các tác giả công nhận là không có thuốc
lá, miếng trầu chưa chắc đã gây ung thư. Thiếu vitamin trong cơ thể, hoạt động vi khuẩn
trong miệng và tác dụng gây kích thích của vôi và cau là những tác nhân tiềm lực.
Theo Giáo sư P.C. Gupta (8), người đã theo dõi lâu ngày lãnh vực nầy bên Ấn Độ, tuy
khảo cứu dịch tể học cũng như thực nghiệm không chứng minh được miếng trầu không
thêm thuốc lá đã đem lại ung thư, cau trong miệng đã gây những xơ dưới niêm mạc
trong miệng tức là một tổn thương tiền ung thư. Một người hút thuốc đã có sẵn những
xơ nầy tất nhiên dễ bị ung thư hơn những người khác. Ông lập chương trình phòng
ngừa : ngừng hút thuốc nếu ăn trầu và khám nghiệm kịp thời để phát giác thời tiền ung
thư. Sau cùng, một công tác khảo cứu tại viện Đại học Đài Loan (10) đặt lại toàn thể vấn
đề. Theo các tác giả bài báo nầy thì tính độc của polyphenol, alcaloid và tannin trong
cau chưa được chứng minh rõ ràng và cần phải được xem lại. Phản ứng oxi hóa những
polyphenol của cau trong nước miếng người ăn trầu cho phát xuất những loại oxi có
hoạt tính lớn là mấu chốt mọi khởi xướng và phát triển ung thư miệng. Phản ứng nitro
hoá những alcaloid cấu tạo nên những nitroamin đặc thù của cau đã được chứng minh
là những chất gây đột biến, rất độc về mặt gen và có khả năng cho đột nhập u khối vào
thú vật như arecaidin và phần chiết từ cau. Nhiều thí nghiệm sẽ cần được thực hiện để
nêu rõ sự chuyển hóa của những thành phần cau và vai trò của chúng trong phản ứng
-6-
nhiều đợt gây ung thư hầu mong từ đấy tìm ra phương pháp phòng ngừa và chữa ung
thư miệng cũng như u xơ dưới niêm mạc miệng.
Song song với những khảo cứu y khoa kia, kỹ nghệ cũng kiếm cách ứng dụng những
tính chất của cau. Những phenol có khả năng bảo vệ những nucleotid chống tác dụng
phá hoại của những enzym nên được dùng bảo vệ thức ăn như dưa chuột để giữ
hương vị. Chúng ức chế urease chế tạo ammoniac trong urea nên được dùng làm thuốc
thơm trong vật liệu bảo dưỡng mèo. Người ta đã làm thuốc nhuộm vải, lụa với phần
chiết từ cau. Tannin được trộn với natrium sulfat, natrium carbonat làm thuốc nhuộm tóc
đen xám (15). Nhờ chất proanthocyanidin, đặc biệt chất epicatechin-catechin, cau đưọc
hòa với acetyl glutamin acetat, butylen glycol glycerol trong ethanol và nước thành thuốc
kích thích tóc mọc (19). Một loại giấm giàu enzym và amin acid, xúc tiến sự tiêu hóa, gồm
có một phần hột cau, nước gừng, cải củ, khoai mài,... Thân cây cau có nhiều lignin, ít
hollocellulose, có tính chất cơ lý học tương đương với các gỗ cứng khác thường được
dùng làm giấy. Vỏ trái cau đem xử lý với nấm đỏ Phanerochaete chrysosporium tăng số
lượng protein lên quá 100%, còn nếu để nguyên cho ủ thì lignin hủy hoại đến 62%
nhưng năng suất khí methan phát ra tăng lên 48%. Tôi rất ngạc nhiên chưa thấy một
nước nào, nhất là các nước ít giàu, dùng vỏ trái cau làm bót đánh răng, vừa rẻ tiền, vừa
vệ sinh.
Mỗi lần về quê, nhìn hàng cau trong nắng, tôi nhớ đến Hàn Mặc Tử, nhớ qua thôn Vỹ,
nhớ về Nam Phổ làng xưa. Trong tai tôi bên phương trời Tây luôn còn văng vẳng giọng
hát ngọt ngào của Thu Hiền :
Nhà anh có một vườn cau,
Nhà em có một vườn trầu,…
Võ Quang Yến
Trích "Thông tin Khoa học và Công nghệ 2(28) (2000) 3-11"
(có sửa chữa và bổ túc tài liệu)
Tham khảo
(*) Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà
Nội (1968/1986) 135,190
1- Solange Thierry, Le bétel trong Catalogues du Musée de l'Homme, I. Inde et Asie
du Sud-Est, 14-20
2- Dawn F. Rooney, Betel Chewing. Traditions in South-East Asie trong Images of
Asia (1993) 1-15
3- Ngô Văn Doanh, Tháp cổ Chămpa. Sự thật và huyền thoại, nxb Văn hóa – Thông
tin (1994) Hà Nội 175-186
4- Nguyễn Ngọc Chương, Trầu cau Việt điện thư, nxb Hồ Chí Minh (1990/1997)
18 ; 4a- Trần Ngọc Thêm, Lời giới thiệu
5- International Agency for Research on Cancer, IARC Monographs on the evaluation
of the carcinogenic risknof chemicals to humains, Vol. 37, IARC (1985) Lyon 141-
202
6- I. Hirono, Naturally occuring carcinogens of plant origin, trong Bioactive
molecules, nxb Kodansha-Elsevier (1987) Tokyo-Oxford-New York 167-181
-7-
7- S. Sen, G. Takukder, A. Sharma, Betel cytotoxicity, J. Ethnopharm. 26 (1989) 217-
46
8- P.C. Gupta, Betel quid and oral cancer : prospects for prevention, Tobacco
Smoke and Mycotoxins, IARC (1991) Lyon 466-470
9- J.F. Morton, Widespread tannin intake via stimulants and masticatories,
especially guarana, kola nut, betle vine, and accessories,Basic Life Sci. 59 (1992)
739-65
10- J.H. Jeng, M.C. Chang, L.J. Hahn, Role of areca nut in betel quid-associated
chemical carcinogenesis : current awareness and future perspectives, Oral
Oncology 37(6) (2000) 477-92
11- P.C. Das, Oral contraceptive (long-acting), Brit. 1,445,599 (1976) 11tr.
12- J. Inokuchi, H. Okabe, T. Yamauchi, A. Nagamatsu, G. Nonaka, I.
Nishioka, Antihypertensive substance in seeds of Areca catechu L.,Life Sci. 38(15)
(1986) 1375-82
13- K. Uchino, T. Matsuo, M. Iwamoto, New 5’-nucleotidase inhibitors, NPF-86IA,
NPF-86IB, NPF-86IIA, and NPF-86IIB from Areca catechu. Part I. Isolation and
biological properties, Planta Med. 54(5) (1988) 419-22
14- T. Matsuo, M. Iwamoto, Y ? Tonosaki, A. Fukuchi, Novel antitumor substances
from betel nut, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 63,307,892 (1988) 24tr.
15- K. Mizumaki, Hair dyes extracted from plants, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
02,138,114 (1990) 7tr.
16- A. Fukuchi, M. Iwamoto, K. Uchino, H. Ogawara, H. Hideki, N. Yamamoto, Virucide
extraction from betel nuts for treating human immunodeficiency virus
infection, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 02,196,725 (1990) 22tr.
17- M. Iwamoto, K. Ugino, Y. Toukairin, K. Kawaguchi, T. Tatebayashi, H. Ogawara, Y.
Tonosaki, The growth inhibition of Streptococcus mutans by 5’-nucleotidase
inhibitors from Areca catechu L., Chem. Phar. Bull. 39(5) (1991) 1323-4
18- S. Shirota, K. Myazaki, M. Ichioka, T. Yokokura, Skin-lightening cosmetics
containing melanin inhibitors from plants, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 06,227,960
(1994) 54tr.
19- T. Takahashi, Y. Kobayashi, M. Kawamura, Y. Yokoo, T. Kamiya, T. Tamaoki, Hair
growth stimulant , PCT Int. Appl. WO 96 00, 561 (1966) 22 tr.
20- T. Wada, T. Mizumo, K. Uchino, Glycerophosphate dehydrogenase inhibitors,
their use as food additives, and antiobesity foods containing them, Jpn. Kokai
Tokkyo Koho JP 09,286,734 (1997) 6tr.
21- Y. Yahamara, T. Aoki, K. Miyake, H. Shioda, Agents and method for improvement
of flagrances and flavors using Piper betle extracts, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
11130685 (1998) 8 tr.
22- Y. Yamahara, Anti-allergic effects of Piper betle, Food Style 21 2(4) (1998) 66-8
23- J. Yamahara, Allergy inhibitors containing extracts of Piper betel, Jpn. Kokai
Tokkyo Koho JP 11130685 (1999) 5 tr.
24- C.K. Wang, H.Y. Su, C.K. Lii, Chemical composition and toxicity of Taiwanese
betel quid extract, Food Chem. Toxicol. 37(3-2) (1999) 135-44
-8-

No comments: