Sunday, September 9, 2012

TRẦN BÌNH NAM * NGƯỜI CHI DÂU

 TRẦN BÌNH NAM 
 NGƯỜI CHI DÂU


Lần này về quê ở lâu, ý muốn nhìn lại ngôi nhà cũ nơi đó bà Linh đã sống với Bình và đã đau khổ buồn giận bố mẹ chồng bỏ đi trở lại thôi thúc bà mãnh liệt. Nhưng bà còn do dự. Bà tự hỏi: "thăm gì và còn gì để thăm?" Bà sợ khơi lại đống tro tàn dî vãng.

Nhưng bây giộ bà đã quyết. Chiều hôm qua ra vườn chơi với Thúy đang chăm mấy luống rau, vừa lúc mẳt trời đang xuống, bặu trời sáng rực, nắng vàng chiếu vắt lên qua một đám mây trắng lớn làm nổi bật giữa bầu trời một đàn chim đang đập cánh lơ lửng bay về hướng chân trời. Bức tranh gợi lại hình ảnh bà thường thấykhi cùng sống với Bình. Mỗi chiều, cơm nước xong, bà và Bình thường mang ghế ra trước sân nhà nhìn mắt trời lặn và nhìn những đàn chim lạc lỏng bay vội về tổ. Mùa thu, Bình thích vừa nhìn chim bay vừa hátđủ cho bà Linh nghe: "Đến nay thu tàn, phương xa kìa chiếc én bay về ...Khuất trong mây ngàn, riêng ta nhìn đâu thấy bóng quê ..." Tiếng hát của Bình như còn văng vãng đâu đây. Linh bỗng thấy nhớ Bình tha thiết, nhớ nơi bà đã hưởng mộng đẹp thuở ban đầu của người con gái.


Tắm xong, bà Linh chọn một chiếc áo mầu hoa cà là mầu Bình thích nhất,trang điểm vội vàng rổi ra đi. Băng qua mấy con đường làng quen thuộc dẫn về phía bờ sông Hương bà thấy khung cảnh lạ dần, cây cối không còn um tùm như trước, nhường chỗ cho nhiều nhà mới mọc chen chúc nhau, mái tranh xen lẫn mái ngói. Đến một cánh đồng nhỏ trồng lúa, bà Linh thấy con đường tỉnh lộ chạy sát bờ sông. Một kiệt nhỏ rẽ từ tỉnh lộ là đường dẫn đến nhà Bình. Bà Linh không chắc mình vào đúng lối nếu đầu kiệt nhỏ không có cái miếu thành hoàng nay đã bỏ hoang. Thời gian ngắn ngủi ở với Bình mỗi lần về nhà thăm mẹ trở lại bà Linh đã lấy miếu thành hoàng này làm chuẩn để nhận ra đường. Bà bồn chồn. Gần năm mươi năm bà mới trở lại con đường nhỏ này. Cũng gần 50 năm bà không giữ quan hệ nào với gia đình Bình. Bố mẹ Bình chắc không còn, nhưng còn mấy em của Bình? Hai người em, một trai một gái xê xích tuổi với bà, và một chú em út tên là Vạn hồi đó đã 12 tuổichưa biết gì và là người độc nhất trong gia đình có cảm tình với bà. Nhiều khi thấy bà khóc một mình, chú bé Vạn đến bên cạnh ngây thơ hỏi: "sao chị khóc?" rổi hôn lên má chị trước khi bẽn lẽn chạy đi.

Kiệt nhỏ đầy con nít, chỗ này mấy đứa đánh bi cãi nhau chí chóe, chỗ kia mấy đứa tụ lại bên cạnh một quán nhỏ mua bánh kẹo. Mấy đứa lớn ngẫng nhìn bà Linh như nhận ra người khách lạ. Bà nghe chúng thì thào: "Việt kiều tụi bây ơi!" Bà mĩm cười. Danh hiệu Việt kiều từng mang đến cho bà vui cũng như buồn. Vui khi được cưng chiều vì Việt kiều có nghĩa có khả năng tiêu rộng rãi, buồn khi bị đối đãi như một người khách lạ trên chính quê hương mình. Bà Linh cảm thấy lạc lỏng.


Mẳt trời lên đã khá cao. Ẩm độ làm khí trời thêm nóng bức. Làn gió nhờ thổitừ sông Hương im lìm không làm cho bà Linh cảm thấy mát. Bà bước vội để xua đuổi mấy ý nghĩ bực mình. Bà đã nhận ra ngôi nhà ngày xưa,hiện rõ dưới ánh nắng. Bà Linh lấy chiếc nón đang đội xuống cầm tay để quan sát ngôi nhà cho rõ hơn. Ngôi nhà mái ngói trông khô khan, quét vôi trắng, nằm gọn giữa chiếc vườn rộng không còn nhiều cây ăn trái như xưa, mấy luống khoai mì lá vàng thân thể khẳng khiu như thiếu nước.
Trong nhà văng vẳng tiếng một phụ nữ đang mắng con. Nghe giọng bà biết ngôi nhà đã đổi chủ. Lòng bà bỗng dưng tê lạnh. Quá khứ chôn chặt 50 năm muốn khơi lại một lần, một chút, cũng không còn . Tẵt cả đã trở thành dî vãng, ngay cả con đường này, ngôi nhà đó, nơi bà đã sung sướng sống với Bình. Tất cả đều xa lạ. Thời gian đã chết. Bà Linh thấy chơi vơi.
Dấu vội mấy giọt nước mắt dưới chiếc nón lá, bà Linh bước nhanh, rẽ vào lối khác trở về.

* * *
Ngổi trên máy bay trở về Thụy Sî, bà Linh thấy trong lòng bớt nặng nề. Lời chỉ dẫn an toàn của các nữ chiêu đãi viên, âm thanh của hoạt động máy bay khi
cất cánh không làm cho bà thấy lo lo như những chuyến bay trước. Bà tìm thấy sự bình an của tâm hồn sau giây phút xúc động mãnh liệt khi tìm về kỷ niệm xưa. Bà tìm cách lấp một khoảng trống để chỉ thấy một khoảng trống khác, nhưng ít nhẵt bà đã trở về thăm nơi đó.
Chiếc máy bay Jumbo 747 hạ thấp cao độ, bà Linh thấy cảnh vật quen thuộc bên dưới hiện dần ra. Bà thoải mái xem lại dây lưng an toàn, sửa thẳng lại lưng ghế, sung sướng sắp được gặp Hùng và các con.
Phi trường Geneve nhiều hành khách ngoại giao chỉ thua Nữu uớc, rộn rịp như thường lệ. Nhân viên quan thuế và di trú làm việc nhanh chóng và lễ độ.
Bà Linh theo đoàn hành khách thông qua thủ tục quan thuế và nhập cảnh xong, vội vàng bước ra ngoài. Nhận ra nét mặt rạng rỡ của mẹ, cô gái út vừa đỡ hành lý cho mẹ vừa ríu rít:
"Mẹ! Mẹ vỡ quê ngoại chuyến này lâu vui lắm hả mẹ?"
Hùng hôn nhẹ lên má vợ phụ họa:
" Con nói đúng, anh thấy em gầy di chút ít nhưng khuôn mặt thật bình an như người vừa đắc đạo. Mấy lần trước mỗi lần thăm nhà trở về anh thấy em buồn nhớ luyến tiếc một cái gì muốn mang theo chẳng đuợc. Em nghiên cứu giáo lý nhà Phật và tập thiền định đã có kết quả."
Bà Linh mĩm cười sung sướng.

* * *
Một buổi sáng đi chợ về, bà Linh thấy một phong thơ đóng dấu bưu điện Việt Nam gửi đi từ Đà Lạt. Linh tính báo cho bà một cái gì lại đến xáo trộn đời bà?
Vừa bóc thư bà vừa soát duyệt trí nhớ xem còn bạn bè nào ở Đà Lạt. Bà không còn ai thân thích ở Đà Lạt.
Bà Linh nín thở đọc lá thư, sắc mặt biến từ ngạc nhiên đến xúc động. Đọc xong, không kềm chế nổi bà đặt lá thư xuống bàn ôm mẳt khóc nức nở. Vừa lúc đó Hùng đi chơi quần vợt về. Thấy vợ khóc, phong thư còn mằm bên cạnh, Hùng thoạt nghî chắc có chuyện chẳng lành trong gia đình vợ ở Việt Nam. Nhưng Hùng không tin. Hùng biết vợ là người giỏi chịu đựng và quen kềm
Hùng thoạt nghî chắc có chuyện chậng lành trong gia đình vợ ở Việt Nam.


Nhưng Hùng không tin. Hùng biết vẼ là người giỏi chịu đựng và quen kềm chế cảm xúc. Xưa nay buồn khổ gì bà chĩ để thoáng lên nét mặt, chưa bao giờ khóc, ngay cả lặn đứa con trai thứ nhì năm đó mới 8 tuổi đị học về bị xe cán phải nằm phòng hổi sinh mấy ngày mới biết thoát chết bà cũng cắn răng chịu đựng không khóc. Hùng yên lẳng đến ngổi cạnh bà Linh, âu yếm đặt nhẹ bàn tay lên vai vợ, đôi mắt hỏi han nhìn bà không nói, sẵn sàng chia sự thống khổ với bà.
Bà Linh ngừng khóc, cặm lá thư đưa cho Hùng nhẹ nhàng bảo: "Anh đọc đi."
Hổi hộp Hùng mở bức thư:
"Đà Lạt ngày 4 tháng 6 năm 1994
Chị Linh,
Tôi xin giới thiệu để chị khỏi ngỡ ngàng. Tôi là Nguyễn Vạn Giang, em ông Nguyễn Văn Bình ở Kim Long. Chắc chị còn nhớ người chồng bất hạnh chĩ được hạnh phúc sống bên chị một năm rổi tức tưởi qua đời trong chiến tranh.
Bốn mưoi tám nạm nay, từ hổi anh tôi bị lính Pháp bắn chết rồi xô xác xuống sông như lội chị thuật lời, ba má tôi vì quá đau khổ đã không biết phải đối xừ với chĨ như thế nào cho phải. Thế rổi chị trở về với hai bác.

Một phần vì chiến tranh, một phần chúng tôi còn nhö không ai nghî đên việc tìm xác anh tôi xem đã trôi dạt phương nào, hơn nữa chỉ có chị là người duy nhẵt biết những chi tiết cuối cùng trước khi anh tôi qua đời, thì từ đó đến nay gặn 50 năm chúng tôi không hề biết tin tức của chị. Do hoàn cảnh thực tế của một đất nước bị chiến tranh và tâm lý, chúng ta hoàn toàn cắt đứt quan hệ với nhau.
Cách đây mấy năm ở Việt Nam có phong trào truy tặm thân nhân thẵt lạc trong chiến tranh, tôi về Huế hỏi thăm tin chị như bước khởi đầu truy tìm xác cüa anh tôi. Hơn nữa, chị còn nhớ chú Vạn hồi đó 12 tuổi thương chị nhất nhà, thĩnh thoảng chú Vạn hỏi tôi biêt tin tức chị ở đâu không.
Ở Huế tôi được biết chị vừa về thăm quê ở gặn 6 tháng và mới trở về Thụy Sî. Cô An bên chị cho tôi địa chỉ cüa chị.


Vậy xin chị, vì tình cũ nghîa xưa với người chổng đã khuẵt cho tôi biết thật đầy đủ chi tiết những gì chị còn nhớ vào nhăng ngày kinh hoàng nạm 1946 đó, may ra được người ta gói ghém chôn cẵt tại một nghîa trang từ sî nào đó.Hiên nay tỉnh nào cũng có nghiã trang liệt sî dành cho những người đã bỏ mình trong cuộc kháng chiến chống Pháp giành độc lập. Tại nghîa trang liệt sî Bến Cát có một ngôi mộ vô chủ đề tên Nguyễn Văn Bạc. Tôi sẽ xin khai quật để xác minh xem có phải đó là mộ phần của anh tôi không sau khi có thêm chi tiết nơi chị đã kiểm chứng. Anh tôi có một chiếc răng cời. Năm về Huế cưới chị, tôi nghe anh tôi định sẽ nhổ đi, nhưng tôi không biết đã nhổ chưa trước khi anh tôi lâm nạn.
Nạm 1946 chị trở lại Huở sau khi anh tôi qua đời, nhớ lại tôi rẵt tiếc ba má tôi và chúng tôi đã đối đãi thiếu thông cảm với chị. Mới rồi tôi đã lên Bến Cát, lên cầu Bến Củi, nhìn con sông Bến Lức khá rộng chảy dưới cặu, vào làng Hòa

định, nghe các cụ già kể lại chuyện Tây khủng bố trắng dân làng khi tái chiếm, bắn hằng loạt người đôi khi có cả phụ nữ, chúng tôi biết chị không có cách gì khác hơn là chạy lấy thân để về cho ba má tôi biết sự tình. Lúc này có cơ hội hiểu nỗi khổ tâm của chị thì ba má tôi đều đã qua đời.
Tôi rẵt mong thư chị hổi âm để chuẩn bị đi Bến Cát một lần nữa."


Đọc xong thư Hùng thấy đau nhói. Buổn và giận làm Hùng choáng váng.Nhưng Hùng kịp trấn tĩnh. Hùng hiểu nếu Linh không thổ lộ được sự thặm kín cüa cuộc đời nàng với Hùng trước khi cưới nhau thì nàng sẽ không đủ can đảm tỏ bày khi đứa con đặu lòng ra đời và hạnh phúc gia đình dồn dập tới.
Hùng nhớ thời gian thân mật với Linh trước khi cưới, hơn một lần khi đang vui bỗng nhiên Linh trở nên trang nghiêm nói: "Anh Hùng, có chuyện quan trọng này Linh phải nói với anh." thì lặn nào Hùng cũng sợ mất giây phút thặn tiên quí báu trước vẻ đẹp lộng lẫy của Linh gạt phắt: "Không có gì quan trọng hơn giây phút anh và em ở bên nhau." Bây giộ Hùng thẵm thía nỗi đau
của vợ, một mình chôn chặt sặu muộn trong lòng suốt nừa thở kỷ qua, và bỗng thấy thương vợ vô cùng.
Thấy Linh im lặng chờ đợi, Hùng âu yếm:
"Anh biết anh đã không cho em cơ hội nói chuyện này với anh từ những ngày chưa cưới nhau. Lỗi tại anh. Vấn đề bây giờ là chúng ta có nên cho các con biết không?"
Linh dứt khoát: "Không, không anh. Chúng ta không có quyền đó."

* * *

Ba hôm sau, Linh viết cho Giang.
"Chú Giang,
Thú thật với chú, chị đã ngạc nhiên và ngỡ ngàng lúc nhận được thư từ thành phố Đà Lạt gửi đến, ở đó chị không còn ai quen, lục trong ký ức cũng không nhớ ai là Nguyễn Văn Giang. Chị vội vàng đọc thư, đến hàng thứ nhì thấy chữ
Nguyễn Vạn Bình lòng chị quá xúc động. Một dî vãng rùng rợn thoáng hiện lại trong trí óc chị, vui buổn đau khổ trên 48 nạm trội xuyên qua các biến chuyển cüa đất nước mà chĨ đã chôn vùi tận đáy lòng chĩ một mình biết một mìnhmình hay.


Chị đã đọc đi đọc lại thư chú. Trước hết chị cảm tạ chú và chú Vạn đã nghî đên việc tìm kiếm hài cốt người anh quá cố, cũng là người chổng đầu cỦa chị, để mang về quê quán cho được gần mộ phần cha mẹ.
Chị cũng tự thấy lòng mình được bình thản hơn, nhất là sau khi đọc đoạn thư chú cho biết các cô các chú sau khi nghe chú tường thuật chuyến đi Bến Cát,đến cầu Bến Củi, xuống tận xã Hòa Định hỏi han các cụ già còn sống sót đã chứng kiến cảnh người Pháp khủng bố dân làng và giết những người theo kháng chiến như thế nào, đã rõ nguyên nhân cái chết bi thảm cüa anh Bình và thông cảm tại sao chị không thể ở lại tìm cho ra xác chổng trước khi trở về.
Hồi tưởng lại năm xưa khi trình bày về cái chết của anh Bình, cha mẹ và các cô chú lớn tuổi đều không tin đó là sự thật, nghi có một bí ẩn nào bên trong,rồi tìm cách không chấp nhận chị trong gia đình không một lời an üi thương


hại tội nghiệp cho tuổi xuân xanh cüa chị sớm góa bụa. Chị đành gạt nước mắt trở về nhà bố mẹ.
Như đã thuật lại cho cha mẹ cách đây 48 năm, chĨ xin ghi lại các nét chính để chú dùng làm dữ kiên xác minh mổ mả cüa anh Bình. Chú còn nhớ anh Bình là nhân viên quản lý nhà giam Ông Yệm nơi giam giữ trẻ vị thành niên phạm tội. Khi Việt Minh cướp chính quyền năm 1945, anh Bình và một số nhân viên làm việc cho chính quyền cách mạng. Qua các hoạt động của anh Bình chị biết anh đã tham gia phong trào chống Pháp từ trước. Năm 1946 khi Pháp tái chiếm Nam bộ, anh Bình hướng dẫn một số nhân viên sở Ông Yệm, trong đó có anh giáo Trinh, tham gia các tổ du kích tiếp tục chống lại người Pháp. Anh Bình giả làm dân lành sống như các gia đình khác tại một căn nhà cạnh bìa rừng để hoạt động. Cuộc sống rẵt nguy hiểm bẵt trắc vì quân Pháp bố ráp thường xuyên. Hơn một lặn anh Bình bảo chị: "Em nên tìm cách về Sài Gòn liên lạc với bà con bên ngoại cüa anh tìm đường về Huế ở với cha mẹ một thời gian. Kháng chiến thành công anh sẽ về đón em." Thế rổi lần lữa quen với hiểm nguy chị bịn rịn không rời anh được.


Một buổi sáng trước rạng đông, một tiểu đội lính Pháp ập vào chòi lá anh chị đang ẩn náu, chîa súng nạt nộ bắt anh dong tay, lục xét muốn đánh anh Bình ngay. Thấy anh Bình nói tiếng Pháp lưu loát chúng cũng nể không hành hung
anh tại chỗ.
Khi bị dẫn đi anh mặc một sơ mi trắng đã ngả màu, bên ngoài khoác một chiếc áo len màu đỏ do chính tay chị đan, quần sọt kaki vàng, chiếc răng cời của anh như chú hỏi vẫn còn nguyên.
Hôm sau, chị bôi mặt mày giả dạng bà già đi với chị Bảy, bạn cùng xóm tìm đến đồn lính Pháp. Họ cho thăm. Anh Bình khuyên chị trốn đi, vài hôm được thả anh sẽ kiếm chị.


Chị trở về nương náu nhà anh chị giáo Trinh chờ tin anh. Bữa hôm sau, một buổi sáng chị và chị Trinh vào rừng kiếm cüi trở về, vừa trông thẵy chị, anh giáo Trinh vừa khóc vừa nói: "Chị ơi! liên lạc vừa đến báo tin anh Bình đã bị
chúng giết chết rồi. Chúng bắn anh trên cầu Bến Củi trước mắt dân chúng để thị uy, xong đá xác anh xuống sông."
Chưa nghe hết câu chị ngả lăn bất tỉnh không biết bao lâu, nhờ vợ chồng anh giáo Trinh cứu chữa mới tỉnh lại. Sau đó chị lên cơn sốt liên miên. Nằm trong chòi lá chị chờ tin liên lạc viên kiếm xác anh. Các cụ già nói xác trôi sông
nhiều lắm ba ngày sẽ nổi lên. Chờ mãi không có tin tức gì. Chị nghe nói sông Bến Lức chảy về Thủ Dầu Một rồi ra sông lớn.


Không còn hy vọng kiếm được xác anh Bình để chôn cẵt, chị cùng gia đình anh giáo Trinh tìm đuờng về Thü Dặu Một . Từ đó chị về Sài gòn, may kiếm đuợc gia đình anh Khánh, bà con xa bên ngoại của anh Bình. Chị bán mấy chiếc áo cưới, thêm chút tiền giúp đỡ của anh chị Khánh ra Vủng Tàu, đi tàu thủy ra Hải Phòng, từ đó lấy tàu điện lên Hà nội, rổi đi xe lừa về Huế. Chị không thể kể lại hết mọi gian truân của chuyến đi hai tháng đó. Nhiều lúc tưởng chừng không thể mang xác về đến quê hương. Lúc đó chị vừa 18 tuổi.
Chị hy vọng với những chi tiết trên và vong hổn linh thiêng của anh Bình sẽ giúp chú định được mộ phần của anh.
Chị cầu nguyện và chờ thư chú."

* * *

Được thư Giang thông báo, năm sau từ Los Angeles Vạn đến Geneve thăm gia đình chị Linh. Trở về Vạn viết cho anh:
"Anh Giang,
Nhân có việc đi Thụy Sî em có đến thăm chị Linh và gia đình. Đã hẹn trước nên chỉ có anh chị Linh ở nhà. Chị nhìn em bỡ ngỡ không ngờ gặp lại chú bé em chồng cũ năm xưa.Chị nấu bún bò Huế đãi em, và anh Hùng tự tay mở rượu chát để mời em.
Câu chuyện trao đổi thân tình ấm áp mặc dù đối với anh Hùng em là người xa lạ, và đối với chị Linh em là hiện thân cüa một ky niệm đau buổn nhẵt của đời chị. Cả ba người đều không nhắc đến anh Bình, mẳc dù không ai quên.

Khi em đến chị Linh chào em, không ôm em vào lòng theo lối tây phương, nhưng lúc đưa em ra cửa chị ôm em vào lòng dấu vội mấy giọt nước mắt nói nhỏ: 'Chú giống anh Bình quá!' Chị không cùng với anh Hùng tiển em ra xe, chị đứng ở ngưỡng cửa nhìn theo."

* * *

Từ đó mỗi lặn đi Âu châu Vạn không đến thăm chị Linh nữa. Vào dịp Tết Vạn cũng không gửi thiệp chúc Tết chị. Vạn vẫn nhớ thương chị, nhưng chị cần được sống bình an.

No comments: