THUYẾT TRUNG ĐẠO - tránh các c¿c
Çoan.
I. TRIẾT LÝ CHO M†I NGЩI
Tri‰t lš Trung ñåo trܧc tiên ÇÜ®c dåy
cho chÜ tæng, sau dåy cùng v§i các ÇŒ tº tåi gia.XuÃt gia hay tåi gia ÇŠu có
th‹ áp døng Trung Çåo trong viŒc tu tÆp và trong Ç©i sÓng thÜ©ng nhÆt.
1. NH
N THC TRONG THỰC TI•N
NgÜ©i ƒn ñ¶ cÛng nhÜ m¶t sÓ ngÜ©i các
nܧc, khi nghe nói ljn viŒc tu hành là nghï ljn viŒc kh° hånh. Không kh° hånh
thì không phäi là nhà tu hành. Ban ÇÀu, Ngài Çã theo con ÇÜ©ng kh° hånh,
nhÜng Ngài låi thÃy quan niŒm Çó sai
lÀm. Ngài tØ bÕ kh° hånh Ç‹ theo con
ÇÜ©ng m§i, m¶t con ÇÜ©ng cách mång trong lŠ lÓi tu hành. Cu¶c cách mång này
không phäi là do ki‰n thÙc suông mà là
do th¿c t‰ chÙng nghiŒm. Cuộc
đời của đức Phật
là một minh chứng cho điŠu này. Đức
Phật đã từ bỏ
cuộc sống dật lạc
của một vị đông
cung thái tử để đi
cầu đạo. Ban đầu Ngài theo truyền
thống hành khổ của Bà La Môn giáo và dân tộc Ấn Độ. Thân hình ốm yếu, tinh thần
hao mòn, Ngài vẫn không đạt được giải
thoát. Ngài nghĩ rằng việc hành xác không phải
là một phương pháp tốt. ñó là m¶t cu¶c cách mång vŠ ÇÜ©ng
lÓi tu tÆp, khác v§i truyŠn thÓng kh° hånh cûa ƒn ñ¶. Ngài bèn xuống sông tắm rửa và dùng bát sữa
của một cô gái cúng dường.
Vì vậy, Ngài đã chứng ngộ.
Điều này cho ta thấy cuộc sống
quá sung sướng và quá cực khổ đều
là những cực đoan cần
xa lánh.
Ngài Çã nh¡c låi quá khÙ cûa Ngài
khi còn là m¶t vÎ ñông cung thái tº:
Này các tÿ kheo, ta ÇÜ®c nuôi dÜ«ng t‰ nhÎ, tÓi th¡ng,
nuôi dÜ«ng t‰ nhÎ, cÙu cánh nuôi dÜ«ng t‰ nhÎ. Này các t› kheo, trong nhà vÜÖng
phø ta, các hÒ nܧc xây d¿ng lên, trong m¶t hÒ có hoa sen xanh, trong m¶t hÒ có
hoa sen ÇÕ, trong m¶t hÒ có hoa sen tr¡ng. TÃt cä phøc vø cho ta. Không m¶t
chiên Çàn nào ta dùng, này các tÿ kheo, là không tØ Kasi ljn. B¢ng väi Kasi là
khæn cûa ta. Này các tÿ kheo, b¢ng väi Kasi là áo cánh, b¢ng väi Kasi là n¶i y,
b¢ng väi Kasi là thÜ®ng y. ñêm và ngày, m¶t l†ng tr¡ng ÇÜ®c che chª cho ta Ç‹
tránh xúc chåm lånh, nóng, bøi, cÕ hay sÜÖng. Này các tÿ kheo, ba lâu Çài ÇÜ®c
xây d¿ng cho ta, m¶t cho mùa Çông, m¶t cho mùa hå, m¶t cho mùa mÜa. Và ta, này
các tÿ kheo,
tåi lâu Çài mùa mÜa,
trong bÓn tháng, ÇÜ®c nh»ng nhåc công doanh vây, ta không có xuÓng lÀu.
V§i ta, này các tÿ kheo ÇÜ®c ÇÀy Çû vŠ s¿ giàu sang nhÜ vÆy, ÇÜ®c cÙu cánh nuôi
dÜ«ng t‰ nhÎ nhÜ vÆy (Tæng
Chi I, 162-163)
ñÙc
PhÆt cÛng thuÆt viŒc Ngài vào rØng sâu tu kh° hånh:
Này Sariputta, trong khi ta sÓng chÌ æn m¶t håt gåo, thân
th‹ ta trª thành h‰t sÙc Óm y‰u.Vì ta æn quá ít, tay chân ta trª thành nhÜ
nh»ng g†ng cÕ hay nh»ng ÇÓt cây leo khô
héo. Vì ta æn quá ít, bàn trôn cûa ta
trª thành nhÜ móng chân con låc Çà. Vì ta æn quá ít, xÜÖng sÓng phô bày cûa ta giÓng nhÜ m¶t chu°i
banh. Vì ta æn quá ít, xÜÖng sÜ©n gÀy mòn cûa ta giÓng nhÜ rui c¶t nhà sàn hÜ
nát. [ . . ].Vì ta æn quá ít, da ÇÀu cûa
ta trª thành nhæn nheo, khô c¢n nhÜ trái bí tr¡ng và Ç¡ng c¡t trܧc khi chín,
bÎ cÖn gió nóng làm cho nhæn nhíu khô c¢n. Này Sariputta, n‰u ta nghï ta hãy s© da bøng, chính da bøng
bÎ ta n¡m lÃy. Vì ta æn quá ít, nŒn này Sariputta, da bøng cûa ta bám ch¥t
xÜÖng sÓng [. . .]. Này Sariputta, n‰u ta ta Çi Çåi tiŒn hay Çi ti‹u tiŒn th©i
ta ngã quœ, úp m¥t xuÓng vì ta æn quá ít. Này Sariputta, n‰u ta muÓn xoa dÎu
thân ta, lÃy tay xoa bóp chân tay, các lông tóc hÜ møc røng khÕi thân ta, vì ta
æn quá ít. Này Sariputta, dÀu ta có cº chÌ nhÜ vÆy, theo hånh l¶ nhÜ
vÆy, theo kh° hånh nhÜ vÆy, ta cÛng
không chÙng ÇÜ®c các pháp thÜ®ng nhân, không có tri ki‰n thù th¡ng xÙng
Çáng bÆc thành (Trung Bô kinh I, ñåi SÜ tº hÓng, 80-81)
NhÆn
thÃy viŒc kh° hånh không mang låi l®i ích th¿c t‰, ÇÙc PhÆt bèn tØ bÕ ÇÜ©ng lÓi
này, b¡t ÇÀu æn uÓng và t¡m rºa.
Này thÆt không dÍ gì chÙng Çåt låc th† Ãy v§i thân th‹ Óm
y‰u kinh khûng nhÜ th‰ này.Ta hãy æn thô th¿c, æn cÖm chua. RÒi này,
Aggivessana, ta æn thô th¿c, æn cÖm chua’’. ( Trung B¶ Kinh, ñåi kinh Sacca ka, 216B)
Tinh
thÀn và th‹ xác liên hŒ v§i nhau. Nh© thân th‹ khÕe månh hÖn trܧc mà ÇÙc PhÆt
chÙng ng¶. Ngài nói:
Và này
Aggivessana, sau khi ăn thô thực và được sức lực trở lại, Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm
Ta. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm
Ta. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm
Ta.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: "Tại chỗ kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, Ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này". Như vậy Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này Aggivessana, đó là
minh thứ nhất Ta đã chứng được trong đêm canh một, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh
sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết củ húng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và š, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến; những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác
thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh nào làm
những thiện hạnh về thân, lời và š, không phỉ báng
các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến; những vị này sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú,
cõi trời, trên đời này. Như vậy Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết củ húng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Này Aggivessana, đó là minh thứ hai Ta đã chứng được trong đêm canh giữa, vô minh diệt, minh
sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do
Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Ta biết như thật: "Đây là Khổ", biết như thật: "Đây là Nguyên nhân của khổ", biết như thật: "Đây là sự Diệt khổ", biết như thật: "Đây là Con đường đưa đến diệt khổ", biết như thật: "Đây là những lậu hoặc", biết như thật: "Đây là nguyên nhân của lậu hoặc", biết như thật: "Đây là sự diệt trừ các lậu hoặc", biết như thật: "Đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, Ta khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát" Ta đã biết: "Sanh đã diệt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa". Này Aggivessana, đó là
minh thứ ba mà Ta đã chứng được trong canh cuối, vô
minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không
phóng dật, nhiệt tâm tinh cần. Như vậy này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm
Ta.
(Trung B¶ Kinh I, ñåi
kinh Sacca ka, 216B)
Con ÇÜ©ng tu tÆp cûa ñÙc PhÆt là do
Ngài tâm cûa ngài nhÆn thÙc qua s¿ c† xát v§i th¿c t‰. ñ¡m say døc låc, con
ngÜ©i cÛng nhÜ các loài không š thÙc. NhÜng chÎu kh° hånh trên con ÇÜ©ng tu tÆp
cÛng không phäi là m¶t phÜÖng pháp tÓt. Vì vÆy ngài Çã ch†n trung Çåo, là không
kh°, không låc. Do Çó Ngài Çã chÙng ng¶.
ThÃy ÇÙc PhÆt tØ bÕ kh° hånh, b†n næm
ngÜ©i ông TrÀn KiŠu NhÜ tÕ thái Ƕ khinh thÎ vì h† vÅn chìm Çám trong quan niŒm
c° truyŠn: tu là kh° hånh, không kh° hånh là không thành t¿u.
Này Aggivessana,
lúc bÃy gi© næm vÎ tÿ kheo Çang hÀu hå ta và chúng nghï: ‘Này, Aggivessana, khi
nào sa môn Gotama chÙng pháp së nói cho chúng ta bi‰t. ‘Này, Aggivessana, khi
thÃy ta æn thô th¿c, æn cÖm chua, các vÎ Ãy chán ghét ta, bÕ Çi và nói r¢ng:’’
sa môn Gotama nay sÓng nay sÓng ÇÀy Çû vÆt chÃt, tØ bÕ tinh tÃn, trª lui Ç©i
sÓng sung túc.
(Trung B¶ Kinh I, ñåi kinh Saccaka, 216B)
ii.
TRIêT
LÝ TRUNG ñåO: Chuy‹n pháp luân: phÜÖng
pháp tu tÆp.
Sau khi Çã chÙng ng¶, ÇÙc PhÆt Çi
tìm hai thÀy cÛ, nhÜng h† Çã ch‰t. Ngài
bèn Çi ljn nÖi næm ngÜ©i ông TrÀn KiŠu NhÜ. H† tÕ thái Ƕ tôn kính Ngài nhÜng
h† không chú š l©i PhÆt giäng dåy. Bi‰t h† hi‹u lÀm, ÇÙc PhÆt vÅn theo h†, giäng
giäi cho h† con ÇÜ©ng tu tÆp, giäng cho h† trung Çåo.
1.
Không
quá thø Ƕng, không quá hæng say.
ñây là bài giäng ÇÀu tiên ÇÜ®c g†i là
Chuy‹n pháp luân:
"Ở đây, này các Tỷ-kheo,
có người tu tập như š túc câu hữu với dục định tinh cần hành (với š nghĩ) : ‘Như vậy, š muốn (dục) của ta sẽ không quá thụ động và không quá hăng say,
sẽ không co rút phía trong, sẽ không
phân tán phía ngoài, an trú với tưởng trước sau đồng đẳng (pacchàpure-sanni).
Trước thế nào, thời sau như vậy; sau thế nào, thời trước như vậy. Dưới thế nào, thời trên như vậy; trên thế nào, thời dưới như vậy. Ban ngày thế nào, thời ban đêm như vậy; ban đêm thế nào, thời ban ngày như vậy". Như vậy, với tâm rộng mở, với tâm không gò bó
(apariyonaddhena), với tâm chói sáng, vị ấy tu tập tâm (TÜÖng Ðng V,TÜÖng Ðng NhÜ š Túc).
ñÙc
PhÆt Çã ÇÜa ra nhiŠu thí dø cø th‹ Ç‹ hܧng dÅn ÇÒ ÇŒ theo phÜÖng pháp tu tÆp
m§i:
Thầy nghĩ thế nào, này Sona? Khi những sợi dây đàn tỳ-bà của Thầy quá căng thẳng, trong khi ấy, đàn tỳ-bà của Thầy có phát âm hay sử dụng được không?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Thầy nghĩ thế nào, này Sona? Khi những sợi dây đàn tỳ-bà của Thầy quá trùng, trong khi ấy, đàn tỳ-bà của Thầy có phát âm hay sử dụng được không?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Nhưng này Sona? Khi những sợi dây đàn tỳ-bà của Thầy không quá căng thẳng, không quá trùng xuống, nhưng vặn đúng mức trung bình, trong
khi ấy, đàn tỳ-bà của Thầy có phát âm hay sử dụng được không?
- Thưa được, bạch Thế Tôn.
- Cũng vậy, này Sona, khi tinh
cần tinh tấn quá căng thẳng, thời đưa đến dao động; khi tinh cần tinh tấn quá thụ động, thời đưa đến biếng nhác. Do vậy, này Sona, Thầy phải an trú tinh tấn một cách bình đẳng, thể nhập các căn một cách bình đẳng, rồi tại đấy nắm giữ tướng.
(Tæng Chi Bô Kinh, chÜÖng VI,Sáu Pháp, ñåi phÄm)
ñÙc
PhÆt cÛng ÇÜa ra m¶t thí dø khác:
Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau: "Sự tinh cần quá độ khởi lên nơi Ta, và vì có tinh cần quá độ, nên định lực biến diệt nơi Ta; khi định bị biến diệt, hào quang biến mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp. Ví như, này
các Anuruddha, một người với hai tay bắt nắm quá chặt một con chim cáy khiến con chim chết liền tại chỗ. Cũng vậy, này các Anuruddha, tinh cần quá độ khởi lên nơi Ta. Vì có tinh cần quá độ... cùng với sự hiện khởi các sắc pháp. Vậy Ta phải làm thế nào để nghi hoặc, không tác š, hôn trầm, thụy miên, sợ hãi, phấn chấn, dâm š, và tinh cần quá độ không khởi lên nơi Ta nữa". (Trung Bô Kinh III, 128. Kinh Tùy phiền não)
2. Không døc låc, không hành
kh°:
Bài
thuy‰t giäng này cÛng ÇÜ®c ÇÙc PhÆt giäng thuy‰t trܧc tæng chúng:
Phàm lạc gì liên hệ với dục nhưng đam mê loại hỷ hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc Thánh, không liên hệ mục đích, pháp như vậy là có đau khổ, có phiền lao, có ưu não, có nhiệt não,
thuộc tà đạo. Phàm lạc gì liên kết với dục, nhưng không đam mê loại hỷ hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc Thánh, không liên hệ mục đích, pháp như vậy không có đau khổ, không có phiền lao, không có ưu não,
không có nhiệt não, thuộc chánh đạo. Phàm hành trì tự kỷ khổ hạnh nào, khổ đau, không xứng bậc Thánh, không liên hệ mục đích, pháp như vậy có đau khổ, có phiền lao, có ưu não, có nhiệt não,
thuộc tà đạo. Phàm không hành trì khổ hạnh nào, đau khổ không xứng bậc Thánh, không liên hệ mục đích, pháp như vậy không có đau khổ, không có phiền lao, không có ưu não,
không có nhiệt não, thuộc chánh đạo". Khi được nói đến "Chớ có hành trì dục lạc, hạ liệt, đê tiện, không xứng bậc Thánh, không liên hệ mục đích, và cũng không nên hành trì tự kỷ khổ hạnh, đau khổ, không xứng bậc Thánh, không liên hệ mục đích", chính do
duyên này, được nói đến như vậy. Khi được nói đến "Từ bỏ hai cực đoan ấy, có con đường Trung đạo đã được Như Lai giác ngộ, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết-bàn", do duyên gì được nói đến như vậy ? Đây là con đường Thánh tám ngành, tức là
chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh
niệm, chánh định. Khi được nói đến "Từ bỏ hai cực đoan ấy, có con đường Trung đạo đã được Như Lai giác ngộ.. giác ngộ, Niết-bàn", chính do duyên này, được nói đến như vậy. (Trung B¶ Kinh
III, 139. Kinh Vô tránh phân biŒt )
Trong bÙc thÜ gºi cho Vinh MÆu Th¿c,
Công Cäo thiŠn sÜ cÛng nh¡c låi l©i PhÆt dåy vŠ trung Çåo:
ñã Çem
thân tu tÆp thiŠn, ÇiŠu quan tr†ng nhÃt là không ÇÜ®c v¶i, vì v¶i quá hóa ra
trì trŒ, nhÜng cÛng không ÇÜ®c thä lÕng vì thä lÕng tÃt Çâm ra lÜ©i bi‰ng. Cái
lš trung Çåo này khó nói ra ÇÜ®c chÌ có th‹ ví nhÜ cách lên giây Ç©n, không
cæng quá cÛng không lÕng quá thì Ç©n m§i ra khúc ÇiŒu ( Chang Chen Chi, 152-153)
3. Tránh các quan Çi‹m c¿c Çoan.
TØ trܧc ljn nay, các tri‰t gia thÜ©ng nêu ra nh»ng cu¶c
tranh luÆn sôi n°i. Ngay trong th©i ÇÙc PhÆt tåi th‰, nhiŠu tông phái khªi lên
tranh luÆn vŠ nhiŠu vÃn ÇŠ. nhÃt là các vÎ Bà La Môn có nh»ng tÜ tܪng c¿c Çoan:
"Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác
không có quả báo" .(TrÜ©ng B¶ Kinh 2,Kinh TŒ túc 7)
-"Thế giới là thường còn, thế giới là vô thường, thế giới là hữu biên, thế giới là vô biên; sinh mạng này và thân này là một, sinh
mạng này và thân này là khác; Như Lai có tồn tại sau khi chết, Như Lai không có tồn tại sau khi chết, Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết. Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".
(Trung Bộ Kinh II, 63. Tiểu kinh Màlunkyà)
Ho¥c h† bàn cãi vŠ chủ trương một phần Thường trú luận, một phần Vô thường luận, chấp bản ngã và thế giới là thường còn đối với một hạng hữu tình và vô thường đối với một hạng hữu tình khác, với bốn luận chấp (TrÜ©ng B¶ Kinh I, Kinh Phåm Võng, Tøng phÄm thÙ hai)
ñÙc PhÆt không muÓn tham gia vào nh»ng
tranh luÆn Çó nhÃt là nh»ng ÇŠ tài mâu thuÅn v§i nhau. Ngài nói:
"Tất cả là có", này
Kaccàyana, là một cực đoan. "Tất cả là không có" là
cực đoan thứ hai. Xa lìa hai cực đoan ấy, này Kaccàyana, Như Lai thuyết pháp theo trung đạo.(TÜÖng Ðng 2, XV. Kaccàyanagotta)
Này các
Tỷ-kheo, các Ông có thể nói:
"Thế nào là các hành và
các hành này là của ai?" Hay này
các Tỷ-kheo, các Ông có thể nói: "Các hành và người có các
hành này khác", hai câu hỏi ấy đồng nghĩa, chỉ có văn sai khác. Này các Tỷ-kheo,
chỗ nào có (tà) kiến:
"Sinh mạng và thân thể là một", chỗ ấy, này các Tỷ-kheo, không có Phạm hạnh trú. Này các Tỷ-kheo,
chỗ nào có (tà) kiến:
"Sinh mạng và thân thể là khác", chỗ ấy, này các Tỷ-kheo, không có Phạm hạnh trú. Này các Tỷ-kheo, từ bỏ hai cực đoan ấy, Như Lai thuyết pháp theo trung đạo, nói rằng: "Do duyên vô
minh, có các hành"
(TÜÖng Ðng II, Chuong
I, TÜÖngÐng Nhân Duyên)
4. Trung Çåo trong cu¶c sÓng
h¢ng ngày.
ñÙc PhÆt cÛng Çã thuy‰t pháp cho tæng
sï và cÜ sï vŠ trung Çåo trong cu¶c sÓng h¢ng ngày.
a.
ˆn uÓng ti‰t Ƕ:
ñÙc PhÆt không nh»ng bàn các vÃn ÇŠ siêu hình mà còn chú
tr†ng ljn nh»ng vÃn ÇŠ th¿c t‰ nhÜ vÃn ÇŠ Äm th¿c:
"Ta sẽ bảo vệ các căn, có tiết độ trong ăn uống,
(Tæng Chi B¶ Kinh,
ChuÖng V, SÙc månh h»u h†c)
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo tiết độ trong ăn uống? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như lš giác sát thọ dụng các món ăn, không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, mà chỉ để thân này được an trú và được bảo dưỡng, để (thân này) khỏi bị thương hại, để hộ trợ Phạm hạnh, nghĩ rằng: ", Như vậy, ta diệt trừ các cảm thọ cũ, và không cho khởi lên
các cảm thọ mới, và ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo tiết độ trong ăn uống.(Tæng Chi b¶ III.16.Con
ÇÜ©ng không có l‡i lÀm)
ˆn nhiŠu sinh phì mÆp, bi‰ng nhác và
gây ra bŒnh tÆt. ˆn no thì không thuÆn tiŒn cho viŒc ngÒi thiŠn. TÓt nhÃt là æn
uÓng ti‰t Ƕ, không tham Ç¡m viŒc Äm th¿c. NgÜ©i Tây phÜÖng có câu:
‘’ˆn Ç‹ mà sÓng chÙ không phäi sÓng Ç‹ æn’’
iii. tri‰t h†c cho ngÜ©I tåi gia
NhiŠu ngÜ©i hi‹u sai vŠ PhÆt giáo. H†
cho r¢ng ngÜ©i tåi gia phäi Çoån diŒt, Çoån tham, sân, si nghïa là không lao
Ƕng, không kinh doanh . Trái låi, Çi sâu vào kinh Çi‹n, ta thÃy ÇÙc PhÆt Çã
nhÆn thÙc ÇÜ®c vai trò quan tr†ng cûa các cÜ sï, các bÆc gia chû và nhân dân
trong ÇÃt nܧc.
1. Quân bình chi thu:
V§i
các cÜ sï, trung Çåo là bi‰t sÓng thæng b¢ng, quân bình xuÃt nhÆp, không quá
phung phí cÛng không quá bûn xÌn:
Ở đây, này Byagghapajja,
thiện nam tử sau khi biết tài sản nhập, và sau khi biết tài sản xuất, sinh sống một cách điều hòa, không quá phung phí, không quá bỏn xẻn. Vị ấy suy nghĩ: "ñây là tiền nhập của ta, sau khi trừ đi tiền xuất, còn lại như vậy; không phải đây là tiền xuất của ta, sau khi trừ đi tiền nhập, còn lại như vậy". Ví như, này
Byagghapajja, người cầm cân hay đệ tử người cầm cân, sau khi cầm cân biết rằng: "Với chừng ấy, cân nặng xuống, hay với chừng ấy, cân bổng lên". Cũng vậy, này Byagghapajja, thiện nam tử sau khi biết tài sản nhập, và sau khi biết tài sản xuất, sinh sống một cách điều hòa, không quá phung phí, không quá bỏn xẻn. Vị ấy suy nghĩ: "ñây là tiền nhập của ta, sau khi trừ đi tiền xuất, còn lại như vậy; không phải đây là tiền xuất của ta, sau khi trừ đi tiền nhập, còn lại như vậy". Này Byagghapajja, nếu thiện nam tử này tiền nhập vào ít, nhưng sống nếp sống rộng rãi, hoang phí, thời người ta nói về người ấy như sau: "Người thiện nam tử này ăn tài sản của vị ấy như ăn trái cây sung".
Này Byagghapajja, nếu người thiện nam tử này có tiền nhập lớn, nhưng sống nếp sống cơ cực, thời người ta sẽ nói về vị ấy như sau: "Người thiện nam tử này sẽ chết như người chết đói". Khi nào, này
Byagghapajja, thiện nam tử này, sau khi biết tài sản nhập, và sau khi biết tài sản xuất, sống nếp sống thăng bằng đìều hoà, không quá phung
phí, không quá bỏn xẻn. Vị ấy suy nghĩ: "ñây là tiền nhập của ta, sau khi trừ đi tiền xuất, còn lại như vậy; không phải đây là tiền xuất của ta, sau khi trừ đi tiền nhập, còn lại như vậy". Này
Byagghapajja, đây gọi là nếp sống thăng bằng điều hòa.
(Tæng Chi B¶ Kinh 8, (IV) (54) Dìghajanu, Người Koliya)
2.
Kinh
Doanh và tiêu xài ÇiŠu Ƕ:
Theo ÇÙc PhÆt, các cÜ sï có quyŠn sän
xuÃt, kinh doanh vì viŒc này Çem låi công æn viŒc làm cho ngÜ©i nghèo, xây d¿ng
xÙ sª giàu månh n‰u h† làm viŒc ÇiŠu Ƕ,
không lÜ©i bi‰ng ho¥c quá siêng næng, viŒc kinh doanh cûa h† Çúng pháp, và bi‰t bÓ
thí:
Tại đây, này Gia chủ, vị hưởng dục này, tầm cầu tài sản đúng pháp và không dùng sức mạnh. Sau khi tầm cầu tài sản đúng pháp và không dùng sức mạnh, vị ấy tự mình an lạc, hân hoan, chia xẻ và làm
các công đức. Người ấy hưởng thọ các tài sản ấy, không có tham đắm, không có đắm say, không có mê loạn, thấy được sự nguy hại, có xuất ly với trí tuệ. Vị hưởng dục này, này Gia chủ, có bốn điều được tán thán. Vị ấy tầm cầu đúng pháp và không dùng sức mạnh, do điều thứ nhất này, được tán thán. Vị ấy tự mình an lạc, hân hoan, do điều thứ hai này, được tán thán. Vị ấy chia xẻ và làm các công đức, do điều thứ ba này, được tán thán. Vị ấy thọ hưởng các tài sản ấy, không tham đắm, không có đắm say, không có mê loạn, thấy được sự nguy hại, có xuất ly với trí tuệ, do điều thứ tư này, được tán thán. (Tæng Chi, chÜÖng 10 ,X. PhÄm nam cÜ sï)
Ở đây, này Gia chủ, Thánh đệ tử, với tài sản thâu hoạch được do nỗ lực tinh tấn, tích lũy được do sức mạnh cánh tay, do mồ hôi đổ ra đúng pháp, thâu hoạch đúng pháp, tự làm mình an lạc, hoan hỷ, chơn chánh đem lại an lạc; giúp cha mẹ được an lạc hoan hỷ, chơn chánh đem lại an lạc; giúp vợ con, người phục vụ, người làm công được an lạc, hoan hỷ, chơn chánh đem lại an lạc; giúp bạn bè thân hữu được an lạc hoan hỷ, là người chơn chánh đem lại an lạc. Này Gia chủ, đây là trường hợp thứ nhất, vị ấy đi đến được, đạt được sự hưởng thọ đúng phương xứ.(Tæng Chi ChÜÖng
IV.BÓn Pháp)
Ở đây, này Gia chủ, thiện nam tử thọ hưởng những tài sản thâu hoạch được do nỗ lực tinh tấn, tích lũy được... thâu hoạch đúng pháp và làm các việc phước đức. Vị ấy nghĩ rằng: "Ta thọ hưởng những tài sản thâu hoạch được do nỗ lực tinh tấn... thâu hoạch đúng pháp và ta làm các phước đức." Nghĩ vậy vị ấy được lạc, được hỷ. Này Gia chủ, đây gọi là lạc tài sản. (TANG CHI I, Chương IV - Bốn Pháp. VII. Phẩm Nghiệp Công ñức)
ñÙc
PhÆt Çã không coi nhË ngÜ©i giàu ho¥c quá tôn tr†ng h†. ñÙc PhÆt có tÜ tܪng
bình Ç£ng và ti‰n b¶ khi nhÆn thÙc ÇÜ®c vài trò cûa tÜ sän trong Ç©i sÓng xã
h¶i. Trong khi các tu sï lo phÀn hÒn thì các thÜÖng gia, kÏ nghŒ gia và ÇiŠn
chû Çã lo Ç©i sÓng vÆt chÃt cho nhân
dân, xây d¿ng kinh t‰ cho xã h¶i. H†
là nh»ng ngÜ©i h»u ích cho quÓc gia và
nhân loåi ngoåi trØ m¶t sÓ vi luÆt, phåm Çåo ÇÙc.
No comments:
Post a Comment