Friday, September 7, 2012

NGUYỄN QUỐC KHẢI * CỘNG SẢN ĐỘC QUYỀN

Nhà Nước Việt-Nam
Phải Chấm Dứt Độc Quyền Nhập Cảng
Các Sản Phẩm Văn Hoá và Thông Tin



Nguyễn Quôc Khải


     DVD Paris By Night và Asia và những sản phẩm văn hóa thông tin sẽ được nhập cảng chính thức vào Việt-Nam một ngày gần đây ? Câu trả lời ngắn gọn: “Điều này có thể xẩy ra sau khi Việt-Nam gia nhập Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế”. Chỉ vài năm trước đây vấn đề này là hoàn toàn không tưởng, nhưng có thể thực hiện vào năm tới. Luật lệ đã sẵn sàng. Tuy nhiên kết quả thực sự ra sao còn tùy thuộc vào cuộc vận động hữu hiệu của cộng đồng người Việt hải ngoại ở khắp nơi từ Canada, Hoa-Kỳ, Âu châu qua Úc châu.



     Tình trạng độc quyền mua bán sản phẩm văn hóa và thông tin của CSVN



     Hiện nay CSVN được tự do xuất cảng sách, báo, băng nhạc, băng hình, phim ảnh, các sản phẩm văn hoá và truyền thông, v.v. đi khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là những nơi có đông người Việt sinh sống như tại Hoa-Kỳ, Canada, Úc châu, và Âu châu. Trong khi đó chính phủ Hà-Nội có độc quyền tuyệt đối về dịch vụ nhập cảng những thứ hàng tương tự vào Việt-Nam. Nhờ sự độc quyền này mà chính quyền Hà-Nội ngăn chặn sách, báo, phim ảnh, v.v. sản xuất ở hải ngoại, đặc biệt là những sản phẩm bằng tiếng Việt, nhập cảng vào trong nước. Việc mua bán môt chiều này gây thiệt hại cho cộng đồng người Việt ơ hải ngoại và một phần làm cho cán cân thương mại thặng dư của Việt-Nam đối với Hoa-Kỳ ngày càng gia tăng. Vào năm 2000, số lượng hàng hoá Việt-Nam bán cho Hoa-Kỳ nhiều hơn là mua của nước này là US$454 triệu. Ba năm sau con số này tăng 7 lần và lên đến US$3.2 tỉ vào năm 2003.



     Tại sao lại có hiện tượng độc quyền lạ lùng như thế ?



     Chính phủ Bill Clinton khi thương lượng hiệp định thương mại song phương với Hà-Nội đã không hỏi ý kiến cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Một vài chuyên viên của cộng đồng người Việt đã liên lạc với Văn Phòng Đại Diện Mậu Dịch của Hoa-Kỳ (Office of U.S. Trade Representative), nhưng nhân viên của văn phòng này được lệnh không tiết lộ chi tiết nào cho đến khi hiệp định thương mại được đại diện chính phủ của hai nước ký vào tháng 7 năm 2000.



     Khi ký hiệp định thương mại song phương với Việt-Nam (U.S. – Vietnam Bilateral Trade Agreement viết tắt là BTA), Hoa-Kỳ đã đồng ý cho phép Việt-Nam độc quyền nhập cảng này. Hơn nữa chỉ có các công ty quốc doanh mới được nhập cảng vào Việt-Nam những sách báo, sản phẩm văn hóa và thông tin, v.v. do nhà nước chọn lựa. Số sản phẩm thuộc về loại này được liệt kê rõ ràng trong Phụ Lục C1 của Hiệp Định Song Phương Mỹ Việt. Ngoài ra, chính quyền Hà-Nội, qua các doanh nghiệp nhà nước, còn được độc quyền phân phồi những sản phẩm văn hoá và thông tin trong quốc nội theo Phụ Lục H của hiệp định song phương.

    

     Tình trạng độc quyền này gây thiệt hại cho cộng đồng người Việt ở hải ngoại vì sản phẩm như sách báo, phim ảnh do người Việt ở hải ngoại sản xuất không có quyền bán ở trong nước vì chính phủ Hà-Nội dùng hiệp định song phương với Hoa-Kỳ cấm cản. Tình trạng mua bán này là một bất công trắng trợn đối với Hoa-Kỳ nói chung và đặc biệt đối với khối người Mỹ gốc Việt. Tệ hại hơn nữa là một số sản phẩm sản xuất ở hải ngoại được đem “lén lút” vào Việt-Nam để sao chép biến chế thành hàng lậu, sau khi đã vứt bỏ những phần không hợp với chính sách và chủ trương của chính quyền Hà-Nội. Một số hàng lậu này tìm đường quay trở lại nơi sản xuất gốc để tiêu thụ với giá một phần ba hay một nửa giá gốc, cạnh tranh ngay với chính sản phẩm gốc.



     Cơ hội sửa sai



     Sự ngăn cấm nhập cảng vừa kể của chính quyền Hà-Nội không những phản lại nguyên tắc mua bán tự do và công bình mà nó còn phản lại nguyên tắc tự do thông tin và ngoại giao bình đẳng giữa các quốc gia với nhau.



     Hiệp định thương maị song phương Việt-Mỹ đến cuối năm 2004 là hết hạn 3 năm đầu tiên. Nếu đôi bên không đưa một khiếu nại nào hay muốn có sự thay đổi 30 ngày trước khi thời gian 3 năm hết hạn vào giữa tháng 11 năm nay, hiệp định thương maị song phương Việt-Mỹ đương nhiên được triển hạn thêm 3 năm nữa (tháng 12, 2004 – tháng 12, 2007). Việt-Nam bán cho Hoa-Kỳ một số hàng trị giá 4.6 tỉ Mỹ kim và mua của Hoa-Kỳ chỉ có 1.3 tỉ Mỹ kim trong năm 2003. Đối với Việt-Nam, Hoa-Kỳ trở thành một trong những thị trường chính yếu. Việt-Nam rất mong muốn hiệp định thương maị song phương Việt-Mỹ triển hạn thêm 3 năm nữa. Do đó đây là lúc phải gấp rút đưa ra yêu cầu đòi chính phủ Hà-Nội bỏ độc quyền nhập cảng và phân phối kể trên.



     Ngoài ra Việt-Nam đang muốn gia nhập Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế (World Trade Organization viết tắt là WTO) và muốn vào cơ quan này càng sớm càng tốt, chậm lắm là vào cuối năm 2005, để khỏi mất thị trường hàng dệt và quần áo tại Hoa-Kỳ và Âu châu. Việc thương lượng song phương với các nước hội viên và đa phương với tổ chức Liên Hiệp Âu châu và WTO này đang tiến hành.



     Cơ quan WTO cho phép các quốc gia duy trì một số công ty quốc doanh với những điều kiện khó khăn. Thứ nhất là những công ty này phải hoạt động trên căn bản hoàn toàn có tính cách thương mại, tôn trọng nguyên tắc không kỳ thị và vấn đề mua bán phải dựa trên các yếu tố như giá cả, phẩm chất, có sẵn, khả năng tiếp thị, chuyên chở, v.v. Thứ hai là các công ty quốc doanh phải hoàn toàn tự trị và trách nhiệm về lời lỗ (Article XVII – GATT và Article VII – GATS). các công ty quốc doanh phải tường trình mọi hoạt động cho WTO. Ngoài ra nguyên tắc đối sử quốc gia (national treatment) của WTO đòi hỏi rằng Việt-Nam phải đối sử các công ty bản địa và ngoại quốc ngang hàng. Do đó việc Việt-Nam cho phép công ty quốc doanh độc quyền nhập cảng sản phẩm văn hoá và thông tin hoàn toàn trái với luật WTO.



     Để tránh những điều kiện khắt khe về việc duy trì các xí nghiệp quốc doanh, phần lớn các nước hội viên của WTO, nhất là các quốc gia có nền kinh tế đang chuyển từ hệ thống chỉ huy qua thị trường, chọn lựa cách cổ phần hoá / tư nhân hoá hầu hết các công ty này. Hơn nữa đa số các xí nghiệp quốc doanh làm ăn lỗ lã, làm thiệt hại cho ngân sách quốc gia.



     Làm thế nào để thay đổi tình trạng phi lý và bất công này ?



     Việc độc quyền nhập cảng đối với bất cứ sản phẩm và dịch vụ nào bởi các xí nghiệp quốc doanh đều trái với nguyên tắc tự do thương mại thế giới. Nhưng không vì thế mà Việt-Nam sẽ phải tự động bỏ những độc quyền đang có, kể cả độc quyền nhập cảng sản phẩm văn hoá và thông tin. Mọi quyết định trên thực tế vẫn dựa vào sự thương lượng song phương và đa phương. Việt-Nam đang chuẩn bị cuộc đàm phán song phương với Hoa-Kỳ vào cuối tháng 10 và vòng đàm phán đa phương sắp tới vào tháng 12 năm nay. Do đó, đây là lúc thuận lợi cần phải đòi hỏi Việt-Nam bỏ độc quyền nhập cảng các sản phẩm văn hoá và thông tin như một trong những điều kiện để được vào cơ quan WTO.



     Cộng đồng Việt-Nam tại các quốc gia buôn bán nhiều với Việt-Nam cần vận động với các nhà lập pháp và các cơ quan hành pháp liên hệ để đưa vấn đề này vào nghị trình thương thuyết. Hoa-Kỳ, Úc Châu, Canada, Liên Hiệp Âu Châu, Anh, Pháp, Đức, Hoà-Lan, và Bỉ là những nơi cộng đồng Việt-Nam có tiếng nói mạnh mẽ. Việc vận động có thể qua những vị dân biểu hay nghị sĩ nơi mình cư ngụ hoặc trực tiếp với cơ quan phụ trách mậu dịch quốc tế. Sự đòi hỏi này hoàn toàn hợp với nguyên tắc công bằng và luật lệ thương mại quốc tế. Không ai có thể biện minh cho việc duy trì sự độc quyền nhập cảng và phân phối phi lý này.



     Công cuộc vận động của cộng đồng Việt-Nam đòi CSVN bỏ độc quyền nhập cảng và phân phồi sản phẩm văn hoá và thông tin đang tiếp diễn tại nhiều nơi, đặc biệt là Hoa-Kỳ, Canada, Úc, Đức, Pháp và Hoà Lan. Hai dân biểu Mỹ tiên phong giúp cho chiến dịch này là Frank R. Wolf (CH, Virginia) và Chris Van Hollen (DC, Maryland). Thay mặt công đồng Việt-Nam ở vùng Washington, DC, hai ông đã tiếp súc với Đại Sứ Robert B. Zoellick, Đại Diện Văn Phòng Mậu Dịch của Hoa-Kỳ (Office of the U.S. Trade Representative viết tắt là USTR) đặc trách về WTO và BTA.



     Các tổ chức của cộng đồng Việt-Nam cần tiếp súc gấp với đại diện dân cử địa phương để gây thêm áp lực với hành pháp mới mong có kết quả. Nếu chiến dịch này thành công, cộng đồng Việt-Nam có thể xuất cảng văn hoá phẩm về Việt-Nam và chính quyền Hà-Nội sẽ không còn bưng bít thông tin trong nước được nữa và sẽ giúp cho kinh tề Việt-Nam phát triển mau lẹ hơn. Vấn đề chống độc quyền nhập cảng và phân phối văn hoá phẩm và thông tin quan trọng không kém gì luật Nhân Quyền. Trong những tuần lễ sắp tới đây, người ta hi vọng một số các nhà lập pháp Hoa-Kỳ khác sẽ lên tiếng đòi Việt-Nam bãi bỏ độc quyền nhập cảng các sản phẩm văn hoá và thông tin.



     Tưởng cũng cần nói thêm là giao lưu văn hoá hai chiều cũng là một vấn đề quan trọng, rộng lớn hơn và thuộc về khu vực dịch vụ. Hiệp định thương maị song phương Việt-Mỹ có những điều khoản nói về nhiều dịch vụ một cách giới hạn như viễn thông, tài chánh, du lịch, y tế, pháp lý, tư vấn, v.v. Nhưng không có điều khoản nào nói về dịch vụ văn hóa và giải trí.



     Chúng ta không chủ trương ngăn chặn không cho Việt-Nam vào WTO. Trái lại chúng ta mong muốn Việt-Nam được gia nhập cơ quan WTO đúng lúc và đúng cách, được đối sử công bằng trong cộng đồng kinh tế thế giới. Nhưng đồng thời quyền lợi của cộng đồng người Việt ở hải ngoại và nhân dân dân Việt-Nam ở trong nước được bảo vệ. Gia nhập WTO và thi hành BTA là những cơ hội cho Việt-Nam thực hiện những cải tổ kinh tế sâu rộng. Khu vực tư nhân nhờ vậy sẽ lớn mạnh và người dân sẽ có nhiều tự do làm ăn buôn bán hơn.



     Lập trường của Văn Phòng Đại Diện Thương Mại Hoa-Kỳ (USTR) và Hà-Nội hiện nay ra sao ?



     Tại buổi điều trần trước Tiểu Ban Chuẩn Chi Ngân Sách cho các Bộ Thương Mại, Tư Pháp và Ngoại Giao tại Quốc Hội Hoa-Kỳ vào ngày 25 tháng 3 năm nay, dưới sự chủ tọa của Dân Biểu Frank Wolf, Chủ Tịch Tiểu Ban, Đại Sứ Robert Zoellick của Văn Phòng USTR tuyên bố rằng Hoa-Kỳ “có thể” chặn Việt-Nam không cho vào WTO nếu quốc gia này tiếp tục cho các xí nghiệp quốc doanh độc quyền nhập cảng sách báo, phim ảnh, sản phẩm thông tin, v.v. Dân Biểu Frank Wolf nhấn mạnh với Văn Phòng USTR rằng Hoa-Kỳ “sẽ phải làm như thế.”



     Trên đây là kết quả sơ khởi của cuộc vận động của cộng đồng Việt-Nam tại Hoa-Kỳ. Vào tháng 6 năm 2003, việc đòi hỏi quyền đưa sách báo từ hải ngoại vào trong nước đã được một vài người Việt nêu lên khi phái đoàn liên ngành do ông Thứ Trưởng Ngoại Giao kiêm Chủ Nhiệm Ủy Ban Người Việt-Nam Nước Ngoài Nguyễn Đình Bin đến Thủ Đô Hoa Kỳ để cổ động cho kế hoạch kiều vận và đại đoàn kết dân tộc. Từ lúc đó cho tới nay, không ai thấy Hà-Nội có một phản ứng nào cả. Báo chí, Internet, và các phương tiện truyền thông khác vẫn bị nhà cầm quyền Hà-Nội kiểm soát chặt chẽ. Nhà nước không thể kêu gọi đại đoàn kết trong khi bịt miệng những người Việt ở nước ngoài bắng cách cấm sách báo, đĩa nhạc, băng hình sản xuất ở hải ngoại gửi vào trong nước. Nay vì nhu cầu cấp thiết phải gia nhập cơ quan WTO và triển hạn Hiệp Định Song Phương Mỹ Việt, Hà-Nội có thể sẽ phải nới lỏng vấn đề nhập cảng các sản phẩm này.



     Mới đây, Văn Phòng USTR chính thức xác nhận rằng cơ quan này đã được lưu ý về việc công ty quốc doanh Việt-Nam đang duy trì độc quyền và giới hạn việc nhập cảng sách báo và các sản phẩm thính thị, đặc biệt các sản phẩm tiếng Việt, từ Hoa-Kỳ vào Việt-Nam. Bà Josette Sheeran Shiner, Phó Đại Sứ của Văn Phòng USTR, hứa hẹn rằng Hoa-Kỳ sẽ thảo luận với Việt-Nam về mọi vấn đề liên quan đến điều kiện để Việt-Nam gia nhập cơ quan WTO. Hoa-Kỳ sẽ đặc biệt nêu hai vấn đề sau đây với Việt-Nam trong những cuộc thương thuyết sắp tới: (a) xí nghiệp quốc doanh; (b) xuất nhập cảng sách báo và những sản phẩm thính thị. ©



Nguyễn Quôc Khải, 29.9.2004



No comments: