Saturday, February 2, 2013
KAMI * NGUYỄN BÁ THANH
Tương lai Nguyễn Bá Thanh: Lành ít, dữ nhiều?
Sat, 02/02/2013 - 08:52 — KamiDù tết nhất đã đến cận kề, song dư luận xã hội vẫn chăm chú theo dõi và kỳ vọng vào một kết quả tốt đẹp của cuộc chiến giữa đồng chí X và đồng chí Bá Thanh. Nhìn ở góc độ quản lý nhà nước, thì đây là một hiện tượng hết sức nguy hiểm mà chưa hề có tiền lệ ở Việt nam, vì một người đứng đầu của một thành phố trực thuộc trung ương (được bảo kê) dám đối đầu với Thủ tướng Chính phủ, người đứng đầu cơ quan hành pháp.
Chuyện ông "vua" Đà nẵng Nguyễn Bá Thanh và đồng chí X không ưa
nhau thì từ lâu ai cũng biết. Nhưng đó cũng là lý do vì sao một người
như Nguyễn Bá Thanh có năng lực, ít tì vết được quảng đại quần chúng cần
lao không chỉ riêng xứ Quảng mà trên phạm cả nước yêu mến và kỳ vọng.
Nhưng câu hỏi vì sao một con người như ông Nguyễn Bá Thanh lại không
vượt qua cửa ải để lọt vào Bộ Chính trị trong đại hội đảng khóa XI là
một vân đề đáng quan tâm. Cho dù trước đại hội XI, dư luận đã nói nhiều
về khả năng này. Nhưng kết quả sau đại hội XI không diễn ra như thế, mà
kết quả là phe đồng chí X hả hê bao nhiêu thì ngược lại phe của đồng chí
Bá Thanh đã ngậm đắng nuốt cay bấy nhiêu. Mâu thuẫn giữa đồng chí X và
Bá Thanh bắt đầu cũng chỉ là việc không ưa nhau, cũng như việc một bộ
phận không nhỏ các cán bộ lãnh đạo cao cấp có học hành ghét đồng chí X
vì ít học, nhưng lại hay tỏ vẻ ta đây.
Với đồng chí X, sự may mắn của
con đường quan lộ quá thênh thang và luôn được sắp đặt bố trí đảm nhận
các chức vụ quan trọng theo lối người tìm việc, bỗng hóa trở thành điểm
yếu trong nhiệm kỳ thứ hai trong vai trò người đứng đầu cơ quan hành
pháp. Như trường hợp năm 1998, khi được bổ nhiệm giữ chức Thống đốc Ngân
hàng nhà nước mà chuyên môn của đồng chí X không đủ để đọc và hiểu một
báo cáo quyết toán tài chính, chứ chưa nói đến các công việc khác ở tầm
vĩ mô.
Cũng như vốn mang tiếng tốt nghiệp Đại học Luật hệ tại chức,
nhưng kiến thức về pháp luật của đồng chí hầu như không hề có, với hàng
loạt các quyết định khi ở cương vị người đứng đầu cơ quan hành pháp
nhưng lại vi phạm hiến pháp là những ví dụ điển hình.
Nhưng tiếc rằng, đồng chí X đã không hiểu thực chất của con
người mình. Đó là cái như dư luận xã hội đánh giá rằng ngoài cái vẻ
phương phi, tốt mã thì ở con người đồng chí X chẳng có cái gì cho ra hồn
để xứng tầm một người lãnh đạo cao cấp.
Nhưng chết nỗi đồng chí X cứ
nghĩ là mình giỏi, khi đưa ra các ý đồ hoang tưởng học mót của người
khác, như trường hợp mô hinh các chebol của Hàn quốc là một ví dụ. Trong
việc này, nguy hiểm nhất là việc đồng chí X tự ý vô hiệu hóa chức năng
quản lý nhà nước của các bộ, ngành đổi với các tập đoàn, tổng công ty
thuộc doanh nghiệp nhà nước. Nghĩa là Thủ tướng trực tiếp điều hành các
tập đoàn, tổng công ty thuộc khối doanh nghiệp nhà nước, những cái mà
đồng chí X tự hào là những "quả đấm thép". Để rồi đên hôm nay, kết quả
của những "quả đấm thép" mang lại chỉ là những con số âm. Cụ thể trong 6
năm (2006-2012) dưới sự lãnh đạo sáng suốt của đồng chí X, các quả đấm
thép với một khoản lỗ và khoản nợ khổng lồ. Theo báo cáo của Bộ
KH&ĐT, lỗ lũy kế của 10 tập đoàn, tổng công ty khoảng 17.730 tỷ
đồng. Đáng lưu ý là, tổng nợ phải trả của các DNNN lên tới hơn 1,3 triệu
tỷ đồng (khoảng trên 60 tỷ USD), hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu bình
quân là 1,82 lần (năm 2011 là 1,77 lần).
Tổng tài sản/tổng nợ phải trả
là 1,6 lần. v.v... Một phần lý do mà Bộ Chính trị chưa thống nhất cho
đồng chí X nghỉ, cũng là để đồng chí X chịu trách nhiệm giải quyết những
khoản công nợ khổng lồ do chính mình gây ra. Nghĩa là nói theo kiểu dân
dã thì họ không chấp nhận việc "ông ăn ông ỉa rồi để thằng khác dọn
thay".
Trong cuộc đọ sức Ba - Bá, tuy không nắm được vai trò chủ động
và áp đảo trong cuộc chơi mới này, song trên thực tế phe của đồng chí X
vẫn phòng ngự kiên cường và đôi lúc vẫn chủ động ra đòn chọc ngoáy đối
phương. Trong khi ông Bá Thanh còn lạc quan, mải mê đánh võ mồm ở Đà
nẵng để tranh thủ dư luận.
Câu chuỵện bản kết luận thanh tra vấn đề đất
đai ở Đà nẵng của Thanh tra Chính phủ, cứ thập thò khi thì bảo không
công bố bỗng đùng một cái lại cho công bố là một ví dụ. Nó cũng không
khác gì chuyện của phe kia, vừa hôm thứ tư 23.1.2013 tuyên bố "Ban Nội
chính TƯ chưa thể hoạt động ngay", thì cũng đùng một cái lại thành "Ban
Nội chính Trung ương bắt đầu hoạt động từ ngày 1.2.2013".
Đưa hai dẫn
chứng của hai phe để thấy có sự tính toán rất kỹ và thận trọng của mỗi
bên, trong lúc đang gầm ghè nhau ở cục diện ngang ngửa. Và việc phe của
đồng chí X đã dụng phép "tiên thủ hạ vi cường" vừa qua tuy được coi là
động thái thăm dò, nhưng cũng thể hiện cho thấy họ có thể có trong tay
một vài cú đòn đủ để đánh một phát chết tươi đồng chí Bá Thanh.
Cá nhân đồng chí Bá Thanh ra trung ương nhận chức Trưởng Ban
Nội chính TW lần này cũng chẳng phải ngon ăn, khi mà một bộ phận nhân sự
mới của Ban Nội chính TW hiện tại đa phần là con người (80/102), cơ sở
vật chất từ Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng
trước đây thuộc Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng vốn
đồng chí X là người đứng đầu chuyển sang.
Và ông Phạm Anh Tuấn, Phó
Chánh Văn phòng Thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống
tham nhũng đảm nhiệm chức vụ P. Trưởng Ban Nội chính TW. Sự xuất hiện
của ông Phạm Anh Tuấn, Phó Chánh Văn phòng Thường trực của Ban Chỉ đạo
Trung ương trong các cuộc phỏng vấn của báo chí nhân ngày ra mắt của Ban
Nội chính TW (01.2.2013) thay ông Nguyễn Bá Thanh hình như có cái gì
không ổn lắm (!?).
Và không thể không nó đến một nhân vật nặng ký của
phe đồng chí X, đó là ông Nguyễn Xuân Phúc người được dư luận đồn đoán
rằng sẽ giữ chức Tổng Bí thư trong kỳ đại hội đảng khóa tới. Đặc biệt
là số cán bộ lãnh đạo của ngành Tòa án và Viện Kiểm sát hiện nay vẫn
chịu sự "chỉ đạo" (thực chất là vây cánh) của đồng chí X.
Không lâu sau
khi Trung ương Đảng lập Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng, Thủ tướng
Việt Nam ký ngay quyết định lập Ban Chỉ đạo phòng chống tội phạm trực
thuộc chính phủ. Hay việc hôm 21/1/2013, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký
quyết định đã lập ra Ban chỉ đạo 138 CP do Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc đứng đầu.
Điều đó cho thấy lực lượng của phe đồng chí X còn đủ mạnh
và xung quanh ông Nguyễn Bá Thanh đang có không ít cái bẫy đang rình
rập, chỉ chờ thời cơ là chụp xuống. Chính có lẽ vì thế mà ông Nguyễn Bá
Thanh không ít lần phải thú nhận rằng "Địch đang ở trong lòng thì đánh đấm gì nữa?”.
Nhưng quan trọng hơn cả sẽ là vấn đề ai sẽ là người được quyết
định về Đà nẵng để kế tục ông Nguyễn Bá Thanh sau khi ông ra Hà nội? Đây
là nút thắt cũng là sự quyết định của cả một vấn đề liên quan đến sự
nghiệp chính trị của ông Nguyễn Bá Thanh, sẽ thành hay bại.
Vì nếu người
về thay ông Nguyễn Bá Thanh là ông Trần Văn Minh là Phó Trưởng Ban Tổ
chức TW người ra đi từ Đà nẵng nay trở lại thì là điều may mắn cho ông
Nguyễn Bá Thanh. Vì như thế những vấn đề ông Thanh còn để lại sau lưng ở
Đà nẵng coi như tạm ổn. Nhưng tin cho biết phương án dự kiến này đến
phút chót đã chính thức bị hủy bỏ. Và phương án tiếp theo người đó sẽ là
ông Tô Lâm, trung tướng, Thứ trưởng Bộ Công an như đồn đoán. Một người
thuộc phe đồng chí X sẽ là người đảm nhận trọng trách đó thì coi như ông
Nguyễn Bá Thanh đã xong.
Vì khi đó.việc làm rõ các vấn đề sai phạm ở Đà
nẵng, thời ông Nguyễn Bá Thanh là người lãnh đạo đứng đầu sẽ ở tình thế
"nội công ngoại kích" - trong đánh ra, ngoài đánh vào. Lúc đó thì thế
cờ ngày hôm nay sẽ bị lật ngược và khi đó có lẽ ông Nguyễn Bá Thanh sẽ
được thủ trong một vai khác - kẻ phạm tội.
Khi đó, không cần nói đến những sai phạm mang tính tập thể của
ban lãnh đạo TP. Đà nẵng đã gây ra từ năm 2003 đến nay, mà chỉ khoét sâu
vào những khuyết điểm của cá nhân ông Nguyễn Bá Thanh thôi cũng đủ làm
cho ông Thanh lên bờ xuống ruộng.
Đơn cử ví dụ như cáo buộc về nhận hối
lộ 4,4 tỉ đồng hồi năm 2000, trong lúc ông Nguyễn Bá Thanh làm Chủ tịch
UBND Thành phố, đã để xảy ra vụ án rút ruột Cầu Sông Hàn đã từng gây
chấn động Đà Nẵng. Trong vụ án này, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà
Nẵng đã có công văn số 77/KSĐT/KT vào tháng 10 năm 2000 gửi Lãnh đạo
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Phan Diễn,
trong đó nói về việc ông Nguyễn Bá Thanh đã nhận hối lộ của Phạm Minh
Thông 4,4 tỉ đồng trong các công trình xây dựng Cầu Sông Hàn và đường
Bắc Nam ở Đà Nẵng. Cho dù năm 2007 đã có văn bản của Thanh tra Chính phủ
và ý kiến của đồng chí X không khởi tố vụ án đi chăng nữa. Hay gần đây
nhất là vụ ông Nguyễn Bá Thanh bảo lãnh khoản vay 3.000 tỷ đồng cho các
doanh nghiệp, trong đó Thân Đức Nam (Cienco 5 - 900 tỷ), Thân An (Nam Việt Á - 300 tỷ) và một số đại gia khác thì cũng đủ để ông
Nguyễn Bá Thanh chống đỡ được cũng đủ mệt. Vì nghe nói trong vụ này ông
Nguyễn Bá Thanh cũng có nhiều chuyện hết sức lình xình về vấn đề tiền
bạc.
Nhưng khi rờ vào chỗ này thì cũng liên quan đến ông Nguyễn Xuân
Phúc, mà cái thông tin ông Phúc liên quan đến “đồ bành” Thân Đức Nam,
ngoài vỉa hè người ta kháo nhau tin: “Bây giờ Thân bảo Bộ trưởng Phúc
đứng là đứng, ngồi là ngồi, bảo đi phải đi, bào ỉa là phải rặn ra mà
ỉa!”. Trong cái khó lại ló cái dễ đối với Nguyễn Bá Thanh ông là ở chỗ
này
Tuy nhiên, cũng xin khuyên ông Nguyễn Bá Thanh là ông cũng phải
cẩn thận với ông Tổng Trọng, người đang sử dụng ông Thanh như một quân
bài trong trận chiến hạ bệ đồng chí X. Ông Nguyễn Phú Trọng tuy có biệt
danh là Trọng "lú", nhưng ông Trọng chỉ lú mồm chứ tính toán mưu mô khá
sâu, chứ không phải dạng lú toàn tập.
Ông ta cũng có điểm mạnh, đó là sự
thâm nho. Cứ xem trọng vụ chỉnh đốn đảng, ông Trọng cứ từ từ, chậm rãi
từng bước thít cái thòng lọng vào cổ đồng chí X, đều đều như kiểu con
nhện chăng tơ. Riêng vụ "cố ý" rưng rưng nước mắt tuyên bố không xử lý
được đồng chí X trong phiên bế mạc Hội nghị TW 6 - Khóa 11 là chiêu khổ
nhục kế trên cả tuyệt vời. Sau cú khóc vờ của ông Tổng Trọng đã làm cho
đồng chí X thân bại, danh liệt và từ khi đó hình ảnh đồng chí X càng trở
nên tồi tệ trong mắt quốc dân đồng bào. Cho nên, đối với ông Nguyễn Bá
Thanh cũng cần phải đề phòng với ông Tổng Trọng, biết đâu ông ta dùng
chiêu một mũi tên trúng hai đích? Ông Nguyễn Bá Thanh và đồng chí X là
hai nhân vật lãnh đạo trẻ hơn, có tư tưởng cải cách và cấp tiến. Cho dù
cả hai không phải là đồng minh của nhau trong thời điểm này. Ngược lại,
phe chủ chiến của ông Tổng và ông 4S là những nhân vật bảo thủ, thân
Tầu.
Họ chỉ đồng quan điểm với ông Nguyễn Bá Thanh trong việc hạ bệ đồng
chí X, chứ tư tưởng cải cách và chống Trung quốc thì khác nhau. Biết
đâu chước của Mao “Giảo thố tử, cẩu tảo thanh” - (Hết mùa săn, chúng tôi
giết chó) sẽ được mang ra áp dụng với ông Nguyễn Bá Thanh sau khi đồng
chí X chính thức bị hạ bệ?
Cho dù biết rằng cái tên Nguyễn Bá Thanh bây giờ là tên đang
hot, đa số dân chúng đang kỳ vọng vào ông Nguyễn Bá Thanh sẽ làm được gì
đó ít nhiều trong cái thời buổi nhiễu nhương như hiện nay. Thời của
những bầy sâu bọ lên làm người lãnh đạo.
Do vậy ai mà nói gì không hay
cho ông Bá thì lập tức sẽ bị cho rằng người của đồng chí X (:D). Nhưng
tôi vẫn viết, chả để làm gì ngoài việc giúp bạn đọc đọc giải khuây trong
những ngày Tết, khi bánh chưng ngán đã đến tận cổ.
Chúc mừng năm mới Xuân Qúy Tỵ!
Ngày cuối năm Rồng 03 tháng 2 năm 2013
© Kami
TƯỞNG NĂNG TIẾN * HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Một Người Hiểu Chậm
Fri, 02/01/2013 - 11:03 — tuongnangtien
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Chắc rảnh – và rảnh lắm – nên nhà văn Phạm thị Hoài xoay ra kiếm chuyện (cà khịa) với đồng nghiệp chơi, cho nó qua ngày:
Nguồn ảnh: talawas
Chắc rảnh – và rảnh lắm – nên nhà văn Phạm thị Hoài xoay ra kiếm chuyện (cà khịa) với đồng nghiệp chơi, cho nó qua ngày:
“... tác giả văn chương, chung quy có ba loại. Loại dành cho đồng nghiệp, tác giả của tác giả. Loại dành cho công chúng, tác giả của độc giả. Và loại dành riêng cho sự tự mê hoặc của những tác giả tự phong.”
Loại thứ nhất hiếm hoi, là những người không thể thay thế, mất
một ai trong số họ là cơ thể văn chương nhân loại tàn phế một bộ phận
trọng yếu...
Loại thứ hai đông hơn và là đối tượng chính của các nhà điểm
sách, phê bình và nghiên cứu văn học. Đánh giá về tài năng và tầm cỡ của
họ là việc phụ thuộc chủ yếu vào khí hậu và môi trường văn hóa...
Loại thứ ba đông hơn cả, nhưng chỉ đáng quan tâm ở khía cạnh họ
là những kẻ làm ngôn ngữ xói mòn nhanh nhất, ngốn nhiều giấy mực và byte
nhất, và là thủ phạm chính khiến văn chương bị xóa thành công khỏi danh
sách nhu yếu phẩm tinh thần của con người...”
Tôi cũng đã có lúc học đòi theo chuyện “văn chương” nên đọc xong
đoạn văn thượng dẫn mà không khỏi ... bần thần (chút đỉnh) khi tự xét
rằng chắc (chắn) mình thuộc loại ... thứ ba. Cái loại viết “với
phương châm thà bị tống vào thùng rác còn hơn không tồn tại.” Nói cho
nó gọn: cái thứ người cầm bút như tôi thiên hạ gọi là lều văn, túp
văn, hay chòi văn, hoặc chuồng văn ... gì đó!
Cùng với đám chuồng văn này, nước Việt còn có một hiện tượng
độc đáo khác nữa gọi là chuồng học – theo như cách mô tả của phóng
viên báo Dân Trí , đọc được vào hôm 5/ 9/2012:
“Huổi Chát là một bản Mông chừng vài chục nóc nhà ở huyện nghèo
Mường Tè. Hôm chúng tôi có mặt, chỉ còn 7 ngày nữa là đến ngày hội khai
giảng, nhưng những gì bày ra trước mắt thật đắng lòng:
Một căn lều tranh tre nứa lá gió thổi tứ bề, xiêu vẹo, ghế gãy
bàn long, ủn ỉn trong đó một cặp lợn mán, được cô giáo cắm bản giới
thiệu là trường học...
Cô giáo Đinh Thị Vin nói bằng tiếng Mông, vẫy chúng xuống lớp.
Lớp học là một căn chòi lá rộng độ bằng 4 chiếc chiếu đôi xiêu vẹo, vách
tre vọc vạch, hở hoác. Bên trong bàn ghế gãy nát, đầy mạng nhện, ngổn
ngang phân heo. Không biết đã từ bao giờ, trường học của lũ trẻ đã trở
thành nơi trú ngụ cho một cặp heo mán với 4 heo con. Có người trong số
chúng tôi gọi đùa, giọng không ít cay đắng: “Đây là chuồng học chứ đâu
phải trường học...”
Ảnh: Dân Trí
“7 năm trước, cô giáo Đinh Thị Vin từ Phú Thọ rừng cọ đồi chè lên Mường Tè theo tiếng gọi tình nguyện...Và
giờ, cô giáo người Kinh đã trở thành đứa con của Huổi Chát, của Nậm
Manh, nói tiếng Mông để dạy tiếng phổ thông, ăn mèn mén, sắn khô, măng
rừng, với ước mơ giản dị là một ngày nào đó sẽ có một đứa trò nhỏ người
Mông thi đậu vào đại học.”
Vạn sự khởi đầu nan mà. Qua khỏi bậc tiểu học (nghĩa là
sau giai đoạn thụ giáo ở những chuồng học) học sinh sẽ được nghe giảng
bài bằng tiếng của người Kinh, và bước chân vào những trường trung học bề thế hơn nhiều – như cái trường này đây: Trường THCS Nậm Kè.
Ảnh: Dongsongxanh
Phải đợi cho đến khi lên đến bậc đại học thì những mầm non
Việt Nam – xuất thân từ chuồng học – sẽ mới có cơ hội bước vào những
cơ sở giáo dục hoành tráng, ở tầm mức quốc tế, được giảng dậy bằng
Anh ngữ, theo như ... dự án (Bắt Tay Xây Dựng Trường Đại Học Trí Việt) đã được thông báo, từ nhiều năm trước:
“Sáng 7.11.2007, tại trụ sở Ủy ban về người VN ở nước ngoài
(NVNƠNN) TP.HCM, Câu lạc bộ Khoa học và Kỹ thuật NVNƠNN (OVSCLUB) và Hội
đồng sáng lập Dự án trường Đại học tư thục Trí Việt đã ký kết Thỏa
thuận hợp tác: xây dựng một trường đại học chính quy hiện đại, trên tinh
thần thực học để đào tạo nhân lực chất lượng cao phục vụ cho công cuộc
hiện đại hóa và công nghiệp hóa đất nước.
Đại diện cho Hội đồng sáng lập Dự án Đại học tư thục Trí Việt là
bà Tôn Nữ Thị Ninh, Chủ tịch Hội đồng và đại diện của OVSCLUB là TSKH
Trần Hà Anh, Trưởng Ban điều hành. Buổi lễ ký kết diễn ra với sự chứng
kiến của Ban Chủ nhiệm Ủy ban NVNƠNN, Ban Liên lạc NVNƠNN TP.HCM...
Theo kế hoạnh, khoảng năm 2010 trường sẽ bắt đầu tuyển sinh cho
một số khoa và dự kiến đến năm 2020 sẽ đáp ứng được phần nào nhu cầu đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, không chỉ cho Nam Bộ mà còn vươn
rộng ra phạm vi toàn quốc.” Nguồn ảnh: talawas
Nói vậy (ngó bộ) vẫn chưa đã miệng nên trong những cuộc phỏng vấn sau đó, bà Tôn Nữ Thị Ninh – người được mô tả là “một nữ ngoại giao lừng lẫy một thời” – còn cho “nổ” thêm vài lần nữa, khiến rất nhiều người bị ù tai:
- Luật chơi của Trí Việt là: nói không với thiếu trung thực.
- Hiện dự án còn trong giai đoạn cấp phép,
trước dự tính đặt ở Vũng Tàu nay thì đặt ở TP. HCM. Gọi là trường quốc
tế bởi vì sẽ dạy bằng tiếng Anh kể từ năm thứ 2, với lập luận rằng thanh
niên Việt Nam thời hội nhập phải có tiếng Anh như là một ngôn ngữ làm
việc của mình, ngoài tiếng mẹ đẻ...
Coi: sống trong một chế độ mà lường gạt, dối trá và nghi ngờ
là chủ trương xuyên suốt mà bà Tôn Nữ Thị Ninh lại đặt ra “luật chơi là
nói không với thiếu trung thực” và còn nói bằng ngoại ngữ nữa (cơ) thì
“giai đoạn cấp phép” e sẽ còn “bùng nhùng” cho đến Tết hoặc (không chừng) cho tới khi ... bà ấy chết!
Theo nhà báo Huy Đức:
“Chủ nghĩa xã hội là một thực thể chỉ có thể hiểu được bằng sự
trải nghiệm” (*). Tuổi đời của bà TNTN (ngó bộ) hơi nhiều, thời
gian “trải nghiệm” với xã hội chủ nghĩa (xem ra) cũng không phải ít.
Rõ ràng, bà là một người hiểu chậm.
Bữa nay – nhằm ngày cuối tuần – tôi cũng đang (rất) rảnh nên
xin được phép góp ý cùng bà Tôn Nữ Thị Ninh, với hy vọng giúp cho
chuyện xây dựng viện đại học Trí Việt được nhanh chóng và toàn hơn
chút xíu.
Về địa điểm, tôi đề nghị bà Ninh nên lắng nghe qua lời khuyên
của một nhân vật có thẩm quyền – giáo sư Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ
trưởng Bộ TN&MT: ” Không ‘bôi trơn’ không có đất đâu!”
Kế tiếp, xin nghe lời phát biểu của một nhân vật đã có kinh
nghiệm (và thành công) trong việc thành lập một đại học tư ở Việt
Nam – qua lời tường thuật của giáo sư Đào Trung Đạo, đọc được trên RFA vào hôm 9 tháng 9 năm 2012:
“Mới đây tôi có một người bạn ở Việt Nam du lịch sang Mỹ – anh
ta khá thành công trong những dự án kinh doanh kể cả việc đầu tư thành
lập đại học tư thục...
Dựa vào sự hiểu biết chung chung của tôi (cũng như của hầu hết
mọi người về chế độ cọng sản hiện nay) nên tôi hỏi anh (giả bộ ngớ
ngẩn): nói chung anh chốt cho tôi hiểu một điểm quan trọng nhất về lý do
của sự hiện hữu và tồn tại của toàn bộ những cơ sở sinh hoạt kinh tế,
xã hội, giáo dục, y tế, báo chí, tòa án… (dĩ nhiên không thể kể vào danh
sách này những cơ sở do chính quyền lập ra) ở Việt Nam hiện nay, thì
câu trả lời khá ‘hài’ của anh ta là:ở tất cả những cơ sở đó luôn
luôn có một cái ‘bàn thờ vô hình’ trên đó ‘ngự’ một cán bộ cọng sản đã
được bố trí ngồi vào đó bất kể khả năng và tư cách của anh ta. Và ở phía
dưới cái bàn thờ đó các anh có thể bỏ công sức làm bất cứ điều gì các
anh cho là đúng đắn hữu ích trong một giới hạn có thể chấp nhận được
(giới hạn này khá rộng rãi kể cả những hành vi tham nhũng, vô đạo đức)
nhưng tuyệt đối không được đụng đến cái bàn thờ này, nhất là đừng có ý
định ngồi vào đó thì mọi chuyện sẽ ‘cũng được thôi’.
Ngẫm nghĩ về nhận định khá ấn tượng của anh bạn tôi thấy mình
vẫn thuộc vào loại ‘thiếu đào sâu tư tưởng’ vì sờ sờ trước mắt toàn bộ
con dân Việt đều bị đặt dưới cái bàn thờ khổng lồ là cái Lăng Bác ở Hà
Nội! Vì chủ nghĩa cộng sản chính thức đã trở thành một tôn giáo và đúng
như di huấn của Marx ‘tôn giáo là thuốc phiện’ cho nên Đảng đã biến dân chúng thành những người nghiện kinh niên.
Nhưng nghĩ xa hơn thêm chút nữa, căn cứ vào những gì đã và đang
xảy ra thì tôi thấy: Thứ nhất, bàn thờ cũng có nhiều thứ bậc cao thấp.
Thứ nhì, giữa những anh ngồi trên những bàn thờ khác nhau đó không phải
là lúc nào họ cũng ‘nhất trí’ nhưng nhiều khi lại còn âm thầm tìm cách
‘đàn áp’, hất cẳng nhau vì ngồi trên những bàn thờ này vốn là những ma
quỉ. Đấy là cảnh tượng của một thứ tôn giáo thờ ma quỉ. Tình hình chính
trị hiện nay dường như đang diễn ra sự cạnh tranh thứ bậc của ba bàn thờ
ma quỉ: ‘Tổng Bí thư’, ‘Chủ tịch Nước’, và ‘Thủ tướng’ dưới sự chứng kiến câm nín của ‘Bàn thờ Bác.”
Có lẽ vì chưa chọn được một cái “bàn thờ” thích hợp nên nhiều năm
đã trôi qua mà Đại Học Trí Việt vẫn còn đang phải ... chờ cấp phép.
Sự cân nhắc và thận trọng của bà Tôn Nữ Thị Ninh, trong hoàn cảnh hiện
tại, nên được đánh giá cao. Nếu không, mai hậu, Đại Học Trí Việt sẽ
gặp “rắc rối” (y như Đại học Dân lập Hùng Vương bây giờ) chỉ vì chọn
nhầm ... cái bàn thờ nên gặp “rắc rối” và lôi thôi lớn – theo như
tường thuật của BBC, nghe được vào hôm 19 tháng 9 năm 2012:
“Thời gian gần đây, hai chị em ông Đặng Thành Tâm đã gặp một
số rắc rối. Ngoài việc bà Yến bị tố cáo không trung thực, ông Tâm
cũng bị đình chỉ chức Chủ tịch và Hiệu trưởng Đại học Dân lập Hùng
Vương, cơ sở mà ông hỗ trợ tài chính, hồi tháng Ba vì “vi phạm nguyên
tắc quản lý."
Trong khi chờ đợi thực hiện Dự Án Đại Học Quốc Tế Trí Việt (Tri Viet International University Project) giảng dậy bằng Anh Ngữ, hàng ngày vẫn có những cô giáo ở miền xuôi như cô “Đinh Thị Vin từ Phú Thọ rừng cọ đồi chè lên Mường Tè theo tiếng gọi tình nguyện...
nói tiếng Mông để dạy tiếng phổ thông, ăn mèn mén, sắn khô, măng rừng,
với ước mơ giản dị là một ngày nào đó sẽ có một đứa trò nhỏ người Mông
thi đậu vào đại học.”
Cùng lúc, nhiều bậc thức giả cũng đang chăm lo những dự án “giản dị” không kém – như Dự Án Bữa Cơm Có Thịt
của của tiến sĩ Trần Đăng Tuấn và nhà văn Phạm Ngọc Tiến (cùng với
nhóm bằng hữu của hai ông) cho những học sinh ở vùng cao. Trước những sự
kiện này, nhà báo Trương Duy Nhất đã thốt lên đôi lời vô cùng cảm khái:
“Có một lúc nào đó, chúng ta góp tiền không phải để mua thịt cho
các bé học sinh nghèo Tây Bắc, mà để dựng tượng đài những thầy cô giáo
trẻ từ xuôi lên sống và dạy học ở Tây Bắc? Sẽ không phải là tượng đài
hoành tráng. Hãy là tượng đài mà người ta nhìn thấy ở đó cái rét tê buốt
trong lớp học và ánh lửa nhẫn nại trong bếp độc thân.”
Rồi ra, không chừng, dám cũng sẽ có tượng đài của bà Tôn Nữ Thị
Ninh – người (trước khi chuyển qua từ trần) đã có ý hướng độc đáo là
sẽ xây dựng một trường đại học quốc tế, với sứ mệnh Trí Cao – Tâm Rộng – Tầm Xa trong một chế độ mà những kẻ cầm quyền tầm nhìn thì chỉ thấp bằng con kiến, và lòng dạ thì bé xíu như một cái cây tăm.
T.N.T
(*) Huy Đức. Bên Thắng Cuộc. Westminster: OsinBooK, 2012. Vol.2.
NGUYỄN HƯNG QUỐC * XÃ HỘI DÂN SỰ
Xã hội dân sự ở Việt Nam: Một bức tranh lệch lạc và dang dở
Nguyễn Hưng QuốcVOA -31.01.2013
Hầu hết các tài liệu viết về xã hội dân sự ở Việt Nam, chủ yếu bằng tiếng Anh đều nhấn mạnh: Xã hội dân sự chỉ mới manh nha tại Việt Nam từ giữa thập niên 1980, khi chính phủ và đảng cầm quyền công bố chính sách đổi mới. Thật ra, không phải. Theo tôi, đó chỉ là một cái nhìn phi lịch sử và đầy thiên kiến chính trị: Một cách vô tình hay cố ý, người ta hư vô hoá sự tồn tại của một nửa nước tương đối tự do trong thời kỳ 1954-75.
Từ những góc nhìn khác nhau, người ta có thể phê phán chế độ Việt Nam Cộng Hòa về nhiều điểm, từ chính trị đến quân sự, từ kinh tế đến xã hội. Tuy nhiên, có một điều không thể phủ nhận được: ở miền Nam, từ 1954 đến 1975, xã hội dân sự được phát triển một cách mạnh mẽ. Số lượng các tổ chức (chính thức và không chính thức) có tính chất tự nguyện, phi lợi nhuận, độc lập với nhà nước, của những người có cùng sở thích hoặc lý tưởng chung, nhiều vô cùng.
Không những nhiều mà còn đa dạng. Hầu như ở lãnh vực nào cũng có. Có những tổ chức có gốc gác từ ngoại quốc như: Hội Hồng Thập Tự (bây giờ gọi là Hội Chữ Thập Đỏ) hay Hướng Đạo. Có những tổ chức liên quốc gia như Hội Việt – Mỹ hay Hội Việt – Pháp, Việt – Đức. Các tôn giáo, ngoài một tổ chức thống nhất chung, còn có nhiều tổ chức nhỏ, như Công giáo thì có Phong trào Thiếu nhi Thánh thể, Hùng Tâm Dũng Chí và Thanh niên Sinh Công; Phật giáo thì, ngoài Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, có Hội Phật Học Việt Nam, Gia đình Phật tử, Thanh niên Phật tử… Địa phương nào cũng có các Hội đồng hương, Hội tương trợ hoặc Hội tương tế. Với người già thì có các Hội cao niên; với người trẻ thì, ngoài Hướng Đạo, còn có các tổ chức như Đoàn Thanh niên Thiện chí, Du Ca, Đoàn Văn nghệ Thanh niên Tiên Rồng, Đoàn văn nghệ Thanh niên Học sinh (còn có tên là Phong trào Nguồn sống), Thanh niên Phụng sự Xã hội, Đoàn Công tác Xã hội Sinh viên Học sinh. Ở các đại học đều có Hội Sinh viên; ở Sài Gòn và Huế còn có Tổng hội Sinh viên. Trong lãnh vực văn hóa cũng có rất nhiều tổ chức dân sự như: Cơ quan Khảo cứu Văn hóa Kỹ thuật Việt Nam, Tổng hội Khổng học Việt Nam, Tổng hội Việt Nam cổ học, Hội Việt Nam Văn hóa Á châu, Hội Giáo dục Bình dân Việt Nam… Về báo chí, có Nghiệp đoàn Ký giả Nam Việt, Hội Ái hữu Ký giả Việt Nam, Nghiệp đoàn Ký giả Việt Nam…Về văn học thì có Trung tâm Văn bút và vô số các thi văn đoàn ở mọi nơi. Một số tạp chí lớn hoạt động như một nhóm với một số cây bút chính làm hạt nhân, từ đó, chúng ta có nhóm Văn hóa Ngày nay, nhóm Sáng Tạo, nhóm Quan Điểm. Về mỹ thuật, ngoài Nghiệp đoàn Hội họa Việt Nam, còn có Hội hoạ sĩ trẻ. Về âm nhạc thì lại càng phong phú.
Một số tổ chức trên có thể nhận được sự tài trợ của chính quyền, nhưng ngay cả trong trường hợp ấy, họ cũng có tự do để hoạt động một cách độc lập, theo quy chế tự quản. Ngoài ra, còn có vô số tổ chức được thành lập chỉ với mục đích chống chính quyền như Ủy ban Cải thiện Chế độ Lao tù (của Linh mục Chân Tín), Phong trào Phụ nữ đòi Quyền sống (của Ngô Bá Thành), Ủy ban Tranh đấu cho Tự do Báo chí và Xuất bản (của Nguyễn Văn Bình), Ủy ban Bảo vệ Quyền lợi Người lao động (của Phan Khắc Từ), Lực lượng Hoà hợp Hòa giải Dân tộc (của Vũ Văn Mẫu), v.v.
Không những ở miền Nam thời 1954-75, ngay cả trước đó nữa, từ đầu thế kỷ 20, dưới thời Pháp thuộc, xã hội dân sự cũng đã phát triển khá mạnh mẽ. Ngoài các tổ chức chính trị chống Pháp, một cách công khai hay bí mật, còn có vô số các tổ chức xã hội, văn hóa, giáo dục rải rác khắp nơi, đặc biệt tại các thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Nội và Huế. Nông dân thì lập các Nông hội; học sinh sinh viên thì lập các Học hội; phụ nữ cũng lập các Hội phụ nữ dưới nhiều danh xưng khác nhau; phần lớn các tổ chức Phật giáo hoạt động sau này đều có tiền thân từ trước năm 1945: Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học (1930), Hội An Nam Phật học (1932), Hội Phật giáo Bắc kỳ (1934)… Về phương diện văn hóa, nổi bật nhất là Đông Kinh nghĩa thục (1907), Hội Khai trí Tiến Đức (1919-45), nhóm Tự Lực văn đoàn (nhóm này cũng tổ chức Phong trào Ánh sáng nhắm vào các hoạt động xã hội), và Hội Truyền bá Quốc ngữ (1938-45, do Nguyễn Văn Tố làm Hội trưởng).
Nếu đi ngược thời gian, trước thế kỷ 20, dưới thời phong kiến, chúng ta cũng có thể bắt gặp một hình thức phôi thai của các tổ chức xã hội dân sự. Ở các trường học vốn có chút tính chất thương mại (để nuôi sống các thầy đồ) nhưng nhiều hơn, tính chất văn hóa, nơi thầy trò và các đồng môn gặp gỡ và trao đổi với nhau về các chuyện học thuật, văn chương cũng như thế sự. Ở các tao đàn (trừ Tao Đàn Nhị thập bát tú vốn có tính quan phương do vua Lê Thánh Tông thành lập và làm Đô nguyên súy) như Chiêu Anh các của Mạc Thiên Tứ, Tùng Vân xã (còn được gọi là Mặc Vân thi xã) của Tùng Thiện vương. Vân vân.
Trong cuốn Civil Society in China (1), Timothy Brook phác họa sự phát triển của xã hội dân sự – qua các tổ chức có tính chất tự trị – ở Trung Quốc qua hai thời kỳ, từ thế kỷ 16 đến năm 1911 (thời nhà Thanh) và từ 1911-1949 (thời Cộng Hòa) như sau:
Các tổ chức tự trị ở Trung Quốc | ||
Nguyên tắc | Từ thế kỷ 16 đến 1911 | Từ 1911-1949 |
1. Theo địa phương (locality) | Làng xã Hội đồng hương |
Hội đồng làng, khu phố Hội đồng hương |
2. Theo nghề nghiệp (occupation) | Phường hội | Hội kinh đoanh, hội nghề nghiệp, nghiệp đoàn |
3. Theo sở thích (fellowship) | Các hội đạo | Tổ chức tôn giáo, nhà thờ |
Tổ chức từ thiện | Tổ chức từ thiện, phát triển xã hội | |
Nhóm văn nghệ | Hội kịch nghệ, đoàn âm nhạc, câu lạc bộ sách, câu lạc bộ thể thao, hội phụ nữ, đoàn thanh niên | |
Trường học | Trường tư, đại học, hội sinh viên, hội cựu học sinh, hội nghiên cứu | |
4. Theo lý tưởng chung (common cause) | Đảng phái chính trị, các nhóm vận động chính sách |
Ở đây, với cái nhìn thoáng qua như trên, chúng ta có thể thấy được một số điểm:
Thứ nhất, xã hội dân sự đã manh nha ở Việt Nam từ trước thế kỷ 20.
Thứ hai, từ đầu thế kỷ 20 trở đi, nó đã thực sự hình thành và phát triển.
Thứ ba, ở miền Nam, trong giai đoạn từ 1954 đến 1975, nó nở rộ.
Thứ tư, chỉ ở miền Bắc, từ sau 1954 và ở cả nước, sau năm 1975, xã hội dân sự mới bị triệt tiêu.
Ở đây lại nảy ra hai vấn đề:
Thứ nhất, xã hội dân sự dưới thời Pháp thuộc cũng như ở miền Nam có đóng vai trò gì đáng kể trong quá trình dân chủ hóa xã hội hay không?
Thứ hai, tại sao đảng Cộng sản lại cấm đoán xã hội dân sự?
Để trả lời một cách thuyết phục cho câu hỏi thứ nhất, cần có những công trình nghiên cứu công phu và công tâm. Cho đến bây giờ, chúng ta vẫn chưa có. Đành chờ.
Với vấn đề thứ hai, câu trả lời tương đối dễ: Đó là chính sách. Chính sách ấy gắn liền với các quan điểm quan trọng trong chủ nghĩa Mác, được Karl Marx đề cập và được Antonio Gramsci, một nhà Mác-xít lỗi lạc ở đầu thế kỷ 20, khai triển, từ đó, được áp dụng rộng rãi trong tất cả các chế độ xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Cho đến ngày các chế độ ấy bị sụp đổ.
Chú thích:
1. Timothy Brook & B. Michael Frolic (1997), Civil Society in China, New York: M.E. Sharpe, tr. 25.
*****
Nguồn:
http://www.voatiengviet.com/content/xa-hoi-dan-su-vietnam-buc-tranh-dang-do/1593984.html
About these ads
Friday, February 1, 2013
DƯƠNG THU HƯƠNG * CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN
Lột Trần Chế Độ CS
Dương Thu Hương
Đối với thế giới, uy tín của chính quyền cộng sản Việt Nam đã mất từ lâu, mất một phần khi xảy ra cuộc chiếm đóng Cambodia, mất toàn phần khi làn sóng thuyền nhân tràn lên các đại dương và xác chết của họ trôi khắp bãi bờ các quốc gia khác.
Với dân chúng trong nước, giờ đây họ thôi là nhà cầm quyền vĩ đại. Bởi
sự thoát đồng đã xảy ra từ rất lâu, họ thôi là thượng đế và dân chúng
thôi là những con nộm bị điều khiển bằng thứ tôn giáo do kẻ cầm quyền
sáng tác.
Dân
chúng đã nhìn rõ bản mặt của họ: những con vật đi bằng hai chân, những
con vật tham tàn, những con vật đang run sợ vì sự tham tàn của chúng
không còn được bóng tối che đậy.
Nhà cầm quyền Hà Nội lúc này chỉ còn tin vào nòng súng. Nhưng bất kì
kẻ cầm súng nào cũng có lúc chết vì chính thứ vũ khí mà họ sử dụng. Bởi
vì, chẳng có thứ vũ khí nào tự động nhả đạn. Vũ khí nào cũng cần bàn
tay của con người, dù là bàn tay bấm nút chiến tranh hạt nhân hay bàn
tay cầm dao găm, súng lục. Khi con người đã nhìn rõ sự thật, khi
họ không còn bị huyễn hoặc bởi các trò mị dân, khi họ hiểu họ là ai và
họ có thể làm chủ số phận của họ bằng cách nào, lúc ấy, các nòng súng sẽ đổi hướng.
Tiếng nhạc ầm ĩ trong ngày hội “Ngàn năm Thăng Long” hẳn đã át đi tiếng
nức nở của trên năm mươi gia đình nạn nhân chết vì bão lụt ở miền
Trung. Các quan chức Hà Nội không bỏ ra một nửa giây để tưởng niệm
những kẻ xấu số. Họ quên. Cũng như họ đã từng quên những người dân
đánh cá tỉnh Thanh bị giặc Tầu giết ngoài khơi, như họ quên các chiến sĩ
đã bỏ mình trên biên giới vào cuộc chiến tranh năm 1979. . .
Họ quên và họ quên. Vậy họ nhớ điều gì?
Khi con gái họ có nhu cầu mua một chiếc váy cưới xấp xỉ 200. 000 euros
tại đại lộ Champs Elysées thì họ phải nghĩ cách làm đầy thêm các ngân
khoản ở ngân hàng ngoại quốc. Khi nhân tình của họ cần chiếc xe hơi
sang trọng như xe của cô Hồ Thu Hồng thì họ phải nghĩ cách để kiếm cho
bằng được chiếc xe ấy, để nàng khỏi tủi thân vì kém chị kém em. Khi
ngôi lầu của họ chỉ đáng giá hai triệu đô la mà của kẻ khác giá gấp đôi
thì họ phải tìm cách đuổi kịp và vượt hắn. Đó là mối quan tâm cốt lõi
của giai cấp tư sản đỏ Việt Nam giờ đây, cái guồng quay cũ kĩ của đám
mới giầu.
Ai đó từng nói câu này: “Trong giai đoạn tích luỹ tư bản, giai cấp tư sản có thể giết chết cha đẻ của họ để có tiền”.
Giai cấp tư sản đỏ Việt Nam cũng có chung một trạng thái tâm lý đó:
khát tiền, làm mọi thứ để có tiền, bất kể phương tiện nào, dù đó là tội
ác. Nhưng tư sản đỏ Việt Nam không cần giết bố, bởi họ có một đối tượng khác dễ giết hơn nhiều: dân đen.
Họ không cần đốn ngã kẻ sinh thành bởi có thể hút máu dân đen một cách
thoả thuê, vừa thoả mãn cơn khát tiền lại vừa yên ổn lương tâm vì không
mắc tội giết cha.
Lấy ví dụ về tập đoàn Vinashin.
Mua một vỏ tầu cũ nát, đáy nứt, không thể vận hành, lấy sơn quét lên
rồi rút hàng triệu đô la trong công quỹ. Hàng triệu đô la ấy quan lớn
bỏ túi, còn con tầu “bãi rác” sơn bóng loáng kia được đặt trên đất liền
để làm “hiện vật bảo tàng”.
Nghe tưởng như chuyện đùa. Nghe như tiếu lâm. Thứ tiếu lâm cười ra nước mắt. Chỉ có ở Việt Nam , nơi kẻ cầm quyền coi dân là lũ trâu bò, mới dám làm điều ngang ngược đó. Chỉ có ở xứ Việt Nam
, khi tất cả các cuộc kí kết, thương thuyết của chính phủ đều diễn ra
trong bóng đêm và dân chúng không được quyền biết đến mới có thể xảy ra
hiện tượng này.
Lấy ví dụ thứ hai:
các vụ buôn người. Dưới chế độ độc đảng, độc tài, ai có thể làm được
điều này nếu không là chính các thành viên trong chế độ ấy. Tại sao lại
buôn người? Vì buôn người thu lời nhanh nhất, mà vốn đầu tư coi như
zero nếu có quyền hành. Cho nên, buôn người là nghề mới của đảng cộng sản Việt Nam , đảng thừa thãi quyền hành vì không có đối trọng.
Đã
là lái buôn, ắt phải tham. Lòng tham mà không bị điều tiết bởi các
điều luật thì nó sẽ phát triển vô cùng tận. Do đó, món hàng hoá có tên
gọi là “dân đen”của các quan chức Việt Nam sẽ được khai thác tối đa để làm đầy túi các bậc trị vì dân.
Khi đã coi dân chúng là hàng hoá, ắt người cộng sản phải tìm mọi cách
để đám dân đen trở thành vật vô tri, tức là các công cụ, thứ công cụ này
có chức năng sản xuất nhưng phải câm và phải điếc. Khi mà các công cụ dân đen không chịu nổi đàn áp, buộc mở mồm thì lập tức họ có cách để bắt nó phải câm. Vũ khí đó có tên gọi “chuyên chính”, bộ máy đàn áp trứ danh lâu nay.
Hãy đọc báo Công an nhân dân đưa tin về vụ xử ba thanh niên sáng lập công đoàn Tự do ngày 27 tháng 10 năm nay:
“Được Trần Ngọc Thành, kẻ cầm đầu Uỷ ban bảo vệ người lao động Việt Nam
đưa Hùng, Hạnh sang Malaysia đào tạo, huấn luyện, rồi từ ngày 28/1 đến
ngày 9/2/10, Trần Ngọc Thành đã chỉ đạo Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị
Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương thực hiện các vụ kích động biểu tình, rải
truyền đơn ở Trà Vinh, Đồng Nai, Tp HCM, nội dung kêu gọi người dân
chống lại Đảng, Nhà nước, kêu gọi đấu tranh để đòi dân chủ; lợi dụng các
vấn đề còn thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân ở
một số khu công nghiệp để tổ chức tuyên truyền, kích động công nhân đình
công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp.
. .”
Thứ nhất,
tác giả bài báo này quên rằng “Kích động công nhân đình công, biểu
tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp” là đích xác
các hành động của người cộng sản Việt Nam những năm trước cách mạng.
Các hành động này cũng đã từng xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới,
khi giai cấp lao động không chịu nổi sự áp bức và bóc lột của đám chủ
nhân. Các phản ứng tiêu cực này chỉ xảy ra khi sự thoả thuận giữa người
làm công với kẻ trả công bị vi phạm và cuộc sống của người lao động bị
đe doạ.
Phải
chăng tác giả bài báo này cho rằng chỉ riêng đảng cộng sản vĩ đại của
ông ta là được quyền sử dụng chiêu thức ấy còn những người khác thì bị
cấm vì họ không được là người mà chỉ là thứ phẩm của người, tức “dưới
người”, nói cách khác: “người vượn Néandertal”?
Thứ hai,
câu “lợi dụng các vấn đề thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương
của công nhân. . . ” chỉ là lối mỹ từ hoá sự vật. Nói một cách xác thực
và dân giã, hiện nay các quan lớn cộng sản Việt Nam đang thực thi chính
sách “bòn nơi khố quạnh, đãi nơi quần hồng”.
Tại sao lại “bòn nơi khố quạnh”?
Vì ngu, vì tham, vì trước ngoại nhân thì dốt nát và khiếp nhược nên các
quan lớn chỉ có lối kiếm tiền dễ nhất là bóc lột đồng bào mình, những
người không có phương tiện để tự bảo vệ, những kẻ bị hà hiếp, bị tê liệt
cùng một lần vì đói nghèo và sợhãi.
Tại sao lại “đãi nơi quần hồng”?
Vì người cộng sản lúc này thôi còn là cộng sản, họ đã trở thành đám tư
sản dù vẫn giữ vẻ mặt ngô nghê và bộ điệu lố bịch của kẻ cách đây chưa
lâu còn lo le sợi dây giong lợn giống hoặc lúc lắc cái ống bơ đựng xu lẻ
ăn mày. Khi đã đổi vai thì họ phải bám vào cái giai cấp tương lai của
họ, giai cấp mới này chính là đám quần hồng, thế nên họ phải đãi đám
quần hồng để còn kiếm chác phần đường mật trong đũng cái quần hồng ấy.
Sự thật đơn giản, nếu người ta nhìn thẳng vào nó.
Đám cầm quyền hôm nay đã rơi từ đỉnh cao của sự “kiêu ngạo cộng sản”
xuống vũng bùn của“các con lợn truỵ lạc phương Tây” mà trước đây họ
thường sa sả chửi rủa, họ đang sống xả láng trong cảnh phồn vinh mà
trước đây họ mỏi mồm lên án. Nói tóm lại, họ đang là thứ “khỉ khoác quần áo”, thứ “nhặt cái đuôi của bọn tiểu tư sản cắm vào lỗ mồm” như ông tổ hói đầu Lenin của họ từng cảnh báo trước đây.
Trong cuộc sống tối tăm, nhục nhằn của người nô lệ, các anh hùng đánh
đuổi ngoại xâm chính là các bậc thánh sống, được tôn trọng, thần phục,
ngưỡng mộ, và có toàn quyền trở thành các nhà sáng lập triều đình.
Nhìn lại lịch sử, ta dễ dàng chiêm nghiệm điều đó. Phải chăng triều
Lý, triều Trần, triều Lê, triều Tây Sơn Nguyễn Huệ đều được khởi dựng
sau các chiến thắng lẫy lừng chống kẻ xâm lăng? Ngoại trừ Đinh Bộ Lĩnh
là viên tướng phất cờ khởi nghĩa dẹp loạn sứ quân, thống nhất đất nước,
nói một cách dễ hiểu là viên tướng duy nhất xây dựng triều đình khi
chiến thắng các cuộc nội chiến phân quyền, còn lại, những gương mặt sáng
chói trong lịch sử đất Việt đều là những anhhùng chống Tầu và chống
Nguyên – Mông. Các triều vua này từng tuyên bố “Sông núi nước Nam vua
Nam ở”.
Và cuộc sống mái của họ là giành mục đích người Việt Nam là người Việt
Nam, dẫu áo vải quần thâm nhưng đàn ông nhất quyết không cạo trọc, tết
sam như gã A. Q, đàn bà không bó chân như các mợ Tầu.
Tuân theo logic ấy, triều cộng sản được hình thành là nhờ nó có công
trong cuộc cách mạng chống giặc Tây. Và người ta còn khoan dung cho nó
là vì tính đến cái công ấy, cái công “dành độc lập dân tộc”, cái khả
năng nối tiếp
truyền thống của các Vua nước Nam nhất thiết phải ở đất nước Nam, coi
sự tồn tại của non sông quý hơn tròng mắt của chính họ.
Cái tinh thần bất khuất ấy, còn hay chăng?
Còn hay chăng, tinh thần dân tộc của những người đã đổ máu để cắm
ngọn cờ hồng lên thành Hà Nội sáu mươi lăm năm trước, những cảm tử quân
đã ôm bom ba càng vào mùa đông năm 1946 với lời thề “Quyết tử cho tổ
quốc quyết sinh”?
Nếu những anh hùng vô danh ấy có linh hồn, hẳn các linh hồn ấy giờ đây đang nức nở.
Nếu những hiển linh của các vua xưa có thể cất lời, thì lời đầu tiên họ
nói sẽ là “Lũ người này đã phản bội lại dân tộc, bọn sâu bọ này đã bôi nhọ mặt chúng ta!”
Ngày Hội Ngàn năm Thăng Long diễn ra vào đúng ngày 1 tháng 10, thằng mù cũng biết đó chính là ngày Quốc khánh Trung Quốc. Tại sao lại là con số này? Tại sao có sự lựa chọn này? Vô ý chăng? Nhầm nhỡ chăng? Mất trí nhớ chăng?
Cứ coi như Bộ trưởng Bộ Văn hoá dốt nát thì trên đầu ông ta còn mười
một người trong bộchính trị. Không lẽ cả mười một người này mắc chứng
mất trí nhớ? Không lẽ cả mười một người này mắc bệnh thiểu năng?
Nếu
để cho mười một kẻ thiểu năng đứng trên đầu trên cổ mình thì dân Việt
xứng đáng là các bệnh nhân của trại tâm thần, một trại tâm thần khổng lồ
chưa từng thấy mà trong đó các con bệnh bị tiêm
thuốc ngủ liều cao liên miên nên đờ đẫn, không còn khả năng nhận thức
sự vật xung quanh. Nếu không, họ đã bị bán đứng cho Tầu, và tương lai
của họ, một tương lai không tránh được sẽ là bản sao lại sầu thảm của
những người dân Tây Tạng hoặc Tân Cương một khi họ bó tay trước lũ bán
nước.
Chọn ngày Quốc Khánh Trung Quốc để mở hội Ngàn năm Thăng Long là một biểu tượng hai mặt.
1. Với triều đình Bắc Kinh
chính phủ Hà Nội đã làm bản tuyên bố: Thành Thăng Long cũng chỉ là một
bộ phận trong lịch sử mẫu quốc, nó phải được treo đèn kết hoa cùng một
lần với đèn hoa của thủ phủ đại triều. Một khi thủ đô của một quốc gia
đã định vị nhưvậy, có nghĩa quốc gia ấy tự xác nhận danh tính chư hầu
một cách công khai. Sự kiện này là bản giao kèo bộc lộ lòng trung thành
vô hạn và vô điều kiện của đám hàng thần Hà Nội.
2. Với dân chúng,
đây cũng là lời tuyên bố thẳng thừng: Chúng tao bất chấp lịch sử, chúng
tao có toàn quyền định đoạt vận mệnh đất nước. Kẻ nào chống lại, kẻ đó
sẽ bị tiêu diệt.
Chọn ngày quốc khánh Trung Hoa để mở hội Ngàn năm Thăng Long là bằng
chứng hiển nhiên để mảnh vải rách cuối cùng che thân chế độ cộng sản rơi
xuống. Họ đã trở thành kẻ bán nước, công khai hoá hành vi bán nước của mình.
Nếu như năm 1945, cha anh họ là các anh hùng giải phóng dân tộc thì giờ đây, trái lại, họ là những tên phản tặc, sỉ nhục của tổ tiên, chẳng những cắt đất, cắt biển dâng cho giặc mà còn đương nhiên ném bùn lên lịch sử.
Người Việt Nam ta có câu “hổ phụ sinh cẩu tử”. Mà bọn người này, không
những là những con “cẩu tử” mà còn là “cẩu ghẻ”, “cẩu sida”.
Những người cầm quyền Hà Nội thừa thông minh để hiểu rằng họ là
những con cẩu ghẻ. Rằng trong dòng máu của bất cứ người Việt nào cũng
lưu cữu một thành tố có tên gọi “chống ngoại xâm”, mà thứ ngoại xâm
thống trị lâu dài nhất, tàn độc nhất, để lại các kinh nghiệm đau thương
sâu đậm nhất trong kí ức là “giặc phương Bắc”.
Cuộc thực dân hoá của Pháp 100 năm chỉ là cơn bão chóng qua so với thời
kì bắc thuộc của giặc Tầu. Họ biết rằng bất cứ kẻ nào phản lại truyền
thống đấu tranh dân tộc, kẻ đó mất chỗ đứng trong lòng dân chúng. Ngày
hôm trước còn được tung hô hoàng đế, hôm sau đã biến thành “Thằng chó
săn, thằng phản tặc, phường bán nước”.
Đó là trường hợp vua Lê Chiêu Thống đã phải chịu do hành vi bán nước
của ông ta. Còn câu ca “Nguyễn Ánh cõng rắn về cắn gà nhà” mãi mãi là
bài học lịch sử tố cáo tội ác của kẻ đặt lợi ích dòng họ trên quyền lợi
dân tộc. Giờ đây, nhà cầm quyền Hà Nội biết rằng họ đã bị đẩy sang bên
kia đường biên, họ rơi vào cùng một bè lũ với Lê Chiêu Thống và Nguyễn
Ánh.
Để đặt tên cho họ một cách rõ ràng và chính xác, tôi xin nhại lại câu
“cõng rắn về cắn gà nhà” của các cụ xưa mà rằng nhà cầm quyền Hà Nội giờ
đây là bọn “dẫn hổ về thịt dê nha“
DẪN HỔ VỀ THỊT DÊ NHÀ.
Tại sao lại là hổ và dê?
Hổ,
vì vương triều phương Bắc bây giờ mạnh hơn thực dân Pháp năm xưa nhiều
lần, để so sánh một cách chính xác thì phải dùng hình ảnh con hổ chứ
không thể là con rắn.
Dê, vì nhìn lại bản đồ, bạn đọc sẽthấy rằng toàn bộ bán đảo Đông Dương có thể ví như một con dê mà Tây nguyên chính là phần sống
lưng con dê đó. Một khi con hổ Trung Hoa cắm được móng vuốt lên chính
giữa lưng con dê này, coi như số mạng con dê đã nằm trong hai hàm răng
của nó.
Đế quốc Trung Hoa sẽ
trải rộng khắp châu Á. Việt, Miên, Lào sẽ trở thành các tỉnh thành
khác nhau của Trung Hoa, “công đầu” này thuộc về ai nếu không là nhà cầm
quyền Hà Nội, kẻ dựng lên công trình bauxite Tây nguyên?
Bauxite ư? Trò lừa đảo!
Thiếu
gì các quặng bauxite rải rác khắp miền Bắc Việt Nam , tại sao không là
Lào Cai, Yên Bái hay Cao Bằng mà lại là Tây Nguyên? Vả chăng, khai thác
bauxite để làm gì? Kiếm tiền chăng? Dối trá! Biết bao bài báo đã phân
tích chán chê lợi hại về khai thác bauxite, kể cả các tài liệu trên thế giới
cũng công bố rộng rãi tác hại của nó, mà vụ gần đây nhất là Vùng bùn đỏ
Hungaria. Còn có thể nói thêm được điều gì khi mà sự bán nước hiển
nhiên đã bầy ra trước mặt dân chúng, giữa thanh thiên bạch nhật?
Nhà cầm quyền Hà Nội hoàn toàn có ý thức về hành vi bán nước của họ, bởi con tính của họ là trở thành một thứ “Thái thú Tô Định hiện đại”, được hưởng đủ phần xôi thịt của Bắc triều.
Còn Việt Nam biến thành một tỉnh nào đó của Trung Quốc, mang tên Quảng
Việt, Quảng Nam, Quảng Lạc. . . họ không cần quan tâm.
Họ biết rõ rằng hành động của họ là đi ngược lại lợi ích của nhân dân,
biết rằng không người Việt nào cam tâm làm nô lệ cho Tầu, rằng kinh
nghiệm đau đớn của tổ tiên luôn luôn sống trong ý thức lẫn vô thức dân
tộc, thế nên họ chủ trương đàn áp dân chúng, họ chủ trương dùng bàn tay sắt để bóp nghẹt cổ những ai muốn nói lời phản kháng. Không phải ngẫu nhiên mà năm 2009, thứ trưởng bộ nội vụ Nguyễn Văn Hưởng tức Trần đã công khai dọa nạt những người trí thức Việt Nam vào dịp viện IDS của tiến sĩ Nguyễn Quang A tuyên bố giải tán.
Ông nghị Trần nói rằng
“Ở Việt Nam đảng độc quyền lãnh đạo nên không thể có phản biện. Phản
biện tức là phản động. Các anh muốn phản biện hả? Nhà tù đang còn nhiều
chỗ lắm. Nhưng chúng tôi cũng không cần đến nhà tù, chúng tôi có các
phương tiện hữu hiệu hơn. Tai nạn xe cộ bây
giờ tổ chức rất dễ dàng. Còn một biện pháp rẻ hơn và nhàn nhã hơn: đầu
độc. Các anh uống cà phê rồi khi về đến nhà thì cứng đơ ra mà chết.
Những bài bản này thế giới sử dụng đã lâu, chúng tôi cũng không thua kém
họ. . . ”
Những lời lẽ này nói lên điều gì nếu chẳng phải sự công khai triệt để
của tính tội phạm và tư cách chó? Một chính thể không còn lý do chính
đáng để tồn tại thì chỉ có thể duy trì bằng bạo lực, chỉ có thể sử dụng
bọn tội phạm, bọn sát nhân, bọn cặn bã xã hội, tóm lại, bọn chó giữ
nhà.
Không còn lý tưởng, không còn đạo đức, ngập chìm trong tham lam, truỵ lạc, con người trượt từ chữ NGƯỜI sang chữ CON.
Bác chúng em
Vào những năm 1989, 1990, tôi có vinh hạnh làm quen và gặp gỡ ông Lê Giản,
người công an đầu tiên của Việt Nam, người lãnh đạo bộ máy cảnh sát từ
những năm đầu cách mạng. Ông Lê Giản đích thực là “Người công an nhân
dân, từ nhân dân mà ra, do dân và vì dân”.
Tôi hiểu vì sao cuộc kháng chiến thành công. Kháng chiến thành công vì có những người như ông Lê Giản.
Nhưng ông Lê Giản đã chết và“Người công an nhân dân”cũng đã chết theo.
Cái chết này xảy ra từ từ với thời gian, một cái chết âm thầm, nhưng
không phải là vô hình vô ảnh.
Tôi chứng minh:
Cách đây ngót ba thập kỉ, khi những lượt hoa quả đầu tiên từ phương bắc tràn vào nước ta, các phòng phân tích thuộc Bộ Nội vụ đã
báo cáo lên bộ chính trị rằng các thứ hoa quả này đều tẩm formaldéhyde
(thuốc ướp xác chết) vô cùng độc hại cho người tiêu dùng vì nó phá huỷ
mô liên kết của các tế bào và là tác nhân gây ra bệnh ung thư.
Bộ chính trị ra lệnh cấm phổ biến sự thực trên vì “sợ mất lòng nước bạn”.
Các sĩ quan công an chỉ có thể ngăn cấm chính vợ con họ và rỉ tai những người thân cận nhất (anh em ruột, cha mẹ vợ chẳng hạn), đối với người ngoài, họ
tuyệt đối tuân thủ mệnh lệnh cấp trên. Tuyệt đối im lặng. Tuyệt đối
thản nhiên nhìn đồng bào mình ăn thứ đồ ăn nhiễm độc, biết chắc chắn
rằng ngày một ngày hai họ sẽ ung thư và sẽ chết vì bệnh đó.
Tính kỉ luật của đám sĩ quan này mới cao thượng làm sao(!) Và cao thượng làm sao, những kẻ ngồi
quanh bàn họp bộ chính trị, những bậc lương đống của triều đình, chịu
trách nhiệm chăn dắt dân đen, đàng hoàng ra lệnh cấm rò rỉ sự thật vào
tai dân chúng, bỏ mặc mấy chục triệu người bị đầu độc và chết dần chết mòn!
Đối với tôi, con đường bán mình cho giặc của chế độ Hà Nội đã khởi sự từ ngày ấy. Và ngày ấy cũng là cái mốc đánh dấu sự chuyển biến chất lượng này: từ người công an nhân dân, công an đã trở thành kẻ quay lưng lại với nhân dân.
Ba thập kỉ đã qua, những kẻ quay lưng lại với nhân dân đã trượt không ngừng trên con dốc, để trở thành kẻ thù của nhân dân.
Bây giờ, gương mặt nào là gương mặt đích thực của công an? Người hùng bảo vệ dân hay đám chó giữ nhà cắn cổ dân để bảo vệ ông chủ của nó?
Hãy xem lại các hình ảnh đưa lên internet năm 2008 về vụ nông dân bị
cướp đất biểu tình ở Sài Gòn. Những người dân cầy gầy gò xơ xác, đa
phần là người già và phụ nữ, từ các tỉnh Tiền Giang, An Giang, Bến Tre,
Long An, Bình Thuận đổ đến trước văn phòng Quốc hội 2 với các khẩu hiệu
“Trả đất cho dân”, “Chống cửa quyền, tham nhũng”. Những người dân ấy đã
bị đám công an và dân phòng béo múp vì bia rượu, mặt hằm hằm sát khí
đối xử ra sao? Mấy thế kỉ đã
qua nhưng hình ảnh bọn người này vẫn là bản sao chính xác bọn nha lại
mà Nguyễn Du đã mô tả trong Truyện Kiều:“Đầy nhà một lũ ruồi xanh”
và“Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi”.
Gần đây nhất, hãy nhìn hình ảnh anh Nguyễn Ngọc Quang, một giáo dân ở
Định Quán, tỉnh Đồng Nai vì tham gia đấu tranh cho dân chủ mà bị công an
Đà Lạt ba lần tổ chức tai nạn xe cộ để kẹp suýt chết.
Tôi tự hỏi, có lúc nào những người công an này tự vấn lương tâm? Tại
sao họ không dùng sức lực, dùng khả năng hung bạo mà họ sẵn có để giết
những tên giặc Tầu, lũ dã nhân tàn sát những người dân đánh cá Thanh
Hoá?
Nếu
là những người mà nghề nghiệp đặt trên bạo lực, bản năng hiếu chiến
mạnh mẽ, tại sao họkhông dùng khả năng đó để tiêu diệt ngoại xâm mà lại
đi đàn áp những sinh viên yêu nước biểu tình đòi Trường Sa, Hoàng Sa
trước sứ quán Tầu? Tại sao? Vì họ thiếu trí khôn hay vì họ là những kẻ
mù loà, óc não bị khô cứng trong một cuộc sống mà ngoài việc tuân theo
mệnh lệnh cấp trên không còn khả năng nghĩ đến điều gì khác ?
Vì chưa từng là công an, nên tôi dành những câu hỏi ấy cho họ trả lời. Tôi chỉ nêu lên nhận xét thứ hai, nhận xét khi tôi nhìn tấm ảnh đoàn biểu tình đòi mạng người xảy ra tại thị xã Bắc Giang ngày 25 tháng 7 năm nay.
Nhiều người biết rằng, ngày 23 tháng 7, hai công an huyện Tân Yên tỉnh
Bắc Giang đã đánh chết anh Nguyễn Văn Khương, 21 tuổi, quê quán tại
huyện Việt Yên vì tội danh không đội mũ bảo hiểm. Ngày 25 tháng 7, gia
đình anh Khương đã chở xác chàng trai này lên thị xã Bắc Giang đòi đền
mạng. Dân chúng xông lên ủng hộ gia đình nạn nhân, con số lên đến hàng ngàn người, làm thành một cuộc biểu tình rầm rộ chưa
từng có trong lịch sử tỉnh Bắc Giang, mà theo bài phỏng vấn, các cụ già
đã nói rằng còn đông hơn ngày theo Việt Minh cướp chính quyền năm Ất
dậu.
Trong sự kiện này, tôi chú ý đến một chi tiết: công an đưa xe cứu hoả
mang vòi rồng đến trấn áp dân chúng, nhưng trước khí thế căm
hờn của đám đông, công an bỏ chạy, hàng chục người dân trèo lên xe
đứng. Hiện tượng đó chứng tỏ không phải lúc nào công an cũng tê liệt vì
mù loà, luôn hành động như đám robot hoặc lũ chó berger. Trong lúc nguy khốn, họ đã tính toán và đã chọn con đường bỏ chạy để thoát thân.
Có lẽ, con tính của họ cũng đơn giản thôi. Không phải công an nào cũng phú quý vinh hoa như ông
nghị Nguyễn Văn Hưởng. Đa phần những người lính quèn chỉ đủ sức nuôi
một vợ thôi mà để nuôi cô vợ này với hai, ba đứa con kèm theo cuộc sống
của họ cũng
không phải là “thiên đường nơi hạ giới”. Nếu máu đổ ra mà chỉ để bảo
đảm cuộc sống ấy thì đó là một cuộc đổi chác ngu xuẩn. Thêm nữa, lớp
lính bây giờ tương
đối trẻ, họ biết chữ nên không hoàn toàn bị bưng bít thông tin, họ hiểu
được số phận của đám công an ra sao khi các cuộc cách mạng dân chủ xảy
ra ở Nga, ở Tiệp, ở Hung, ở Đức, và ở Ukraina mới rồi.
Thêm nữa, dù hổ thẹn hay cố tình bưng bít lương tâm, nơi thầm kín nhất
của con tim, họ cũng hiểu rằng chết vì một lý tưởng cao cả thì
đó là cái chết xứng đáng không làm hổ thẹn cho con cháu, chết chỉ vì
miếng cơm thì đó là cái chết của con chó gác sân mà khi dân chúng nổi
lên, họ sẽ lấy bắp cầy phang vỡ sọ hoặc dùng câu liêm cắt cổ.
Khi lòng dũng cảm và tinh thần hào hiệp không còn nữa, cái còn lại là sự tính toán vị kỉ của mỗi con người. Sự vị kỉ này cũng có mặt tốt của nó, nó là rào cản để chủ nghĩa cuồng tín không thể đặt chân vào mảnh sân của mỗi căn nhà.
Một người công an, nếu chưa mất toàn bộ sự sáng suốt, ắt phải biết tính
toán họ được bao nhiêu và mất bao nhiêu, liệu số lương bổng họ được có
trang trải nổi phần tiêu phí cho đám tang của họ và nuôi nổi cô vợ với
lũ con còn lại, hay sự hy sinh của họ chỉ để làm nặng thêm túi tiền các quan lớn, khiến các quan thêm rửng mỡ để đi hiếp trẻ con (như ông chủ tịch kiêm phó bí thư tỉnh Hà Giang tên Nguyễn Trường Tộ và các ông khác chưa bị lộ mặt), hay máu họ đổ xuống chỉ để đổi lấy các hộp kem đắt tiền nhằm bổ dưỡng
làn da mịn màng cho các mỹ nhân của quan lớn (như đám mèo cái đang vờn
quanh rốn ông nghị Nguyễn Văn Hưởng)? Vân vân và vân vân. . .
Sự tính toán luôn có lợi cho con người. Bởi thánh nhân thường hiếm mà
kẻ trục lợi thường nhiều nên không thể đòi hỏi tất cả mọi người đều xả
thân vì đất nước. Tuy nhiên, nếu không là thánh nhân thì họ cũng là dân
Việt.
Là
dân Việt, họ phải hiểu rằng truyền thống chống Tầu là dòng máu sôi sục
liên tục chảy trong tim dân tộc này. Bất cứ kẻ bán nước nào, sớm hay
muộn, trước hay sau cũng sẽ nằm trước mũi súng của nhân dân.
Dân Việt :
Ai là dân Việt?
Phải chăng đó
là tộc người duy nhất trong hàng trăm tộc Việt (Bách Việt) xưa kia sống
ở phía nam sông Dương Tử còn giữ lại được bản sắc mà chưa bị đồng hoá
như chín mươi chín tộc Việt kia?
Phải chăng vì sự cứng đầu này mà đất Việt luôn luôn là con mồi trong tâm thức Bắc triều?
Ngoài các lý do về nhu cầu bờ biển với các hải cảng, nhu cầu khoáng
sản, còn một nhu cầu thầm kín nữa mà quan lại phương Bắc không nói ra,
đó là nhu cầu đồng hoá nốt cái phần còn lại của Bách Việt.
Niềm
kiêu hãnh Đại quốc là ở đó. Mối bực mình của Đại quốc cũng là ở đó.
Một khi họ đã thâu tóm, đã chiếm lĩnh, đã áp đặt nền văn hoá và chữ Hán
lên chín mươi chín tộc Việt kia, lẽ nào còn cái tộc cuối cùng họ phải
chịu thua?Ở thế thượng phong mà mấy ngàn năm nay chưa nuốt trọn hòn xôi
Việt Nam, mảnh đất cỏn con, dường như là một “vết thương lòng, một sự tự
ái” mà vua chúa Trung Hoa không chịu được.
Cách đây vài năm, ai đó từng nói với tôi rằng “Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch là địch thủ, nhưng về chính sách đối với Việt Nam thì bọn họ sẽ ngồi cùng một bàn”.
Đó là một nhận định sáng suốt.
Năm trước, ông bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc tiến hành cuộc điều tra dư luận xem bao nhiêu phần trăm dân chúng ủng
hộ xâm chiếm Việt Nam . Theo công bố của ông ta thì con số này lên đến
trên 90%. Cứ cho rằng Trung Quốc là một nước cộng sản nên dân chúng
còn sợ hãi, họ phải tuân theo thượng cấp nên có thể trừ đi 20 phần trăm,
phần còn lại vẫn là trên 70 phần trăm. Và điều này là sự thật không ai
có thể chối bỏ.
Năm nay đã là năm 2010, thế kỉ 21,
Trung Quốc không còn sống dưới vương triều họ Mao, không còn phải đổi
xác người thân cho nhau để chén thịt. Kinh tế phát triển, các phương
tiện kĩ thuật phát triển, trình độ văn hoá được nâng cấp, sách báo lan
tràn trong các đô thị, không thể cho rằng dân Trung Quốc hoàn toàn bị
dắt mũi bởi họ ngu dốt, bởi thiếu thông tin, bởi sợ hãi nhà cầm quyền,
ngược lại, họ đang dương dương tự đắc vì là dân của Cường quốc số 2 trên
thế giới. Vậy thì, cái “hòn xôi Việt Nam chưa nuốt được” kia không chỉ
làm ngáng họng đám cầm quyền mà cũng còn làm ngứa ngáy cổ họng vô số dân đen phương Bắc, một mặc cảm có mẫu số chung.
Vì lý do nào mà bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc làm cuộc điều tra này? Đó là một trò chơi ngẫu nhiên hay là sự thăm dò có chủ định?
Vì lý do nào mà trên các site internet Trung Quốc tung ra hàng loạt bài chửi bởi, nhục mạ “lũ chó Việt Nam , phải đánh bọn chúng. Lũ chó Việt Nam, lần này chúng ta sẽ thanh toán lịch sử”,
và công bố một cách chi tiết chương trình thôn tính Việt Nam trong ba
mươi mốt ngày, phần còn lại của bán đảo được quy định là một tuần, tóm
lại là chương trình con hổ Trung Quốc nuốt trọn con dê Đông Dương?
Liệu nhà cầm quyền phương Bắc có thể ngang ngược làm những điều ấy
chăng nếu như chính quyền Hà Nội còn là một chính quyền độc lập mà không
tự nguyện biến mình thành đám gia nô cho vương triều Đại Hán?
Tôi dành những câu hỏi ấy cho bạn đọc trả lời.
Tôi chỉ xin nhắc họ rằng, chúng ta là tộc người cuối cùng sống sót mà không bị đồng hoá thành người Hán. Tổ tiên chúng ta đã đấu tranh không mệt mỏi để chống lại sự áp đặt của Bắc triều, bởi họ đã nhìn thấy sự đánh mất bản diện, sự lụi tàn của 99 tộc Việt kia.
Để tồn tại và được là chính mình, tổ tiên ta vừa chống chọi vừa lùi
xuống phương Nam . Lịch sử của dân tộc Việt tóm gọn trong câu này: “
Nam tiến”!
Nam tiến, nam tiến và nam tiến!
Cuộc Nam tiến thứ nhất khởi sự dưới triều Lê, từ năm 1428 đến năm 1527.
Kể từ đây, cuộc khai khẩn và chinh phạt tiếp tục không ngưng nghỉ. Từ
Thăng Long các đoàn quân xưa vượt qua đèo Ngang, sau lưng họ là những
đoàn nông dân và thợ thủ công vào phá rừng, bạt núi, kiến tạo ruộng đồng
và lập làng xây ấp. Rồi tiến đến châu Ô, châu Rí. Rồi, từ đèo Ngang
vượt qua đèo Hải Vân là chặng đường thứ hai. Cứ thế mà hành trình này
tiếp tục cho đến mũi Cà Mau.
Nam tiến, đó là sự nghiệp dựng nước của tổ tiên ta.
Bây giờ, chúng ta không còn cơ hội để tiếp tục sự nghiệp của họ. Chúng ta không thể Nam tiến. Trước mặt chúng ta đã là biển. Chúng ta tiến đi đâu?
Người Việt chỉ còn cách tồn tại cuối cùng là giữ lấy đất đai,
đất đai ấy là xương máu của cha ông ngàn đời tích tụ lại, đất đai ấy là
nơi cắt rốn chôn rau nhưng cũng là thành luỹ mà họ có thể nương tựa vào
để duy trì cuộc sống cho mình và cho các thế hệ mai sau.
Để giữ được non sông, để có thể là người Việt mà không trở thành đám thiểu số khiếp nhược của một vương quốc khác, chúng ta không thể tiếp tục dung dưỡng một chính quyền bán nước, một chính
quyền đã ngang nhiên cắt đất, cắt biển cống cho phương Bắc, đã nhục nhã
biến ngọn cờThăng Long ngàn năm thành một mảnh vải vụn xén ra từ cái
váy hồng Bắc Kinh.
Chúng ta không thể bảo vệ được Tổ quốc nếu tiếp tục nuôi giữa lòng dân
tộc mình một con rắn độc, cũng như Vua An Dương Vương xưa đánh mất non
sông vì trót đẻ ra và trót yêu thương đứa con gái phản tặc có tên là Mỵ
Châu. Với tất cả các hành vi nhục nhã mà họ đã làm, chế độ Hà Nội giờ
đây đã chính thức trở thành một thứ Mỵ Châu.
Tuy nhiên, Mỵ Châu xưa là một người đàn bà xinh đẹp nhưng ngu dốt, kẻ
luỵ tình nông nổi nên tội bán nước của cô ta còn được người đời khoan
dung. Tại đền thờ Cổ Loa có hai tượng đá, tượng đá ngoài sân là biểu
tượng Mỵ Châu nằm gục mặt xuống đất mà bất cứ ai đi qua cũng phải đạp
một cái lên lưng và nhổ một bãi nước bọt để trừng phạt “con Mỵ Châu bán
nước”. Còn tượng đá trong đền, tựa như một người đàn bà cụt cổ phủ vải
đỏ thì lại được hương khói do lòng đồng cảm với “Mỵ Châu khờ dại và lụy
tình”.
Dân Việt vốn không cuồng tín, họ phân biệt rõ ràng mọi sự, bên kia chữ lý còn đọng chữ tình.
Nhưng nàng Mỵ Châu ngây thơ, khờ dại đã chết từ mấy ngàn năm trước, còn
chính quyền Mỵ Châu bây giờ không một chút khờ dại mà cũng chẳng luỵ
tình ai, nó chỉ luỵ
cái túi tiền của chính nó. Mọi tính toán của nó chỉ nhằm tu tạo, xây
đắp quyền lợi bản thân, cũng như con thú chỉ có một đam mê duy nhất là
liếm cho mượt bộ lông của chính nó mà thôi.
Mỵ Châu ngày nay là một con đĩ già trơ trẽn, trần truồng nằm dạng háng sẵn cho phương Bắc.
Người dân Việt phải chém cụt đầu con đĩ ấy, trước khi nó kịp trao hết nỏ thần vào tay giặc nếu chúng ta không muốn lặp lại số phận bi thảm của An Dương Vương.
Dân tộc Việt không thể làm được điều ấy, nếu quân đội không đứng lên cùng với họ.
Quân đội, những người lính của nhân dân, các anh còn ngủ đến bao giờ?
DƯƠNG THU HƯƠNG
*Tổng Thống Nga Vladimir Putin:
Kẻ nào tin những gì Cộng Sản nói, là không có cái đầu.
Kẻ nào làm theo lời của Cộng Sản, là không có trái tim.
*Tổng Thống Nga Boris Yeltsin:
Cộng Sản không thể nào sửa chửa, mà cần phải đào thải nó.
*Bí Thư Đảng Cộng Sản Nam Tư Milovan Djilas:
20 tuổi mà không theo Cộng Sản, là không có trái tim,
40 tuổi mà không từ bỏ Cộng Sản, là không có cái đầu.
*Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Liên xô Mr. Mikhail Gorbachev:
Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng Cộng Sản.
Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng Cộng Sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.
No comments:
Post a Comment