Saturday, September 8, 2012

NGUYỄN VĂN SÂM * LÔI PHONG THÁP

Lôi Phong Tháp
Kỳ Truyện
雷峰㙮奇傳
NGUY•N VˆN SÂM PHIÊN ÂM & CHÚ TH´CH
Hồi Thứ Năm 弟五囬
Mạo bách hiểm Diêu Trì đạo đan,
Quyết song thai phủ đường nghị chứng.
(Mạo hiểm, vào cung Diêu Trì trộm thuốc
Nói chắc đẻ sinh đôi, nơi phủ đường đoán bịnh.)
Nhắc lại:
Tuồng hát bội Nôm Lôi Phong Tháp được viết theo truyện Tàu Thanh Xà Bạch Xà, tuồng nầy được ông Huỳnh Tịnh Của nhắc trong quyển Tự Ðiển 1895 của ông, đây là tài liệu độc nhất nhắc đến sự hiện diện của tuồng nầy. Chữ Nôm trong toàn bộ tác phẩm tương đối mới, do đó chắc nó ra đời khoảng chừng từ hậu bán thế kỷ 18 đến tiền bán thế kỷ 19. Chúng tôi chỉ sưu tầm được có tám hồi đầu thôi, nhưng may là được hai bản viết tay khác nhau. Bản dùng làm trục để phiên âm xin gọi là bản A, bản phụ để so sánh chọn chữ khi cần thiết gọi là bản B.
Hồi 6 nầy hai câu toát yếu của hồi bản B viết:

Hồi Thứ Nhứt -- Lớp Một
(Ðánh Bạch Viên đồng tử, Bạch Xà mang họa.)
[Bạch Viên Đồng Tử:]
Xuân bát thiên hề thu bát thiên, Bàn Đào tiên dược dưỡng hà niên. Nguyệt minh mộc diễu y phong khiếu, thiên lãng hoa âm hướng nhựt miên[1].
Lại nói:
Phụng khán thủ động tiền, ngã Bạch Viên đồng tử[2].
Lại nói:
Nơi kim khuyết dầu say trân quả, chốn Diêu Trì mặc nhẵn kỳ hoa[3]. Học Diên Niên theo chốn tiên gia, vâng pháp chỉ giữ gìn động khẩu.
Bạch Trân Nương:
Dám bày lời bần đạo, xin mở lượng sư huynh. Bạch Trân Nương thị tiện thiếp danh, Lê Sơn động tiên nương đồ đệ. Vâng sư mệnh giáng lai trần thế, cùng Hứa Tiên hoàn kiếp tiền duyên[4]. Vì chồng nên phải tới cõi tiên, lời thiếp dám cậy cùng đạo hữu. Số là mần ni...
Bắc xướng:
Hứa lang tiếp bệnh chứng vưu kỳ,
Trần thế toàn vô dược khả y.
Văn đạo thần tiên năng khởi tử,
Lai cầu linh dược cứu phu nguy[5]. (5-2)
Lại nói:
Phiền sư huynh vào trước báo tri, thiệt ơn ấy vô cùng cảm tưởng.
Bạch Viên đồng tử:
Tĩnh quan nhãn thượng, liễu đắc căn tiền[6]. Dám cả gan lướt tới non tiên, chẳng xét phận vốn là loài quỉ. Bằng đó thiệt Lê Sơn đồ đệ, cớ sao mà yêu khí mãn thân? Lê Sơn người vừa tới động môn, cùng tiên mẫu hỡi ngồi thuyết pháp. Hội vừa xảy gặp[7], mỗ quyết chẳng dung. Kíp bắt nàng đem tới động trung, ngõ đối diện cho tường chân giả[8].
Trân Nương:
Dầu chẳng cho thời chớ, lại khiến bắt cớ sao? Ví dầu[9] tao rắn trắng non cao, thời mi cũng khỉ già non thẳm.
Lại nói:
Cứ đón ngăn chăm bẳm[10], đã không phép khẩn cầu, kíp phún xuất bảo châu quyết đả lai diện thượng[11].
Bạch Viên đồng tử:
Quái sát tha nghiệt đảng, đả trúng ngã tị lương, phụ thống thửa nan đương, nhập động trung cáo cấp[12]!
Bạch Trân Nương:
Quả phệ tề bất cập bất cập, chân thố thủ vô phương vô phương! Nếu Bạch Viên thưa lại vội vàng, (5-3) ắt Tiên mẫu khôn dung mạng bạc[13]. Ta dầu chậm bước, họa ắt theo chân. Âu là: Thâu bảo châu cấp cấp phi bôn, giá vân vụ mang mang đào thoát[14]!
Diêu Trì tiên mẫu:
Thoát kiếp nhân gian trạch diễu mang,
Phước tề thiên địa thọ vô cương,
Thanh thiều tử phủ huyền hư cảnh,
Sái lạc tiêu diêu bất lão hương.
Lại nói:
Bà sa diệu cảnh nhứt phương, ngô nãi Diêu Trì tiên mẫu.
Lại nói:
Bố địa võng chư tà bất lậu, trương thiên la vạn quái nan di[15]. Tố xưng pháp thuật tinh vi, mạc tỉ thần thông quảng đại[16].
Lại nói:
Chạy đi đâu kinh hãi, xem dường có sợ kinh? Lời kia khá kíp bày tình, mũi nọ cớ sao chảy máu?
Bạch Viên đồng tử:
Nguyện tường báo đạo báo đạo, cảm khất trần ngôn trần ngôn!
Hát khách:
Hữu nhứt yêu nhân giả đạo cô,
Lê Sơn lão mẫu mạo môn đồ,
Khẩn cầu tiểu tử lai thông báo,
Khất tứ linh đơn cứu bịnh phu[17].
Lại nói:
Tai nghe chưa tỏ tình do, mắt thấy ra hình yêu quái. Toan bắt nàng (5-4) đem lại, trình Tiên mẫu đặng hay. Triển thần oai tôi mới ra tay, thổ độc khí nó phun vào mặt.
Tiên mẫu:
Thính thuyết tâm trung hỏa phát, văn ngôn diện thượng yên sinh[18]. Căm giận thay những đảng yêu tinh, sao mà dám lờn oai tiên thánh[19]! Nễ tiên đồng phụng mạng, trầm hương liễn tảo bài. Kíp dời chân động ngoại xuất lai, ngõ xem thử hà phương yêu nghiệt[20]?
Lại nói:
Giá yêu vân tẩu thoát, nó chăng Bạch Xà tinh[21]? Khứng dung tha nghiệt súc đào sinh, truyền địa võng thiên la bố khởi.
Thiên thần, thiên tướng, hoàng cân lực sĩ :
Thừa pháp chỉ thừa pháp chỉ, tốc tuân hành tốc tuân hành! Bả địa võng thiên la mật bố, bất nhiêu tha súc nghiệt đào sinh.
Cùng xướng:
Bố địa võng thiên la trừ quỉ mị diệt yêu xà,
Thần binh tùy thần tướng,
Thiên kích dữ thiên qua,
Huy vụ mạt trục lôi xa,
Lực hoàn hoàn tận sát tà ma.
Lại nói:
Nhĩ yêu xà nhĩ yêu xà, hưu đào độn hưu đào độn[22]! Lên trời khôn phép trốn, dưới đất khó nẽo chun. Mi chẳng qua tả đạo bàng môn, sao (5-5) địch đặng thiên cơ diệu pháp?
Trân Nương:
Thiên binh vây sổ hiệp, thần phù bố tam tinh. Hướng thiên dã nan xung, nhập địa hề mạc tẩu[23]! Thế nói ngọt cũng không ra thấu, quyết hành hung hoặc có lọt vòng. Mạt càn khôn thời để hộ phòng, kiếm song báu kíp mau kháng cự. Nhứt bất phóng thử, nhị bất vu hưu. Rắn khi không thần nỡ gây cừu, thần sanh sự rắn liều tử chiến[24]. (Đánh lớn với thần tướng.)
Thiên Thần,Thiên Tướng:
Hoạch kích kim qua bố địa võng thiên la, nhứt trường hỗn chiến nguyện trừ nễ yêu ma!
Bach Xà hát khách:
Kham ta ngư võng thọ hồng la,
Sự dĩ đáo đầu mạc nại hà !
Thần Tướng cùng xướng :
Hoàn hoàn tróc nghiệt xà,
Lẫm lẫm dương thần lực,
Quyết điễn diệt yêu phân,
Phấn thân sát thử phương triêu thực.
Trân Nương hát khách:
Song kiếm thủ huy đương tả hữu,
Nhứt thân phấn dũng cự đông tây.
Thiên thần, thiên tướng cùng hát :
Lăng lăng khí thái xung xung,
Nộ khí nộ xung xung,
Ngã thần tướng triển khai đại lực,
Diệt (5-6) cuồng hung, diệt cuồng hung.
Lại cùng nói:
Dĩ khốn tại cai trung, kiếm kích mang tề hạ.
(Trân Nương quì xuống, lấy khăn càn khôn che (đầu), kiếm kích không vào được.
Thiên thần, thiên tướng:
Quái dã quái dã, kỳ nhiên kỳ nhiên! Khăn chi chi cũng báu thần tiên, sao mà lại về tay quỉ mị? Kiếm chém đà không xuể, giáo đâm cũng chẳng vào[25]!
Trân Nương:
Thần đà không động rắn chút nào, rắn lại quyết phun thần bỏ ghét. (Phun khí độc, hóa thành mây khói đầy trời.)
Hai thần tướng:
Chân yêu nghiệt yêu nghiệt, dám khoe tài khoe tài! Bả phong lôi nhị cá kỳ khai, tương yêu khí nhứt tề tận diệt[26]. (Hai tướng phất cờ gió, sấm chớp nổi ầm ầm, gió to diệt hết yêu khí.)
Trân Nương:
Khủng khiếp chân khủng khiếp, tâm kinh thậm tâm kinh! Dĩ vô lộ đào sinh, hướng thiên trung độn tẩu. (Trân Nương bay lên trời, chạy trốn, vướng vào lưới trời..)
Lại nói:
Lên trời đà khôn thấu, xuống đất kíp tàng hình. (Trân Nương niệm quyết, tàng hình, chạy trốn xuống đất, vướng vào lưới đất -địa võng.) Bỉ tiên phương quả thiệt tối linh, ngã tà thuật phiên thành vô dụng. Chun xuống đất bốn bề đều túng, trổ lên trời một phía khôn bay. Nỗi gian nan chàng hỡi có hay, lòng trinh chính trời (5-7) soi không thấu.
Hát khách:
Mạo hiểm vị phu trí thử nguy,
Hạ biên nan tẩu thượng nan phi.
Bình sinh pháp thuật chân vô dụng,
Bất miễn yêu thân lộ tướng thì.
(Trân Nương ngã xuống đất, biến ra hình rắn.)
Bạch Viên đồng tử:
Bấy chừ qua hỏi bậu[27], còn phun nữa hay thôi? Mắc lưới trời gã khó tháo lui, biến hình rắn cũng không trốn khỏi.
Tiên mẫu:
Dẫu bởi ngươi tác quái, chớ trách mỗ chẳng lành. Gươm trừ yêu đồng tử thừa hành, tru xà quái miễn lưu độc khí. (Bỗng thấy ở hướng chánh Nam có đóa mây lành, Quan Âm hiện hình, làm phép.)
Hồi Thứ Năm -- Lớp Hai
(Cứu Trân Nương, Quan Âm chỉ đường xin linh thảo.)
Quan Âm Bồ Tát:
Hiện pháp thân nhứt chỉ, tiên kiếm vật thương nhân!
Bạch Viên đồng tử:
Hải nhiên hải nhiên, kỳ dã kỳ dã! Tiên kiếm như hà bất hạ, thần cơ mạc thức kỳ trung?
Lại nói:
Đài đầu ngưỡng kiến bán không, kia chẳng Quan Âm Ðại Sĩ?
Quan Âm:
Tiên đồng tu tu sĩ, đao hạ lưu nhân lưu nhân[28]!
Tiên mẫu:
Khử loài yêu mong xuống gươm thần, dừng lịnh mỗ vì nghe tiếng Phật, vội vã rước mừng Bồ Tát, tới đây nhân có việc chi? (5-8)
Quan Âm:
Vì việc này nên phải ra đi, khuyên Tiên mẫu khá nghe phân lại.
Hát khách:
Thử thị xà tinh, dữ Hứa Hớn Văn nguyên túc đế,
Tương lai hùng mộng, thị Khôi Tinh Tử giáng nhân hoàn.
Lại nói:
Đầy tháng rồi có kẻ lâm trần, yểm nó lại Lôi Phong Tháp hạ. Ngõ đặng ứng theo lời gã, thề cùng Đại Ðế ngày xưa[29]. Sau Văn Tinh chiếm đỗ khôi khoa, đặng cáo cứu mới nên chánh quả. Nay khá tua tha gã, chẳng nên hại mạng kia. Bần đạo đà tỏ máy huyền vi, tiên mẫu khá rộng tình khoan thứ.
Tiên mẫu:
Luận một sự đả thương đồng tử, cùng tới đây thâu đạo tiên đan. Như tội kia giết đã chẳng oan, vì duyên ấy tha cho kẽo ức[30]. La võng nhứt tề phất kiếp, Bạch Xà phóng nhĩ xuất lai. (Dẹp thiên la, địa võng, thả Bạch Xà ra. Trân Nương hiện nguyên hình người như cũ.)
Trân Nương:
Đặng hiện lại hình người, khỏi hóa ra thân quỉ. Ơn cứu tử hải hà khôn ví, đức nhiêu sinh Sơn Nhạc khó tày. Mang lập khởi thân lai, kíp hướng tiền trần tạ[31].
Xướng:
Đường đường bửu toạ khánh kim tiên,
Chiếu diệu hào quang thấu cửu thiên,
Phước đẳng hà sa vô số Phật,
Ðê đầu vọng bái ngọc giai tiền.
Lại nói:
Xin Tiên Phật rộng suy, soi súc sanh gang tấc[32]. Phép chi cứu chồng tôi khi ngặt, kẽo đương cơn mang bịnh rất nghèo!
Quan Âm:
Lọ ngươi phải nhiều điều, vốn ta đà biết trước. Tiên đan nọ chử còn ao ước, cảnh lược nay nghe chỉ mà sang.
Hát khách:
Tiền Tử Vi Sơn
Nãi Nam Cực tu Chân Linh Ðộng.
Hữu hồi sinh thảo,
Thị Hớn Văn hoạt mệnh thần đan[33].
Lại nói:
Nghe lời ta dặn bảo tỏ tường, giữ lòng gã mựa đừng sai chạy[34]. Tiên mẫu hỡi Diêu Trì tự tại, bần đạo xin Nam Hải thuyên qui[35].
Tiên mẫu:
Bồ Tát đà vân lộ cao phi, tiên đồng kíp động trung hồi phản.
Tiên Đồng, Ngọc Nữ:
Diệu pháp khai, xứ xứ giai.
Địa võng phọc tà hề hoành lộ thượng,
Thiên la tróc quỉ hề lạc trần ai.
Bạch hổ thanh long hề phân hàng lưỡng dực,
Tiên động hồi qui hề giá tảo lai,
Viễn cách trần tục hề Diêu Trì (5-10) thiên cảnh,
Thụy thảo kì hoa hề tối diệu tai!
Trân Nương:
Nấm nấm vâng lời chỉ dặn, khăng khăng giữ[36] dạ ân cần, kíp giá vân lộ phi thân, mang hướng Tử Vi trực tiến[37].
Hát nam:
Mang hướng Tử Vi trực tiến,
Quyết liều mình cho đặng linh đan.
Mang sao đội nguyệt băng ngàn,
Sương tô mặt phấn gió đàn mình hương[38].
Tiết trinh cho trọn cùng chàng,
Gian tân chịu vậy nghèo nàn sá chi[39].
Hồi Thứ Năm -- Lớp Ba
(Ðộng Tử Vi, Trân Nương cầu được linh đơn.)
Lại nói:
Non Tử Vi xưa hỡi tai nghe, cung Nam Cực nay đà mắt thấy. Một áng mây lành khí toại, đòi nơi gác tía lầu hồng. Kỳ hoa thụy thảo kể khôn cùng, trân quả giai cầm xem chẳng xiết. Toan cầu dược lòng đương bức thiết, dễ ham vui tưởng việc quan du[40]. Kíp vào chốn sơn môn, đặng tới nơi động khẩu.
Bạch Lộc đồng tử dẫn:
Cơ tầm dược hữu khát vân tuyền, linh hữu sinh lai bất kể niên. Mộ bạn yên hà quy động khẩu, triêu tùy hoa thảo quá sơn biên.
Lại nói:
Phụng tiên sư khán thủ động tiền, (5-11) ngã Bạch Lộc tiên đồng thị dã!
Lại nói:
Nễ hà phương tục tử, cảm lai đáo tiên sơn[41]? Khá tua bày tỏ căn nguơn, ngõ đặng tường chưng bản mạt.
Trân Nương nói:
Thiếp nay gọi Trân Nương chữ đặt, cùng Hứa Tiên kết nghĩa phu thê. Nay tới đây là vì mần ri:
Hát khách:
Phu bệnh hiềm vô dược khả y,
Quan Âm chỉ thị thủy tường tri.
Nhứt chi tiên thảo phương năng cứu,
Ngưỡng khẩn Tiên ông vọng quảng thi[42].
Lại nói:
Xin tiên đồng mở lượng từ bi, vào chuyển báo ngõ nhờ đức thạnh.
Bạch Lộc đồng tử:
Lời nghe thảm thiết, lòng rất bi thương . Phật hẵn đà dạy đó tầm sang, nàng tua khá chờ đây thưa lại.
Nam Cực tiên ông:
Đảo cùng giáp tí bất tri niên,
Ðối trĩ thiên khu thái sán nhiên,
Thùy tượng li phương chiếu thọ diệu,
Niên niên củng chiếu ngọc giai tiền.
Lại nói:
Tử Vi cung nhàn dưỡng thiên nhiên, ngã Nam Cực tiên ông thị dã.
Bạch Lộc đồng tử:
Cung ngoại có một người nữ tử, biểu tự xưng là Bạch Trân Nương, căn do tôi đã hỏi tường, chung thủy (5-12) dám xin bày tỏ.
Hát khách:
Xưng vị y phu hiệu Hứa Tiên,
Thái tân ưu trọng chính nguy nhiên.
Quan Âm chỉ điểm lai tư cảnh,
Tiên thảo hồi sinh hạnh cứu thuyên.
Lại nói:
Nên phải vào bày tỏ căn nguyên, vốn chẳng dám riêng làm chen tiện.
Tiện ông:
Lọ ngươi phải tỏ bày ngành ngọn, vốn ta đà rõ biết căn nguyên. Thả thử yêu tu dĩ đa niên, nhiên chánh quả vị năng thành tựu. Tượng bởi trần duyên vị liễu, vậy nên nghiệp trái hỡi mang[43]. Vả lại mần ri. [44]
Lại nói:
Chốn vân phòng đồng tử kíp sang, hồi sinh thảo cho nàng một nhánh.
Bạch lộc :
Khâm thừa sư lịnh, phụng mạng bôn hành.
Lại nói:
Một nhánh này là cỏ hồi sinh, nay Tiên ông người dạy rằng... cho nhà gã đem về cứu tử.
Trân Nương nói:
Hoang mang bái tạ bái tạ, hoan hỉ nan thăng nan thăng! Tiếp lãnh lai tiên thảo ân cần, kíp giá khởi vân trình hồi phản.
Hát :
Kíp giá vân khởi không trung khoảnh khắc,
Tam thiên lý tu du bách vạn trùng,
Yên mạc mạc, vụ xung xung a! (5-13)
Hồi Thứ Năm -- Lớp Bốn
(Gian nan nguy hiểm đường về.)
Bạch Hạc đồng tử :
Vũ y như tuyết đỉnh như đan,
Trường bạn tiên gia nhựt nguyệt nhàn,
Vạn lý phi hàn phù thụy sắc,
Cửu cao thanh lệ hướng vân đoan.
Lại nói:
Nam Cực cung giá hạ tùy ban, ngã Bạch Hạc tiên đồng thị dã.
Lại nói:
Nhân thuở tiên cung vô sự, vậy nên vân ngoại nhàn du. Chốn thanh tiêu ngao ngán dầu ta, miền bích thủy dạo chơi mặc mỗ[45].
Hát:
Tam sơn cửu đảo mạc sương xâm, sương xâm
Nhứt phiến thanh vân vạn lí tâm, lý tâm.
Thân hóa thiên trì bồng đảo vãng,
Dực hoành hải tế dĩ can tầm.
Hát khách:
Cử túc khinh khinh động ngoại lâm,
Ðiều điều vân lộ giá xâm xâm,
Kỳ hoa dị thảo tùy du thưởng,
Ngũ nhạc tam sơn xứng ngã tâm.
Lại nói:
Chòm mây đen đâu tới xăm xăm, mùi tanh khét đưa qua rực rực. Gần xem hãn thiệt, quả giống yêu tinh. Kíp lướt mây đón hỏi phân minh, chi dung đó về qua đường đột.
Lại nói:
Hỡi nghiệt súc khá tua dừng gót, (5-14) có tiên đồng đón lại vấn minh[46]. (Bạch thị nghe tiếng Bạch Hạc đồng tử, hết hồn hết vía ngã xuống .)
Trân Nương nói:
Nghe kêu phút chốc dùn mình, mắng tiếng[47] thoạt bèn mọc ốc. Hạc truy lai tật tốc tật tốc, xà vô lộ nan hành nan hành! Ba hồn đà bay dõi mây xanh, chín phách lại[48] nương theo ngút bạc. (Sợ quá, té xuống đất, hiện nguyên hình rắn.)
Bạch Hạc đồng tử :
(Đồng tử biến nguyên hình hạc trắng.)
Sao chẳng ở trên mây xông lướt, lại phải sa xuống núi mà chun. Gặp tay min ắt chẳng còn hồn, giương mỏ tớ mổ cho nát xác. (Giương mỏ sắc tính mổ bỗng Bạch Oanh hiện ra trong không trung.)
Bạch Oanh nói:
Hưu uổng sát, hưu uổng sát, khá nhiêu sinh, khá nhiêu sinh! Khá nghiêng tai nghe mỗ thuyết minh, đừng mạnh mỏ nở lòng gia hại. Vâng Ðại Sĩ Quan Âm truyền dạy, e sư huynh vi diệu chưa tường. Mà hại thửa mình nàng, ắt uổng chưng số gã. Sai tiểu đệ kíp đi vội vã, tới chốn này trước đứng đợi chờ. Khuyên thuận dõi số kia, mà dung chưng mạng nó.
Bạch Hạc đồng tử :
Vốn đệ tử không hay tật đố, ghét yêu tinh chẳng khác cừu thù. Nay đà nghe Phật chỉ truyền cho (5-15), thời tua phải hồi tâm vâng dõi. Tiên Sơn hạ cúi từ ở lại, Nam Cực cung âu kíp trở về.
Bạch Oanh đồng tử :
Hạc đồng đã nương gió hồi qui, Bạch thị hãy kinh hồn tử khứ. Âu là: Niệm khởi tử hồi sinh mật chúc, tương khẩu trung tiên khí suy lai. (Đứng trước đôi má của Bạch thị, thổi khí tiên vào.)
Trân Nương:
Ngỡ hồn đà nương dõi theo mây, hay phách đặng trở về nhập xác. Cứu tử chi ân mạc trắc, hồi sinh chi đức nan lường. Nguyện trăm năm dạ tạc nhớ ơn, dâng bốn lạy cúi đầu làm lễ.
Hát nam:
Bốn lạy cúi đầu làm lễ,
Chỉ biển trời khôn kể công ơn.
Bạch Oanh đồng tử :
Ngã tiên sơn trực khứ, nễ trần thế phản hoàn. Cứu kỳ phu bịnh, lại thử tiên đan.
Hát nam:
Một lòng nắm giữ tiên đan,
Bồng Lai đây lại trần hoàn đó qua.
Hồi Thứ Năm -- Lớp Năm
(Dối lang quân chị em bày xão kế.)
Trân Nương:
Cởi mây người đã thoảng xa, nương gió ta mau dong ruổi.
Lại tán :
Gian nan vô hậu hối (4-16) hậu hối, nguy hiểm diệc an tâm an tâm! Ðản đắc hoàn sanh cải tử, hà ưu lý cựu lâm thâm.
Lại hát nam:
Tưởng nghèo lệ ngọc khôn cầm[49],
Dốc tròn đạo nghĩa, sá lầm gian nguy[50].
Mãng còn[51] cởi gió xa đi,
Phút đâu đã tới hương quê chốn này.
Tiểu Thanh thán:
Chích ảnh thê lương
Ðối nguyệt lâm,
Phong trường dạ hận,
Cô đăng tịch mịch.
Hòa khâm bạn chẩm đối sầu miên,
Na thức u sầu kết[52],
Thùy tri lạc lệ liên!
Lại nói:
Đứng trông mây trông chẳng thấy tin, ngồi xem gió xem càng thêm bực. Dầu xa lắc đi không mấy khắc, sao chậm chầy cho đến nỗi nầy[53]? Những riêng lo áy náy đêm ngày, e lỡ bước vương mang la võng.
Lại nói:
Mãng còn tưởng vọng, phút đã hồi qui. Chẳng hay là phản trở cớ chi, cho nên nỗi trì diên dường ấy[54]?
Trân Nương:
Tai xảy nghe han hỏi, lòng nghĩ lại rụng rời. Phen nay mà cầu đặng cỏ này, chút nữa chẳng còn mạng nọ. Nói chi xiết ghe đường (5-17) tân khổ, kể khôn cùng mọi nỗi gian truân.
Lại nói:
Kinh gian quan vạn tử chi trung, phương thủ đắc hồi sinh chi thảo. Phó nhà ngươi kíp liệu, lấy nước sắc vội vàng. Cứu quan nhơn ngõ đặng hồi dương, phiền tiểu tì khá tua cẩn mật: (Tiểu Thanh nghe xong, trầm ngâm không nói, đứng tần ngần ở bên, Bạch thị giận quá quát mắng.)
Lại nói:
Căm thay đầy tớ chết, đứng như xác nêm chong. Như ta nay: Cỏ thần tiên dốc đặng cứu chồng, vòng sinh tử chẳng rời đoái mạng[55]. Về khiến ả sắc cho mau mắn, cớ sao ngươi đứng vậy tần ngần? Hay là quên đôi phượng bạn loan, mà lại mộng lòng lang nết cáo?
Tiểu Thanh:
Vậy thời chị lý chưa suy thấu, nào phải tôi dạ có trớ trinh. Số là mần ri:
Hát khách:
Quan nhân thử nhựt kiến nguyên hình,
Kinh đắc Nam Kha nhứt mộng thành.
Kim nhựt tiên thang tương cứu hoạt,
Tất vân ngã bối thị yêu tinh[56].
Lại nói:
Dầu miệng nhiều chẳng rắp đổi hình, thời cũng khôn lẽ chối thoát cho khỏi ruột. Ví chăng liệu trước, chi khỏi lụy sau. Khuyên kíp toan một phép chi mầu, ngõ nói dối (5-18) tướng công cho nhẹm[57].
Bạch Trân Nương:
Nghe lời gã phân đà rất nhiệm, luận kế min liệu cũng khác thường. Âu là: Kíp mở rương lấy đoạn bạch lăng, quyết làm phép ra tài huyền diệu. Niệm mật chú thổi qua khẩu khí, (Thổi lên tấm lụa trắng rồi hô biến.) phút bạch lăng biến lại bạch xà. Gươm kíp giơ bèn chém làm ba, sân đem bỏ chớ cho hợp một.
Tiểu Thanh:
Nan thăng hỉ duyệt hỉ duyệt, dị khánh xưng dương xưng dương. Dường ấy nên pháp lực cao cường, chi còn sợ tướng công nghi hoặc. Kế nọ đã tường nhiệm nhặt, cỏ này phải sắc cho mau.
Hồi Thứ Năm --- Lớp Sáu
(Hớn Văn hết ngờ, thương hiền phụ.)
Lại nói:
Sắc vừa rồi âu kíp bưng vào, ngõ cho uống dường nào đặng biết. (Uống vào chưa được nửa khắc, tứ chi Hứa Văn máy động, Hứa Văn hoàn hồn tỉnh lại, la lên, ngồi dậy.)
Bạch Trân Nương, Tiểu Thanh:
Uống vào chưa nửa khắc, phút thấy động tứ chi. Thị tiên thuật chi nan khuy, quả thần cơ chi mạc trắc.
Hứa Hớn Văn:
Hồn hoa mê mệt, phách quế mơ màng. Kìa Tiểu Thanh còn đứng bên giường, nọ Bạch thị hỡi ngồi trước trướng. Chân quái đản chân quái đản, thị xà tinh thị xà tinh! (5-19) Bấy lâu giả dạng giả hình, luống những mê tâm mê tạng. Nay thấy gã rõ ràng hiện tướng, làm cho min kinh sợ mất hồn. Nhờ tổ tông cứu mới đặng còn, vì số mạng hỡi chưa đến thác. Khá kíp lánh đi chỗ khác, chớ còn vấn vít chốn này. Bằng một phen chẳng cứ lời này, gươm ba thước chi dung đảng quái[58].
Trân Nương:
Nghe rằng nên tức tối, thấy nói bỗng ngán ngang. Khó mở lời phân thốt tỏ tường, phút ứa lệ dầm dề tuôn chảy[59].
Tiểu Thanh:
Lời phụ bạc làm chi lắm bấy, nỗi trước sau sao chẳng hỏi han. Khi rứa chừ: Tướng công ra xem chúng đua thuyền, tiểu thư phút vừa khi tỉnh rượu. Bèn lại hậu phòng bước dạo, ngõ thăm tiểu tất lành chưa. Ngờ bỗng đâu một cái bạch xà[60], chạy tới đó vào nơi cẩm trướng. Xảy nghe đặng tướng công lên tiếng, bèn vội vàng trở lại tiền phòng. Thấy rắn kia mong hại tướng công. Tiểu thư tôi bèn mới....tuốt gươm chém bỏ ngoài tỉnh hạ[61]. Nhận thấy tướng công kinh tử, xiết chi tâm thượng ưu phiền[62]. Vậy nên tiểu thư tôi mới mần ri...
Hát khách:
Vạn khổ thiên (5-20) tân bất tận ngôn,
Yết lai lão mẫu tố căn nguyên,
Ai cầu hạnh hữu hồi sinh thảo,
Cứu liễu quan nhơn đắc phản hồn[63].
Lại nói:
Nay cớ sao phụ ngãi phụ ân, mà lại mắng rằng yêu rằng quái[64]. Xin tướng công tưởng lại, kẽo luống chịu tiếng oan. Ví tâm trung còn hỡi nghi nan, xem tỉnh ngoại thời tường chân giả[65].
Hớn Văn:
Thoáng nghe qua lời gã, thêm ngại thửa lý kia. Phải một phen đình ngoại xem qua, ngõ hai lẽ thiệt hư đặng rõ. (Bèn ngồi dậy muốn đi, Trân Nương níu tay áo Hớn Văn).
Trân Nương:
Tua chỉ trụ tua chỉ trụ, vật khinh hành vật khinh hành! Nay mới an chưa mạnh trong mình, chẳng nên vội đi ra ngoài gió[66].
Hớn Văn:
Tiểu Thanh khiến đi ra mà ngó, Bạch Thị thời níu chẳng cho coi. Quả một đoàn chập rập ngược xuôi, âu là: xô ra kẽo còn chi điên đảo. (Xô Bạch thị qua một bên, đẩy cửa phòng ra ngoài, đến giếng, thấy...)
Lại nói:
Đình trung thanh thảo, quả hữu bạch xà. Dấu nguyên hình mới chém làm ba, đất rơi máu còn tươi như một. Việc xem đà hản thiệt, lòng mới hết hồ nghi. (5-21) Phải lại nhà nhẹ tiếng vỗ về, kẽo luống đã quá lời thành phụ.
Hồi Thứ Năm -- Lớp Bảy
(Hết hoạn nạn, phu phụ vui xuân tình.)
Lại nói:
Nay mới biết ơn hiền phụ, thật là hết đạo sự phu[67]. Trót lỡ lời mắng tiếng đuổi xua, chịu lầm lỗi đây cam vạ phạt.
Trân Nương:
Chẳng nghĩ thiếp phô[68] loài yêu nghiệt, cũng ơn người tưởng nghĩa cương thường. Phụ cùng chăng việc ở tại chàng, hận với giận thiếp đâu dám nói. Tiểu Thanh vâng dạy, đình hạ kíp ra! Khá đem xác bạch xà, lấp chôn nơi không địa[69].
Lại nói:[70]
Nghĩ thân phận châu rơi lai láng, tưởng tình duyên giọt nhỏ chứa chan. Thiếp chẳng nài vạn khổ thiên tân, mới cầu đặng hồi sinh tiên thảo. Trông sống lại chồng hòa vợ hảo, ngờ sanh nghi quái vật yêu đồ. Tượng vì ta căn trước chẳng tu, nên khiến nỗi kiếp này dường ấy. Rày phải liệu gọt đầu làm vãi, đặng kíp mang chuỗi hột áo dà. Lánh cõi trần xa chốn phồn hoa, nương cửa Phật ngõ tu kiếp khác[71].
Hớn Văn:
Ta trót đà thất lật, nàng chớ khá chấp nê[72]. Đứa chết đi (5- 22) sống lại biết chi, mà tiếng nói lời ăn theo trách. Thấy rắn nọ lòng đà minh bạch, xét công nàng dạ những ai hoài. Vãi mặc ai, sư cũng mặc ai. Một ở lại, hai xin ở lại.
Bạch Xà :
Thiếp vốn thiệt yêu tinh tác quái[73], chẳng phải là nhơn loại sanh ra. Xin nghe lời cho thiếp xuất gia, ngõ khỏi nỗi hại chàng lâm ách[74].
Hớn Văn:
Cứ đem lòng chấp trách, chẳng nghe tiếng khuyên lơn. Tu là cầu đặng phước gặp duyên, tu sao muốn lìa chồng rẽ vợ. Tóc xanh đó gọt đi bao nỡ, má phấn kia đầu Phật sao đành! Vui vẻ chi tiếng kệ tiếng kinh, nong nã bấy làm sư làm vãi. Tua khá nghĩ đi nghĩ lại, chẳng nên cưu giận cưu hờn. Bắt vạ chi thời cũng thọ cam, cúi đầu chịu dọi chơi ba cái. (Nói xong quì gối, Bạch thị thấy vậy cũng quì theo.)
Bạch xà :
Quan nhơn thỉnh khởi thỉnh khởi, tiện thiếp thất ngôn thất ngôn[75]. Thưa, thưa: Dầu cho biển cạn non mòn, nói thiệt: cũng nguyện lòng ghi dạ tạc. (Hớn Văn kéo Bạch thị đứng dậy. Hai người dựa đầu vào nhau. Tiểu Thanh nhìn xuống đất, cười mím chi...)
Hớn Văn:
Mặt đà hãn mặt, (5-23) lòng hết ngờ lòng. Trăm năm ghi ơn vợ nghĩa chồng, muôn kiếp giữ thề sông hẹn núi.
Tiểu Thanh:
Nín cười nên tức tối, gẫm việc thiệt cứ trào. Ðuôi dài mèo lại khen mèo, chước nhiệm mỗ thời khoe mỗ.
Hồi Thứ Năm -- Lớp Tám
(Tri Phủ phu nhân đau tiền sản, thầy lang địa hạt bó tay.)
Tuấn Khanh:
Chức lạm chịu Tô Châu tri phủ, tôi Trần Luân biểu tự Tuấn Khanh. Trên bảng vàng chói chói danh lành, dưới con đỏ hây hây lòng duyệt. Rày gặp phu nhơn lâm sản, chỉn hiềm phúc thống bất an. Nấy cho quân chúng vâng truyền, kíp thỉnh lương y điều trị. (Quân vâng lịnh đi mời.)
Lại nói:
Rày nhân nội tử, vừa thuở lâm bồn. Ngờ bỗng đâu phúc thống bất an, phiền kíp liệu lương phương cho vội.
Một thầy thuốc:
Chứng tuy nghe nói, mặt hỡi chưa tường. Xin đồng nhập nội đường, ngõ vấn minh bịnh thể.
Lại nói:
Chưa quen làm bịnh đẻ, mắt trông thấy khôn đương. Cớ sao chỉ trời chỉ đất mà kêu van, lại hỏi quan phủ quan tri mà ngán ngẩm. Giỡ khắp sách gia truyền ra kiếm, chẳng một phương trị sản mà coi. Bịnh này thời ắt chết mà thôi (5-24), ai chịu chớ tôi xin chạy trước.
Một thầy thuốc:
Nghề làm thuốc nhờ duyên nhờ phước, chứng tôi ưa đặt cuộc đặt đàn. Như bịnh này người ra giá mấy quan, liều thuốc nọ tôi bổ thêm hai vị nữa?
Tuấn Khanh:
Thầy hãy hết lòng điều trị, rồi ta kiếm của đem cho!
Thầy thuốc :
Tôi có phương người chẳng phải lo, nó như hoa tới chừng thời nở. Áo khăn người sắm sửa, phương pháp mỗ truyền cho. Kíp tới trước sàng đầu, thành tâm mà thi lễ. Vái rằng: Nay phu nhơn người sanh người đẻ, nhờ mụ bà cho dễ cho mau. Thiệt phép ấy rất mầu, tôi những thường kiến hiệu.
Tuấn Khanh:
Thầy này nên lếu, quân kíp đuổi ra[76]. Còn mấy thầy ở lại cùng ta, kíp hội luận điều thang cho vội.
Một thầy thuốc :
Quả tích tụ lâu ngày nên khối, nên phúc trung thường bữa thời đau. Cấp tắc trị kỳ tiêu, huỡn tắc trị kỳ bổn. Một tôi trước lên thang lập luận, các thầy sau gia giảm hội đồng. Dùng tía tô hợp với (5- 25) nhị trần, nhị trần gia bạch truật bội nhiều bán hạ.
Một ông thầy khác:
Khéo thỉnh tới những thầy rất dở, quen làm vạy phỉnh chúng kiếm ăn[77]. Thang danh đọc đã sái tên, vị thuốc[78] nói không nhằm chữ. Ai uống nhằm thuốc gã, cũng bằng uống dao phay. Giờ phải toan kíp dụng an thai, thời ắt đặng tự nhiên phân miễn. (Tri Phủ sai thị tì đem thuốc cho phu nhơn uống.)
Mấy thầy thuốc nói:
Chứng chẳng sai chẳng chuyển, lòng thêm hãi thêm kinh. Nhẫn dầu Biển Thước tái sanh, ắt cũng vô phương khả trị.
Tuấn Khanh:
Thầy cũng đà hết ý, ta há dễ ép lòng. Như thuốc này dầu chẳng thành công, thôi thời rước thầy khác[79] họa may thuyên dũ.
Hồi Thứ Năm -- Lớp Tám
(Trân Nương dàn cảnh cho chồng có cơ hội trị bịnh khó.)
Trân Nương:
Nghe vợ quan Tri Phủ, lâm phải chứng sản nan. Âu ta phải dụng thần phương, ngõ đặng cứu an bịnh ngặt. Kíp giả dạng Quan Âm Bồ Tát, đến ứng lời hiện hiển mộng trung. Lén Hứa lang giấc điệp vừa nồng, nương vân lộ dinh lang kíp tới.
Tuấn Khanh:
Tưởng phu nhơn dạ luống bàng hoàng, lo thang thuốc lòng thêm rầu rĩ. Đã mời khắp (5-26) danh y điều trị, thảy đều là diệu dược vô phương. Thuốc linh đan khó nỗi hỏi han, phương Biển Thước biết đâu cầu khẩn. Thốn thức bữa ăn nào ổn, bồi hồi thức nhắp chẳng an. Vậy khiến nên khốn quyện tâm thần, tạm nương án nghỉ an phế phủ[80].
Trân Nương:
Cả kêu Trần Tri Phủ, ta nay Phật Quan Âm[81]. Thương nhà ngươi nên đã thành tâm, cứu vợ gã khỏi khi tai nạn. Vậy nên mỗ tới đây bảo dặn, khá sai người tới Bảo An Ðường. Rước danh y là Hứa Hớn Văn, ắt gã ấy cứu an chứng nọ. Khá nghe lời cho rõ, tua giữ dạ đừng quên. Kíp giá nhứt vân biền, vọng thinh không hồi khứ.
Tuấn Khanh:
Giấc tỉnh vừa bợ ngợ, lòng còn nhớ như ghi. Thấy Quan Âm mình mặc bạch y, đứng trước trướng tay cầm trần vĩ. Trong chiêm bao chỉ vẽ, mọi lời rất tỏ tường. Dạy ta thời mời Hứa Hớn Văn, rằng gã ắt cứu an chứng ấy. Nào hai gã trưởng ban nghe vậy, nầy một tờ thỉnh thiếp vội vàng. Kíp tới Bảo An Ðường, rước Hớn Văn cho (5-27) đặng.
Hai ông trưởng ban :
Ngửa vâng sai khiến, đâu dám khiên trì. Lãnh thiếp tử bôn phi, vọng điếm môn trực chí.
(Hồi Thứ Năm -- Lớp Chín
(Hớn Văn được mời trỗ tài đoán trị bịnh. )
Hớn Văn:
Rày thanh nhàn vô sự, đặng thong thả tư đình. Vài tuần châm chén cúc tiệc quỳnh, hai ta khá ngâm thơ thưởng cảnh.
Trân Nương:
Quan nhơn đã khiến, tiện thiếp lạm tường. Ca tay rót chén pha lê[82], đồng vận tả ngâm châu ngọc.
Cùng ngâm :
Giải cấu Tây Hồ hội ngộ kỳ,
Nam tài nữ mạo hợp tương ti (tư),
Tặng ngân tá tán Tô Châu nhựt,
Tục hảo tầm minh hạng điếm kỳ[83].
Lưỡng ý châu hoàn thiên tác hợp,
Bách niên thân thế lão vi kỳ.
Tương lân đản nguyện trường tương đối,
Xuân tại đình giai, nhật ảnh trì[84].
Hớn Văn:
Xướng hòa hợp bạn trúc mai, vui vẻ thỏa lòng tiêu khiển.
Đào Nhân:
Đồng quân sĩ hai tên mới đến, vâng phủ gia một thiếp ân cần. Rằng phu nhân lâm sản chẳng an, vậy nên: tới dược điếm rước thầy điều trị. (5-28)
Hớn Văn:
Nghe lời thêm mất vía, thấy rước bỗng kinh hồn. Vả ta tuy dược tính thường quen, vốn mỗ thiệt mạch kinh không rõ. Huống chi lại vợ quan Tri Phủ, chẳng ví như dân chúng bình thường. Nếu mà ngộ dụng dược phương, thời ắt khôn toàn tánh mạng[85]!
Trân Nương:
Quân thả hưu kinh hãn, thiếp dĩ liễu nguyên lai. Vả phu nhơn phúc nội song thai, nên giao cốt bào y nan sản. Tôi luyện[86] trước hai hoàn đã sẵn, uống vào thời song tử hạ lai.
Lại nói:
Cứu phu nhơn sanh sản an sàng, ắt lễ tạ tặng đưa chan chứa. Tiểu Thanh tua vội vã, lời ta khá kíp vâng. Vào mở rương lấy thuốc hai hoàn, đem bỏ đãy cho thầy nhứt khắc[87].
Hớn Văn:
Quả hiền phụ thần cơ mạc trắc, hữu tiên phương diệu dụng vô cùng. Đơn cứu ôn trước đã thành công, hoàn bảo sản há không kiến hiệu[88]. Kíp cất vào tay áo, mau ra tới cửa ngoài. Cùng trưởng ban chóng chóng giang tay, trông phủ lý phăng phăng dời bước. (5-29)
Hát Nam :
Trông phủ lý phăng phăng dời bước,
Mình hay mình có chước y dân.
Sẵn dành thuốc hiệu phương thần,
Chẳng hơn Biển Thước cũng gần Đào Công,
Ðường hoè ngõ hạnh lướt xông,
Muốn nên danh cả dễ trông của nhiều.
(Hồi Thứ Năm -- Lớp Mười
(Nơi phủ đường Hớn Văn trỗ tài trị bịnh. )
Tuấn Khanh:
Xin cứu lấy bịnh nghèo, kẽo mình đà rất ngặt.
Hớn Văn:
Nghe đòi lật đật, chẳng dám trì hồi[89]. Song chưa tường quí dạng là ai, xin phân lại tiểu nhân đặng hãn.
Tuấn Khanh:
Vì một nỗi phu nhân lâm sản, đã ba ngày phúc thống bất an[90]. Phương chi cứu đặng toàn, ắt là ta trọng báo.
Hớn Văn:
Người xin đừng sầu não, tớ[91] ra sức ân cần. Chúng tôi là đài hạ tý dân, một phen nguyện liều công khuyển mã. Bịnh dữ bằng không cứu chữa, danh lành sao đặng xa nghe. Đã ba ngày chúng thảy đều chê, quyết một tể đành tôi trị đặng.
Tuấn Khanh:
Bấy lâu mỗ[92] thường lòng lơ lãng[93], đến nay nghe lời thầy dạ chút mở mang. Xin dang tay đều tới phòng hương, ngõ chẩn mạch sẽ dùng thang dược. (5-30) (Hớn Văn coi mạch.)
Hớn Văn:
Vào xem mạch mới tường kinh lạc, mừng cho người rày đặng hai trai[94]. Nguyên vì một sự song thai, nên nỗi khó bề phân miễn. Thuốc nuốt trộng hai hoàn chớ tán, nước uống đưa một chén tống theo. Chừng nửa khắc chẳng lâu, ắt thai sanh tức tốc. (Đưa Tri Phủ hai hoàn thuốc, biểu tì nữ đưa cho phu nhân uống.)
Tuấn Khanh:
Đem dược hoàn cho phục, nấy thị tì vâng truyền. Y phép thầy mựa chớ tán nghiền, phó tay tớ[95] khá tua cẩn thận.
Thị nhi :
Bà tôi nên phước lớn, ông rước đặng thầy hay. Thuốc uống vào chưa đặng một giây, phu nhơn đã sanh hai công tử. Phép chi rất lạ, thấy cũng nực cười. Trong tay trái hai người, cầm thuốc ra một dạng[96].
Tuấn Khanh:
Thính thuyết ưu sầu đốn tận, văn ngôn khánh hạnh vô cùng[97]. Thầy chân quốc thủ vô song, thuốc thiệt tiên thần đệ nhứt[98].
Hớn Văn:
Ấy tượng bởi đại gia hồng phước, cùng phu nhân hỉ khánh xui nên. Xét tôi vốn tài hèn, thiệt công chi chẳng có.
Tuấn Khanh:
(5-31) Đã hay rằng phước chủ, song cũng bởi may thầy. Ví dầu không gặp phải thuốc hay, làm sao gọi đặng nên phước lớn.
Lại nói:
Dùng tinh ngân ngàn lượng, cùng thái đoạn bốn cây. Lễ kính đưa xin đáp ơn thầy, xin dùng lấy cho đành lòng chủ.
Hớn Văn:
Há dễ mấy công lao chi đó, mà dám vâng thạnh lễ dường này! E cố từ lại mích lòng người, phải phụng lãnh đặng lui gót tớ[99].
Tuấn Khanh:
Nấy gia nhân hai gã, đem tạ nghi theo dõi tiên sinh[100]. Cùng cổ thủ tám tên[101], đài kiệu tử đưa về quí điếm[102]. (Hớn Văn rời khỏi phủ)
Hớn Văn:
(Hứa Hớn Văn ra khỏi phủ, nói: ) Mới biết thời lại phong tống[103], đành hay phước chí tâm linh. Từ trước nha ren rén lui mình, bước lên kiệu thênh thênh về phố.
Lại nói:
Nhứt triêu hạnh ngộ, lưỡng hạ giai hân. Dục tri hậu sự minh trần, thả thính hạ hồi phân giải.
Hết Hồi Năm



[1] Cảnh tiên, thiên nhiên đẹp. người nhàn.
[2] Tiểu đồng nguyên là vượn trắng giữ cửa động.
[3] Nơi cung ngọc say sưa thưởng thức các trái cây quí, chốn ao Diêu Trì quá quen thuộc với các hoa lạ hiếm. Ý nói cảnh sung sướng của thần tiên.
[4] Trân Nương nói rằng mình xuống trần vì vâng theo thánh ý của tôn sư, lập gia đình cũng là vì có tiền duyên phải nối mà thôi.
[5] Chồng tôi bị bịnh lạ, ở cõi trần không thể có thuốc trị được, Nghe thần tiên ở đây có thể giúp cho khỏi chết, nên đến xin thuốc thần để cứu chồng.
[6] Nhìn kỹ thì biết tiền căn của ngươi.
[7] Hội vừa xảy gặp𣃣 侈﨤: A! Vừa được gặp ngươi ở đây!
[8] Bắt ngươi đi đối chất cho biết thiệt hư. Dữ quá, người ta đến xin thuốc cũng nói chuyện tử tế. Thế mà!
[9] Ví dầu 𠸠 : nếu mà. Ví dầu tình bậu muốn thôi, bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra... CD
[10] Chăm bẳm : chầm chập.
[11] Bị phun ngọc rắn ra thẳng vô mặt. Đáng đời kẻ làm phách!
[12] Đau quá phải vào động mét thầy!
[13] Gì mà dữ vậy? Đánh người bị thương đâu có gì đến phải tội chết. Thật ra đây là sự nói quá trong tuồng thôi.tuồng mọi sự đều nói phòng đại hơn, chẳng hạn nhớ ơn thì muôn kiếp không phải, giận thì như lửa bừng cháy trong lòng...
[14] Thâu bảo châu lại, cỡi mây mà chạy trốn. Mang mang 恾恾: vội vàng, mau mau.
[15] Giăng lưới đất lưới trời thì bắt không sót kẻ tà, kẻ quái.
[16] Pháp thuật và thần thông của mình thì quá cao cường!
[17] Có một con yêu quái giả làm đạo cô, mạo xưng là môn đồ của bà Lê Sơn, đến đây nhờ con thông báo với tiên mẫu để xin linh đơn. Bạch Viên đã khi khổng khi không xác nhận người ta là giả nầy giả nọ mà không trưng dẫn bằng chứng!
[18] Người tu hành coi vậy mà dễ nóng giận ha. Chỉ mới nghe học trò báo cáo đã nộ khí xung thiên!
[19] Đánh đệ tử không kiên thầy. Cái điệu lý luận nầy biết bao nhiêu tiên ông của phe triệt giáo đã mất mạng và lên bảng phong thần rồi. Xem truyện Phong Thần Diễn Nghĩa.
[20] Ra ngoài coi con yêu nầy ở đâu tới!
[21] Cỡi mây mà chạy trốn, phải nó là Bạch Xà Tinh hay không? Chữ chăng dùng trong câu hỏi. Ngày nay chữ chăng không đi một mình mà đi vớI các từ đặc biệt như: phải, đúng, có…
[22] Con rắn quỷ kia, mi đừng có trốn.
[23] Thiên binh vây phủ, bùa dán mọi nơi cho nên thoát ra lên trời cũng không được, chun xuống đất cũng không xong! Ðại nạn đại nạn!
[24] Ðối với Trân Nương, cuộc chiến nầy vẫn là cuộc chiến vô lý và tự vệ, nhưng thật ra nguyên nhân căn bản của cuộc chiến đã nằm sẵn trong con người của nàng: vốn là thú vật tu thành tinh…
[25] Ðao kiếm không làm gì được vì có khăn càn khôn che đầu. Chữ xuể bản nầy dùng xỉ , bản B dùng nạch + thể rất thú vị về mặt chữ Nôm.
[26] Mở hai lá cờ gây gió (phong ) và gây sét ra (lôi ) để trừ hết yêu khí.
[27] Bây chừ qua hỏi bậu, giọng thiệt là cầu cao đáng ghét. Nhưng như thế mới nhiều kịch tính, sự cần thiết của tuồng.
[28] Tiên đồng tu sĩ tu sĩ 童童修俟須俟: khoan đã tiên đồng! Tu sĩ : hãy đợi. Đao hạ lưu nhân lưu nhân 刀下留留仁: xuống đao phải có lòng nhân. (Nôm dùng nhân thay vì nhân .)
[29] Người xưa nói thề là mắc, thắt là dính!
[30] Bà tiên nầy chằn quá, binh học trò lăn-xăn mắng người, còn đòi giết người.
[31] Mau mau đứng dậy, hướng về phía trước mà tạ ơn.
[32] Soi súc sanh gang tấc: xin xét thiệt là kỷ cho phận hèn mọn nầy.
[33] Trước núi Tử Vi có ông Nam Cực tu ở động Chân Linh. Ông có cỏ hồi sinh, đó là thuốc thần để cứu mạng Hớn Văn.
[34] Giữ lòng, phiên theo bản B, rõ hơn.
[35] Quan Âm vừa từ giả vừa khuyến cáo tiên mẫu hãy về đi, đừng có lộn xộn nữa. Cách nói rất khôn khéo!
[36] Bản B chử có nghĩ là giữ, giữ gìn.
[37] Bay lên trên mây đi về phía núi Tử Vi.
[38] Nói là mình đi đêm cực khổ, sương dính vào mặt, gió tạt vào mình. Cũng chỉ là cách nói thôi, Trân Nương cỡI mây! Chữ đàn , chúng tôi không tường nghĩa cho minh bạch. Cả hai bản A, B đều dùng đàn.
[39] Tội nghiệp thân gái hết lòng với chồng!
[40] Cảnh non tiên quá đẹp, nhưng mình đang có sứ mạng phảI làm nên không còn tâm trí đâu mà thưởng thức. Rất đáng trân trọng cái tình cảm nầy.
[41] Nhà ngươi là ngườI ở đâu dưới trần, sao lạI dám đến non tiên? Theo bản B thêm chữ lai , vốn bản A không có. Phật Quan Âm trước đây đã mách bảo cho biết, rằng có một loại cỏ tiên có thể cứu được, nên xin thỉnh cầu tiên ông cứu giúp…
[42] Chồng bệnh mà không có thuốc để trị,
[43] Ta đà biết: con yêu nầy tu đã nhiều năm nhưng không thành chánh quả. Vì nghiệp trần chưa dứt nên còn nhiều trái oan.
[44] Hình như chỗ nầy ngườI viết tuồng bỏ trống chỗ cho gánh hát thêm vô một đoạn hát khách.
[45] Chốn thanh tiêu ngao ngán dầu ta: mặc tình ta ngao du thoả thích nơi tiên cảnh. Miền bích thủy dạo chơi mặc mỗ: thỏa ý ta dạo nơi nước biếc (non xanh).
[46] Hình như những tiên đồng trong tuồng nầy hơi làm mất cảm tình của người đời bằng những nhanh nhẩu quá đáng. Thật ra đây là sự dàn cảnh của tác giả để cho thấy sự cực khổ bên bờ sống chết của Trân Nương trong việc tìm thuốc cứu chồng.
[47] Mắng tiếng thoạt liền mọc óc: nghe tiếng tức thì quá sợ hãi. Mắng tiếng 𠻵 : từ cổ có nghĩa là nghe. Nhiều người phiên chữ mắng âm là mảng, không đúng.
[48] Bản A không có chữ lại , vế mất đồi, sửa thêm theo bản B.
[49] Tưởng nghèo lệ ngọc không cầm: nghĩ đến nguy hiểm mà rơi nước mắt. Nghèo đây là hiểm nghèo.
[50] Dốc tròn đạo nghĩa, sá lầm gian nguy: quyết long làm tròn chuyện đạo nghĩa, không kể chi đến việc mắc phải nguy hiểm. Lầm: mắc phải.
[51] Mãng (còn): Mắc bận bịu chuyện gì. CD: Bước xuống ruộng sâu em mãng sầu tất dạ….
[52] Bản B: na thức u hòa cát 那識幽和吉.
[53] Nghĩ rằng đi mau sao mà lâu quá! Chữ xa lắc được viết bằng xa xác
[54] Bị chuyện gì cản trở mà chậm quá như vậy?
[55] Chẳng rời đoái mạng, phiên theo B rõ ràng hơn, nghĩ rằng A viết sai…
[56] Cô nầy lo xa và suy luận cũng hợp luận lý lắm.
[57] Phải liệu kế hay để nói dối. Bản A viết : … toan một phép chi mầu, ngõ hỏi dối… chữ hỏi như là làm cho tối nghĩa chỗ nầy, chúng tôi dùng bản B: … ngõ nói dối. Rõ ràng hơn. Ðoạn nầy chữ nhẹm nầy rất đắc địa. Nhẹm có nghĩa là hoàn thành.
[58] Anh nầy nói khứa kháo lổ miệng, anh trói gà không chặc làm sao đánh lại tinh!
[59] Nước mắt phụ nữ đời nào cũng xiêu lòng anh hùng, huống chi Hớn Văn chỉ là một kẻ thường thường thường bậc trung!
[60] Ðể ý chữ cái được dùng ở đây. Có điều gì như là rất dễ thương!
[61] Bỏ ngoài tỉnh hạ: bỏ xuống giếng.
[62] Tâm thượng ưu phiền 心上憂煩, bản B: tâm sự ưu phiền 心事憂煩.
[63] Trăm cay ngàn đắng không thể nói được,
[64] Theo bản B : mà lại mắng rằng 𢊆 𠻵 , bản A: nói rằng 吶浪, không hay.
[65] Còn nghi thời ra ngoài giếng kia coi tất biết. Bản B: thiên tỉnh, thay vì tỉnh ngoạI như A.
[66] Thương quá xá là thương.
[67] Hết đạo sự phu 歇道事夫 : thờ chồng hết long hết dạ, phải đạo.
[68] Phô loài yêu nghiệt 𩔖 夭孽: nói rằng thiếp là loài quỉ..Phô , tiếng xưa có nghĩa là nói. Lục Vân Tiên: Trong xe chật hẹp khó phô.
[69] Chỗ nầy thiệt là hay: biểu Tiểu Thanh đi chôn rắn giả để phi tang sau nầy, vừa cho cô ta vắng mặt để mình dễ eo-xèo, nũng nịu…
[70] Ðể ý, chỗ nầy là lại nói. Trong tuồng hầu hết là người xem phải tưởng tượng đây là cảnh khác. Có thể là loan phòng, vì trên sân khấu diễn viên đã đi hai ba vòng tượng trưng cho sự di chuyển.
[71] Bây giờ tới lúc làm giận làm hờn, làm màu làm mè.Chẳng vậy mà Hớn văn chết mệt.
[72] Ta trót đà thất lật 些卒它失栗: anh trót làm điều làm lỗi. Nàng chớ khá chấp nê 娘渚呵𢩾 : xin em đừng cố chấp.
[73] Nũng nịu đây! Dễ thương và dễ sợ chỗ nầy! Bản B. Thiếp vốn hẵn yêu tinh 妾本罕妖精…. Thay vì thiếp vốn thiệt 妾本寔妖精
[74] Ðược mợi thì càng làm già!
[75] Thấy chàng ‘quì gối’ nàng sợ quá!
[76] Thầy chỉ xạo, bịnh trị bằng lễ vái…nên bị đuổi ra.
[77] Quen làm vạy, phỉnh chúng kiếm ăn: lằm điều sái quấy, gạt người. Phỉnh chúng 𠶏 : gạt người , chữ nầy trong Nam không có dùng.
[78] Vị thuốc, bản B: thuốc tánh.
[79] Trị dỡ cho nên chúng đuổi ra rước thầy khác. Bản Nôm viết sai rước thành trên.𨕭 Bản B viết đúng.
[80] Lo lắng và mệt mỏi, bèn ngủ ở chỗ bàn sách.
[81] Con bé thương chồng quá nên làm nhiều chuyện sằng.
[82] Ở đây chúng tôi theo bản B: Ca tay chuốt chén pha lê 𢬣 𥗜 玻璃: Tay rót chén pha lê. Ca : từ cổ có nghĩa là ở tại. Bản A viết sai chữ ca thành hân . Hân không có nghĩa gì hết ở chỗ nầy. Nhờ bản B, không thì không thể nào đính chánh được chỗ nầy, mà đọc hân thì ngặt quá!
[85] Nghe nói như vậy thì thấy cái mạng của dân đen chẳng đáng giá chút nào. Thầy thuốc có quyền chửa trị làng nhàng để ăn tiền!
[86] Bản Nôm viết chữ lệnh , tạm đọc luyện trong khi chữ Nôm có nhiều cách viết chữ luyện đúng hơn!
[87] Ðem bỏ đãy cho thầy nhứt khắc: bỏ vô bị cho thầy ngay. Vì cần đối với chữ hai hoàn tác giả dùng cưỡng ép chữ nhứt khắc. Thường người ta nói tức khắc.
[88] Hoàn bảo sản há không kiến hiệu: thuốc viên dưỡng thai chẳng lẽ không hiệu nghiệm? Hớn Văn tin tưởng vợ vì thấy nàng quá hay…
[89] Chẳng dám trì hồi : không dám chậm trễ.Trì hồI cũng như trì diên.
[90] Phúc thống bất an: bụng đau chẳng yên.
[91] Ðể ý, từ tớ đây là từ nhún nhường, đầy tớ, chứ không phải mày tao mi tớ
[92] Chữ mỗ ở đây cho thấy quan Tri Phủ vẫn chưa tin tưởng tài ông thầy lang nầy
[93] Bấy lâu mỗ thường lòng lơ lãng: từ trước đến giờ ta không để ý đến thầy… Chúng tôi phiên là lơ lãng thay vì lo lắng chỗ nầy, nghĩ rằng hợp với tình huống của câu chuyện hơn.
[94] Chàng Hớn Văn nầy đóng kịch cũng giỏi lắm. Biết trước tin rồi mà vẫn còn làm màu mè bắt mạch..
[95] Phó tay tớ: giao cho các thị tì. Tác giả muốn cho đối chữ thầy ở trên với tớ ở đây.
[96] Chỗ nầy lạ quá, thuốc uống vào thì trẻ con nó cầm ra khỏI long mẹ. Chắc là thuốc của tinh cho nên con trẻ nó phảI trả lại. Chưa có điều kiện đọc truyện Thanh Xà Bạch Xà nên không biết chi tiết nầy ra làm sao!
[97] Nghe nói thì đổi buồn làm vui. Mừng quá!
[98] Thầy hay đệ nhất, thuốc thiệt thuốc tiên.
[99] Hớn Văn dùng chữ tớ thay vì chữ khách để đối với chữ chủ của quan Tri Phủ, đây cũng là cái nguyên nhân cứu mạng anh ta sau nầy.
[100] Ðem tạ nghi theo dõi tiên sinh 𡧄 謝蹺唯先生quí trọng quá nên cho người đem của tạ theo thầy về nhà!
[101] Nguyên văn viết tám danh 糝名. Chúng tôi đọc là tám tên như trường hợp chữ ba niên đọc là ba năm ở trong tác phẩm khác.
[102] Lại sai nhóm trống kèn đưa về-- rình rang, vinh dự-- có cả kiệu đưa.
[103] Thời lai phong tống, 時來風送 thời mình đến thì có gió đưa đi, chỉ sự may mắn. Từ câu thơ cổ: Thời lai phong tống Ðằng Vương các: Lúc may mắn thì gió đưa đến gác Ðằng Vương…

No comments: