Thụy Khuê
Sóng từ trường II
Nguyên Sa (1932-1998)
Những năm 54-60, miền Nam chào cờ phải
hát bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống, miền Bắc phải học
thơ Bác Hồ, thì ở sân trường miền Nam, học trò tình tự
với nhau bằng thơ Nguyên Sa. Cái khác nhau giữa nhà nước
và nhà thơ là ở chỗ ấy: Một bên, người ta phải hát,
phải học. Một bên khơi khơi đi vào lòng người, không
thông hành, không gõ cửa và khi đã đột nhập vào rồi
thì dù có tẩy não nó cũng chẳng đi.
Áo Lụa Hà Ðông,
Cần Thiết, Tuổi Mười Ba, Paris Có Gì Lạ Không Em...
những bài thơ Nguyên Sa đã đi vào giới trẻ miền Nam những
năm 60 và ở lại trong lòng người như thế:
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng.Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở xung quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bầy vội vã vào trong hồn mở cửa.Gặp một bữa anh mừng một bữa
Gặp hai hôm thành nhị hỷ của tâm hồn
Thơ học trò anh chép lại thành non
Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu.Em không nói đã nghe từng giai điệu
Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh
Anh đã trông lên bằng đôi mắt chung tình
Với tay trắng em vào thơ diễm tuyệt.Em chợt đến, chợt đi anh vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu
Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
Ðể anh gọi tiếng thơ buồn vọng lại.Ðể anh giận mắt anh nhìn vụng dại
Giận thơ anh đã nói chẳng nên lời
Em đi rồi xám hối chạy trên môi
Những ngày tháng trên vai buồn bỗng nặng.Em ở đâu hỡi mùa thu tóc ngắn
Giữ hộ anh mầu áo lụa Hà Ðông
Anh vẫn yêu mầu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng.
(Áo lụa Hà Ðông)
Nguyên Sa thuộc lớp người muốn canh
tân văn học. Cuối thập niên 50, ở Pháp về, hành trang nặng
gánh Sartre, Camus, ông dạy triết học trong những lớp luyện
thi tú tài, thời ấy gọi là cua riêng. Cua riêng của
thầy Trần Bích Lan lúc nào cũng đông nghẹt học trò. Triết
học, nơi ông, là triết học xuống đường, thực dụng, triết
học bình dân, dễ hiểu, hợp với tạng học trò. Trong lớp,
dù là giờ Tâm lý, Ðạo đức hay Triết học hiện sinh, học
trò không thể ngủ gật vì những bản thể, những siêu hình,
những hư vô, những phương pháp luận... lọc qua lăng kính
Trần Bích Lan, đã trở thành những tiếng cười châm biếm
Tú Xương... những câu hát đối hóm hỉnh Cầu Lim, Nội Duệ...,
Trần Bích Lan đến với tuổi trẻ qua ngả học đường bằng
hình ảnh người thầy Tây học, hiện sinh, tài hoa và thơ
mộng.
Rồi Thơ Nguyên
Sa ra đời. Ra đời trong bối cảnh Mai Thảo giã
từ Hà Nội, Vũ Thành mơ giấc
mơ hồi hương, Thanh Tâm Tuyền không
còn cô độc, Cung Trầm Tưởng, Phạm Duy hát tiễn
em giữa mùa thu Paris.
Vũ Khắc Khoan mộng thấy thần tháp rùa.
Nhật Tiến bước vào thềm hoang.
Vũ Bằng nhớ miếng ngon Hà Nội.
Bình Nguyên Lộc ký thác cho đò
dọc. Võ Phiến viết chữ tình.
Nguyễn Văn Trung đang nhận định,
Vũ Hoàng Chương mang tâm sự kẻ sang Tần.
Ðinh Hùng lạc trong mê hồn ca...
Hồi ấy, như Nguyên Sa kêu gọi: Chúng
ta -tức là những người bạn của ông- không hô hào đổi
mới suông. "Chúng ta" phải đánh đổ
những người đi trước bằng tác phẩm văn học.
"Chúng tôi" muốn đổi mới văn học, tác phẩm của chúng
tôi đây, các anh đọc xem có được không? Trước những xông
xáo xuống đường của Sáng Tạo, Nhất Linh lên
suối Ða Mê tu tiên, Vũ Hoàng Chương khề khà Kinh
Kha hề Kinh Kha và Ðinh Hùng miệt mài trên đường
vào tình sử, Nguyên Sa hóm hỉnh ném vào sân trường
trung và đại học, những hình ảnh bất ngờ:
Hôm nay Nga buồn như con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
Ðôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình
Ðể anh giận sao chả là nước biển.
(Nga)
Và học trò yêu ngay, chấp nhận ngay.
Họ dấu thơ Nguyên Sa trong áo, họ tán nhau bằng thơ Nguyên
Sa. Nhưng học sinh, sinh viên không phải là một giai cấp. Ðời
sinh viên chỉ có một thời. Ðời sinh viên sẽ chấm dứt
như tuổi trẻ. Vậy mà thơ Nguyên Sa ở lại. Tại sao? Bởi
vì nó đã tạo được một mốc thời đại.
Nguyên Sa không đổi mới vần điệu.
Cũng không làm thơ tự do. Ông vẫn dùng vần điệu của thơ
tiền chiến. Thơ ông cũng không sâu sắc gì, ông nói trực
tiếp, không ngụ ý hàm ngôn. Ông trải ẩn dụ ra để chúng
trở về với thực tế so sánh, đơn giản và dễ hiểu như
nói với học trò. Tóm lại, ông đi thẳng vào câu chuyện
yêu đương, ở chỗ con trai còn rụt rè chưa dám tán, ông
nói phắt hộ:
Không có anh lấy ai đưa em đi học về
Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học
Ai lau mắt cho em ngồi khóc
Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa.
(Cần thiết)
Cái tình ở đây là tình học trò, bồ
bịch, Tây gọi là copain, copine, hơn là tình yêu da diết, say
đắm, "trưởng thành" trong thơ Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử...
Thơ Nguyên Sa dò dẫm, vụng về như tuổi trẻ vào đời:
Chân díu bước mà mắt nhìn vương vướng
Nàng đến gần tôi chỉ dám quay đi
Cả những giờ bên lớp học trường thi
Tà áo khuất thì thầm chưa phải lúc.
(Tuổi mười ba)
Nhưng thơ Nguyên Sa cần thiết và trực
tiếp cho thời mới lớn. Cần thiết và trực tiếp cho giai
đoạn đổi mới.
Cần thiết vì ở một thời điểm
mới, nếu muốn hạ bệ quá khứ tiền chiến của các bậc
đàn anh, không lẽ lại vẫn nhai đi nhai lại một hình ảnh
người em sầu mộng của Lưu
Trọng Lư đã cũ mèm. Mà phải tạo ra một nàng thơ mới,
mốt hơn, điệu hơn. Nàng thơ này không thể tìm thấy trong
"Liên, đêm mặt trời tìm thấy"
của Thanh Tâm Tuyền với những ý thức chạy ngược trong
tiềm thức hoang loạn, học trò không hiểu gì cả.
Cũng không thể là "người em" tóc vàng xứ tuyết lên xe tiễn em đi chưa bao giờ buồn thế của Cung Trầm Tưởng. Người em không thể đầm đặc như thế.
Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến không tạo được các người em Biên Hòa, Bình Ðịnh, vì họ không sành thơ.
Cũng không thể là "người em" tóc vàng xứ tuyết lên xe tiễn em đi chưa bao giờ buồn thế của Cung Trầm Tưởng. Người em không thể đầm đặc như thế.
Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến không tạo được các người em Biên Hòa, Bình Ðịnh, vì họ không sành thơ.
Nguyên Sa đã tạo được một mẫu
người em lý tưởng: người em Bắc Kỳ
tóc ngắn, mặc áo lụa Hà Ðông và người em này
đã tức khắc thay thế người em ngồi
bên cửa sổ của Lưu Trọng Lư trong tư thế văn
học và trong lòng người.
Em bây giờ -tức là em những năm 60-
phải là em Bắc kỳ di cư. Sau
này Nguyễn Tất Nhiên có cóp lại mẫu người em của
Nguyên Sa, nhưng hơi muộn. Thời Nguyễn Tất Nhiên, các "em
Bắc kỳ di cư" tóc đã điểm sương rồi. Văn học hải ngoại
chưa có "người em". Chả biết "người
em Linda mặt ngang" của Ðỗ Kh. rồi có trở thành
"người em hải ngoại" chăng?
Sự thành công của mẫu hình người
em tóc ngắn, áo lụa Hà Ðông, buồn như con chó đói, như
con mèo ngái ngủ của Nguyên Sa không phải là chuyện
đùa, nó phản ánh tính cách áp đảo của văn học di cư
ở miền Nam, những năm chia đôi đất nước.
Người Bắc di cư, mang theo mỗi người
một hình ảnh Hà Nội trong lòng, vào hội họa, thi ca, tiểu
thuyết... Những tên tuổi như Nguyễn Gia Trí, Tạ Tỵ, Thái
Tuấn, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ, Nhật Tiến,
Mặc Ðỗ, Mặc Thu, Vũ Khắc Khoan, Vũ Hoàng Chương, Ðinh Hùng,
Cung Trầm Tưởng... thời 54-60 vẫn còn chưa rũ được hơi
hướng Hà Nội của họ. Duy nhất, có Phạm Duy, và cùng lắm
Phạm Ðình Chương, vượt trên tính địa phương, làng xóm
để tìm đến với tất cả mọi miền, ngay trong những ngày
đầu của thời kỳ chia đôi đất nước bằng Tình Ca,
Tình Hoài Hương, Con Ðường Cái Quan, Mẹ Việt Nam, Hội Trùng
Dương...
Cho nên, sự thành công của Nguyên Sa
là đã vẽ được một người em mới, điển hình cho
một thế hệ tình yêu mới, một giai đoạn văn hóa tư tưởng
mới.
Sau này khi sang Mỹ, Nguyên Sa cho xuất
bản tập Thơ Nguyên Sa II, mượt mà hơn, đầy nhục
cảm và đớn đau hơn:
Anh nắm tay cho chặt tiếng đàn
Tiếng mềm hơi thở, tiếng thơm ngoan
Khi nghe tiếng lạnh vào da thịt
Nhớ tiếng thơ về có tiếng em.
(Em gầy như liễu trong thơ cổ)
Nhưng thơ ông không còn được mọi người
chú ý đến nữa. Thơ ông đã trở thành cổ điển.
Ngày trước ông mở đường, bây giờ ông đoạn hậu. Ðoạn
hậu cho một giai đoạn khó khăn, giai đoạn mà những người
cũ đã lần lượt ra đi và lớp người mới chưa thật sự
thành hình.
*
Nguyên Sa, một bông hồng cho
văn nghệ
Những suy tưởng về sáng tạo, về
sự hình thành một tác phẩm nghệ thuật, về khái niệm thẩm
mỹ học... ít thấy xuất hiện trong văn học Việt Nam. Có
lẽ đó là lý do khiến Nguyên Sa viết Một Bông Hồng Cho
Văn Nghệ năm 1967. Ðây là một trong những tác phẩm hiếm
hoi có tính cách triết học thực dụng trong đời sống tư
tưởng và văn nghệ.
Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ đối
với Nguyên Sa tương tự như Viết Và Ðọc Tiểu Thuyết
đối với Nhất Linh. Cả hai đều tóm lược những kinh nghiệm
và suy tưởng của người cầm bút, sau một thời kỳ sống
và sáng tác.
Nhất Linh chủ yếu nghiêng về kỹ
thuật xây dựng tiểu thuyết mà Thạch Lam đã có lần đề
cập đến trong Xuôi Dòng; Nguyên Sa mổ xẻ vấn đề
suy tưởng trong sáng tác nghệ thuật. Nguyên Sa đi từ:
1- tình cảnh nhà văn Việt Nam những năm
năm mươi, sáu mươi, để 2-
tìm chỗ đứng của văn học nghệ thuật Việt Nam trong tình
thế hiện đại, để 3- bầy
tỏ về sự giàu có và nghèo nàn của văn học nghệ thuật
ta, để 4- đào sâu nỗi cần
thiết suy tưởng về nghệ thuật, ngõ hầu 5-
nhìn kỹ về ý thức và nghệ thuật, và 6-
sự sáng tạo đề tài về 7-
khái niệm thẩm mỹ học.
Những suy nghiệm đó bắt nguồn từ
nhận thức về sự cô đơn. Sự cô đơn của thế hệ
năm mươi, sáu mươi, thế hệ Nguyên Sa, mà ông gọi là "sự
cô đơn của thế hệ không có đàn anh". Ðây không phải là
sự cô đơn trừu tượng, nhập tâm nhập tủy của người
cầm bút trước trang giấy trắng mà các triết gia chuyên nghiệp
hay bàn đến. Ðây là cái cô đơn hiện thực, sờ mó được,
những thiếu vắng, mất mát, ly tán, kiệt quệ của thế hệ
làm văn nghệ sau ngày chia đôi đất nước. Nguyên Sa viết:
"Chúng ta bước vào một ngôi nhà trống rỗng, một khu vườn bỏ hoang, một vũ trụ không người, chẳng có ai trước mặt thật. [...] Bọn họ đâu cả rồi? [...] Chiến tranh đã trổ ra trăm cánh tay móng nhọn trăm đầu miệng rộng răng to để cướp mất người này bằng cánh tay vũ khí, xóa mất người kia bằng hàm răng chính trị. Người bị thủ tiêu, Khái Hưng đấy. Người phiêu bạt rừng núi, ở quê người chẳng về, đứng lại tê liệt ở bên kia vĩ tuyến, lặng lẽ rút khỏi thế giới văn nghệ hoặc khoác lên vai chiếc áo chính ủy như những tác giả Lửa Thiêng, Vang Bóng Một Thời, Gửi Hương Cho Gió. Mất cả, mất cả. [...]
Các anh hãy tưởng tượng tác giả Ðoạn Tuyệt đứng giữa bìa báo bao bọc bởi những Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Ðạo, Xuân Diệu, Huy Cận, Hồ Dzếnh, Vũ Hoàng Chương, Ðinh Hùng, Nguyễn Tuân thì khuôn mặt văn nghệ những năm Năm Mươi, Sáu Mươi sẽ khác đi không biết thế nào. Các anh thử nghĩ đi."
(Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ, NXB Ðời, California in lại, không đề năm, trang 18-19-20)
Người đi sau, không có người đi trước
để cản đường. Nguyên Sa đã nhận thấy sự trống rỗng
ấy rất sớm. Trước những bài báo đả kích Tự Lực
Văn Ðoàn, Nhất Linh không nói gì. Ðinh Hùng, Vũ Hoàng Chương
im lặng. Lớp đàn anh còn lại, đây một người, kia một
người, đã "không hợp thành một lớp
người" để đòi hỏi "chúng tôi" phải tận lực
chống, phải vượt qua hay xin gia nhập họ. "Chúng tôi" đã
phải "múa gậy trong khoảng không",
đã phải "đối thoại với chính mình", phản kháng chính mình,
không biết là mình đã tìm ra được "những
miếng võ ghê gớm" hay là chỉ "múa
may hỗn loạn".
Thế hệ năm mươi, sáu mươi, ngoài
cái cô đơn siêu hình của người cầm bút còn thêm cái cô
đơn hiện thực của một dân tộc nghèo đói, ly tán chiến
tranh. "Nhà văn, nhà thơ chỉ có số phận
mà dân tộc nó có".
Những trống rỗng mà Nguyên Sa nhận
thấy ở thế hệ ông vẫn còn kéo dài cho đến bây giờ.
Nỗi cô đơn này, người cầm bút hiện nay ở trong cũng như
ngoài nước, đều gặp phải, như một cái rớp. Thế hệ
nhà văn hôm nay vẫn đứng trước một trống vắng, một thực
tại không có đàn anh hoặc đàn anh còn sống mà kể như không
có, họ không còn là một lực lượng văn học đáng kể,
không còn là những lực cản đường để kẻ đi sau có thể
phản kháng, đạp đổ mà xông tới những cái khác, hoặc
cổ võ họ để xin gia nhập họ. Ðàn anh của thế hệ hôm
nay cũng bị dập vùi trong trận chiến rồi trong hòa bình di
tản, trong những chiến dịch luân lưu trói, cởi, cởi, trói
văn nghệ.
Sự cô đơn của thế hệ hôm nay vẫn còn dai dẳng, vẫn còn "nhập cuộc". Sự cô đơn này nằm trong khối cô đơn khổng lồ, bao trùm toàn diện những người cầm bút nhược tiểu.
Ðã biết bao lần những người làm văn nghệ Việt Nam tự hỏi: Tại sao văn nghệ chúng ta khựng lại? Chúng ta không thật sự bằng lòng với nền văn học hiện đại của mình, nền văn nghệ này phải tự kiểm và tìm ra những cần thiết để tiến bộ. Nguyên Sa cũng như những người làm văn nghệ thông thạo tình hình văn học thế giới, biết rõ hơn ai hết, là dù nền văn nghệ Việt Nam còn có những chỗ chưa hoàn hảo, chưa thật sự đáp ứng lòng mong muốn của mọi người, nhưng với những kết quả đã thu lượm được của những người đi trước, với những tác phẩm văn học của thế kỷ XVIII, XIX, XX, văn học Việt Nam, từ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Ðặng Trần Côn, Tản Ðà, Nguyễn Khuyến... đến văn học tiền chiến, văn học trong thời kỳ chia đôi đất nước và cả hiện tại bây giờ, với những thành tựu tác phẩm đã đạt được, văn học Việt Nam có thể ngẩng đầu. Chúng ta không có gì hổ thẹn cả. Nhưng tại sao văn học ta vẫn phải đứng hàng ghế chót của đại sảnh, đứng chỗ chầu rìa trong khung cảnh văn học thế giới? Tại sao? Tại sao?
Sự cô đơn của thế hệ hôm nay vẫn còn dai dẳng, vẫn còn "nhập cuộc". Sự cô đơn này nằm trong khối cô đơn khổng lồ, bao trùm toàn diện những người cầm bút nhược tiểu.
Ðã biết bao lần những người làm văn nghệ Việt Nam tự hỏi: Tại sao văn nghệ chúng ta khựng lại? Chúng ta không thật sự bằng lòng với nền văn học hiện đại của mình, nền văn nghệ này phải tự kiểm và tìm ra những cần thiết để tiến bộ. Nguyên Sa cũng như những người làm văn nghệ thông thạo tình hình văn học thế giới, biết rõ hơn ai hết, là dù nền văn nghệ Việt Nam còn có những chỗ chưa hoàn hảo, chưa thật sự đáp ứng lòng mong muốn của mọi người, nhưng với những kết quả đã thu lượm được của những người đi trước, với những tác phẩm văn học của thế kỷ XVIII, XIX, XX, văn học Việt Nam, từ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Ðặng Trần Côn, Tản Ðà, Nguyễn Khuyến... đến văn học tiền chiến, văn học trong thời kỳ chia đôi đất nước và cả hiện tại bây giờ, với những thành tựu tác phẩm đã đạt được, văn học Việt Nam có thể ngẩng đầu. Chúng ta không có gì hổ thẹn cả. Nhưng tại sao văn học ta vẫn phải đứng hàng ghế chót của đại sảnh, đứng chỗ chầu rìa trong khung cảnh văn học thế giới? Tại sao? Tại sao?
Bởi đúng như lời Nguyên Sa viết,
nhà văn, nhà thơ chỉ có chỗ đứng mà dân tộc nó có
(trang 37), chỗ đứng của một dân tộc nhược tiểu, nghèo
đói, chiến tranh, tan rã.
Ở thời Nguyên Sa viết Một Bông
Hồng Cho Văn Nghệ mọi người xôn xao hỏi nhau: Sách của
ai sắp được dịch sang tiếng Anh, tiếng Pháp? Nghe nói người
này sắp được dịch, người kia sắp được dịch? Nhưng
rồi cuối cùng vẫn trơ ra một vài tên sách, một vài địa
chỉ xuất bản. Nghe nói Nhất Linh, nghe nói Vũ Hoàng Chương...
sắp được dịch nhưng không thấy, không chắc gì cả. Kiều
và Chinh Phụ Ngâm có được dịch ra Pháp ngữ với tư cách
tài liệu sưu tầm. Nguyên Sa viết:
"Giới văn học nghệ thuật Pháp Anh không bàn đến Nguyễn Du như ta bàn đến Victor Hugo hay Lamartine, Byron hay Keats. Nghĩa là ngay khi được phiên dịch, tác phẩm của văn học nghệ thuật ta vẫn đứng ở cái chỗ khốn nạn ấy: hàng ghế chót của đại sảnh, chỗ chầu rìa trong thiên đường của anh thánh đàn em mà cả các thánh đàn anh, cả Thượng Ðế, nếu có, đều không biết tên, không biết mặt. [...]
Sartre có thể hoặc đã làm, hoặc muốn làm cái việc đọc Dos Passos bằng Anh ngữ. Evtouchenko có thể đã thử đọc Eluard nguyên tác, nhưng có nhiều hy vọng họ không biết đến Nguyễn Du và cũng chẳng bao giờ nẩy ra ý muốn, dù chỉ là ý muốn, đọc các nhà văn nhà thơ ta qua nguyên tác.
Các người làm văn học nghệ thuật Tây phương này chắc chắn không có một quan niệm kỳ thị. Vả lại họ có thể biện bạch: Không thể học hết mọi thứ tiếng để đọc văn của mỗi nước. Tôi cũng chẳng nghĩ như thế bao giờ. Nhưng đấy, tôi chỉ muốn nói đến một sự thực đơn giản này: Chỗ đứng sáng chói của Tây phương trên thế giới ngày nay, Tây phương Mỹ cũng như Nga, Anh cũng như Pháp, đã mang lại cho văn học nghệ thuật của họ cái chỗ đứng sáng chói. Và trong vùng sáng chói lòa đó, dù không chủ trương ý thức và hữu ý, các nhà văn học nghệ thuật Tây phương vẫn bị lóa mắt, không còn nhìn thấy trong vùng bóng tối, do đó chỗ đứng của văn học nghệ thuật các nước nhỏ, đã hoặc đang bị trị, nghèo đói, trong đó có ta, đã bị lệch lạc vì chỗ đứng của quốc gia, lại càng bị lu mờ hơn nữa vì khuynh hướng kỳ thị vô thức."
(Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ, trang 51, 64 và 65)
Tất cả những điều Nguyên Sa nói trên đây vẫn còn đúng, vẫn còn đang xẩy ra bây giờ.
Có thể bây giờ người ta tìm dịch các tác phẩm Việt Nam nhiều hơn năm 67, nhưng chúng ta đừng vội mừng. Tìm dịch để thỏa mãn nhu cầu exotisme, để chứng tỏ sự mở cửa của văn minh Tây phương, để thỏa mãn niềm tự tôn dân chủ, nâng đỡ những tác giả dissident, hơn là tìm dịch vì muốn thật sự tìm hiểu văn hóa Việt Nam, tìm hiểu văn hóa của một nước "nhược tiểu".
Bản dịch tiếng Anh của Nỗi Buồn Chiến Tranh, nghe đâu bán rất chạy, nhưng nếu so với nguyên tác, nghe đâu cũng lại rất đáng buồn. Hiện nay ở Pháp có những nhà xuất bản chạy về Việt Nam, tìm cách ký những giao kèo rất rẻ với các tác giả, và tìm người dịch vội vàng, cũng rất rẻ, để về Pháp, họ nhờ người Pháp viết lại bằng thứ tiếng Pháp gẫy gọn. Sách bán được. Sống được. Nghề buôn bán văn nghệ nhược tiểu này khá thịnh hành. Khởi sắc. Sống được. Niềm cay đắng là chính các nạn nhân "được dịch" vẫn tin tưởng ở cái hào quang "được dịch" mà không có phương tiện để kiểm chứng cái sự dịch kia nó đã xẩy ra như thế nào. Khuynh hướng kỳ thị vô thức của những người làm văn nghệ Tây phương mà Nguyên Sa đề cập đến năm 67, nay trở thành một khuynh hướng trao đổi, thành sự cởi mở, giao lưu mang lại rất nhiều lợi điểm xã hội, chính trị, tiếc rằng những lợi điểm này không dành cho văn học.
Nếu chúng ta nhìn rộng ra đến những
cuộc hội thảo quốc tế Việt học, chúng vẫn xẩy ra bằng
tiếng Pháp, tiếng Anh một cách tự nhiên mà người được
mời cũng như người tổ chức không thấy một trở ngại
gì. Người duy nhất phản đối việc tiếng Việt không được
sử dụng ở các hội nghị quốc tế Việt học hiện nay là
giáo sư Nguyễn Văn Trung, còn tất thẩy giới trí thức Việt
Nam, trong cũng như ngoài nước, tham dự hội nghị đều mũ
ni che tai, hồ hỡi chấp nhận mà không thấy có ý kiến phản
đối nào cụ thể (1).
Từ nhận thức Nguyễn Du phải có chỗ
đứng bên cạnh Shakespeare, Dante, Hugo, Nguyên Sa nói đến "ý
thức tìm hiểu sự thất bại" và ông phân tích những cái
nghèo nàn trong văn học nghệ thuật Việt Nam. Theo ông, cái
nghèo khổ thứ nhất của văn học Việt Nam là sự thiếu
suy tưởng quy mô về nghệ thuật, thiếu quan điểm về
nghệ thuật, về bản chất nghệ thuật, bản chất sáng tác.
Một thái độ chấp nhận quá dễ dãi, sự biến chế vội vàng, đôi khi vụng về những quan điểm văn học nghệ thuật thế giới, hay ngược lại, không biết đến những quan điểm này, hoặc biết rồi mô phỏng, bắt chước một cách thô thiển, hoặc không biết gì cả, cả ba thái độ đều nguy hiểm. Do đó, suy tưởng về nghệ thuật, về sự sáng tạo đề tài, về khái niệm thẩm mỹ học là những yếu tố cần thiết để đánh bại cái nghèo nàn trong văn học nghệ thuật của ta.
Một thái độ chấp nhận quá dễ dãi, sự biến chế vội vàng, đôi khi vụng về những quan điểm văn học nghệ thuật thế giới, hay ngược lại, không biết đến những quan điểm này, hoặc biết rồi mô phỏng, bắt chước một cách thô thiển, hoặc không biết gì cả, cả ba thái độ đều nguy hiểm. Do đó, suy tưởng về nghệ thuật, về sự sáng tạo đề tài, về khái niệm thẩm mỹ học là những yếu tố cần thiết để đánh bại cái nghèo nàn trong văn học nghệ thuật của ta.
Nguyễn Du đã nghĩ đến sự tương
phản gay go giữa Tự Do và Ðịnh Mệnh, đến ba trăm năm sau,
đến tính chất "mua vui" của nghệ thuật. Tản Ðà đã nghĩ
đến đời đáng chán hay không đáng chán. Nguyễn Công
Trứ đã nghĩ đến chí nam nhi. Nguyễn Gia Thiều, Xuân
Hương đã nghĩ đến thân phận của người phụ nữ, Ðặng
Trần Côn đến hậu quả của chiến tranh. Khái Hưng, Nhất
Linh về xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX... Tất cả những
tác giả lớn của ta đều đã có những suy tưởng về nghệ
thuật, về nhân sinh nhưng chưa có ai hệ thống hóa những
ý thức đó thành những lý thuyết cơ bản về nghệ thuật
để những người đi sau có thể dùng được như ta dùng Sartre,
Camus, Blanchot hay Breton, để những người đi sau biết được
yếu tính của cái đã có, biết cái mình đã có,
rõ hơn, là một cách để đừng đi lại lối mòn, để vượt
qua hay để làm một cái gì khác họ.
Chẳng hạn nếu chúng ta nắm rõ bản
chất cái gọi là thơ mới, thì có lẽ bây giờ chúng ta đã
vượt xa nó từ lâu, để lập ra những cái khác nó, chưa
chắc là đã hay hơn nó, nhưng chắc chắn phải khác nó.
Nếu nói đến một chúc thư văn học
của người mới ra đi, thì chúc thư của Nguyên Sa nằm ở
những dòng sau đây:
"Văn học nghệ thuật và dân tộc ta không dừng mãi ở chỗ này. Và sự di chuyển, sự đổi thay đã bắt đầu ngay từ ý thức tàn nhẫn về thất bại. Sự đổi thay của dân tộc sẽ mang lại sự di chuyển của văn học nghệ thuật. Ngược lại, làm cho văn học nghệ thuật di chuyển, đổi mới, thoát xác trong thực chất và sáng rõ trong chỗ đứng, chắc chắn sẽ là động lực có sức mạnh khỏe hơn cả kinh tế, quân sự, chính trị, làm cho đất nước hồi sinh, dân tộc vạm vỡ, tổ quốc bình phục."
Paris, tháng 5/1998
Chú thích:
(1) Ðây là tình hình tháng 5/98. Về sau có thay đổi. Có thể vì ý kiến của giáo sư Nguyễn Văn Trung đã được nghe chăng? Cho nên trong các cuộc hội thảo quốc tế về Việt học người ta đã lẻ tẻ dùng tiếng Việt.
© 1995-2001 Thụy Khuê
No comments:
Post a Comment