DÂN LÀM BÁO * CON TÔI VÔ TỘI
Bà mẹ kiên cường Nguyễn Thị Hóa:
Con tôi vô tội!
CTV Danlambao
- Trong trận càn đàn áp nhân dân sáng nay, CA Nghệ An đã huy động lượng
lượng rất đông, với quân số áp đảo gấp 10 lần dân thường. Trong số này,
xuất hiện một lực lượng cực kỳ quái dị là các nữ công an bịt mặt chuyên
đi bắt người và đánh người.
Đặc điểm nhận dạng của nhóm nữ công an này là cùng mặc một kiểu áo hoa
lốm đốm (loại áo chống nắng), khuôn mặt thì bịt kín giống hệt những tên
khủng bố. Những nữ công an này khi bắt người thì ra tay hết sức tàn bạo,
nhưng do sợ người dân nhận mặt nên họ đã phải che kín mặt.
Sáng nay, mẹ ruột anh Nguyễn Đình Cương là bà Nguyễn Thị Hóa trong lúc
cố gắng kêu gọi trả tự do cho con trai mình đã bất ngờ bị nhóm nữ CA này
xông vào tấn công, bắt bớ. Hình ảnh gửi đi cho thấy, nhóm phụ nữ bịt
mặt này đã được đào tạo rất bài bản về các đòn trấn áp, bắt bớ nhân dân.
Trong lúc vây bắt bà Hóa, bọn chúng đã bấm huyệt, rồi khống chế nạn nhân
bằng cách giữ chặt tay. Sau đó, một nữ CA bịt mặt khác dùng một vật lạ
đâm vào vùng bụng dưới khiến bà Hóa ngã quỵ vì đau đớn.
Bà Hóa bị đưa về giam giữ tại đồn CA. Tuy nhiên, trước thái độ cương
quyết của một bà mẹ thương con, công an buộc phải thả bà vào lúc 12 giờ
trưa.
* Ảnh trên cùng: Bà Nguyễn Thị Hóa và con trai Nguyễn Đình Cương
Con trai bà Nguyễn Thị Hóa là anh Nguyễn Đình Cương, 1 trong 8 thanh niên yêu nước bị đang đưa ra phiên tòa phúc thẩm sáng nay.
Tại phiên tòa sơ thẩm diễn ra hồi tháng 1/2013, anh Cương bị kết án 4
năm tù giam và 3 năm quản chế. Thời điểm ấy, vì lâu ngày không gặp và
thương nhớ con, bà Hóa không kìm lòng đã lên tiếng khuyên con hãy vững
vàng, đồng thời kêu gọi "Các con đừng sợ". Ngay lập tức, bà bị lôi ra
ngoài, sau đó bị CA đánh chấn thương sọ não phải nhập viện 2 tháng.
Tại phiên phúc thẩm hôm nay, bà Hóa không được vào tham dự phiên tòa con trai mình. Quá phẫn uất, bà chỉ biết kêu gào gọi tên con trong vô vọng.
Mặc dù toàn thân còn rất đau đớn, nhưng bà Hóa đã từ chối không đi bệnh
viện để khám thương. Hiện nay, bà vẫn tiếp tục ngồi bên ngoài phiên tòa
để chờ tin con, xung quanh công an vẫn tiếp tục bám sát.
Bất kể phiên tòa phúc thẩm hôm nay diễn ra thế nào chăng nữa, chắc chắn
anh Nguyễn Đình Cương sẽ luôn mỉm cười vì có một người mẹ kiên cường và
bất khuất.
CTV Danlambao
danlambaovn.blogspot.com
CTV Danlambao
danlambaovn.blogspot.com
A courageous mother, Nguyễn Thị Hóa: My son is innocent!
Như Ngọc (Danlambao)
- During the aggressive raid this morning, Nghe An police has mobilized
a huge force as large as 10 times the number of local civilians. Among
them, appeared a monstrous force of masked female police who were
chasing, beating and arresting people.
Local residents could identify this group of special female police by
looking at their unique floral shirts and masks. Their masked faces look
like those of the terrorists. They are very aggressive and cruel so
that they have to veil their faces, fearing people could recognize them.
This morning, Mrs. Hoa Thi Nguyen, mother of Cuong Dinh Nguyen, called
out loud for the release of her son and was abruptly arrested by this
group of female police. Video clips captured at the scene show those
female police used specially trained techniques to crack down and arrest
people effectively in a cruel manner.
During the arrest of Mrs. Hoa Nguyen, they controlled her hands while
another masked female stabbed her lower abdomen with a strange object,
she then collapsed in pain.
Mrs. Nguyen was taken to, and detained, at a police station. However,
her courageous resistance forced them to release her around 12 noon.
Talking to Danlambao, Mrs. Nguyen said her body is still very painful
and weak that she can’t walk. When arrested, she said, the masked
female police stabbed her lower abdomen with a hard and sharp object.
The wound has since caused pain on her each step.
Her son, Cuong Dinh Nguyen, was among the 8 young patriots who appeared at the appeal court this morning.
Cuong was sentenced to 4 years in prison and 3 years of probation at a
trial on January 1, 2013. At that trial, Mrs. Nguyen yelled to her son
“Do not be afraid!” Immediately, she was pulled out of the courtroom and
beaten so badly. As the result, she had brain injury and must stay in
the hospital for 2 months.
Mrs. Nguyen was not allowed to attend the appeal of her son today.
Although suffering severe pains she refused to go to hospital to check
her injury. Currently, she continues to sit outside the courthouse
waiting for the outcomes and police are monitoring her around.
Regardless of the outcomes today, Cuong Dinh Nguyen will surely have a smile for having a courageous and indomitable mother.
TRẦN TRUNG ĐẠO * NGUYỄN PHƯƠNG UYÊN
Trang Chủ
Bài viết mới nhất
Võ Thị Thắng và Nguyễn Phương Uyên, bóng tối và ánh sáng
Trần Trung Đạo
Một nữ đặc công thuộc
lực lượng biệt động thành Sài Gòn được bộ máy tuyên truyền Cộng Sản đánh
bóng đến mức không thể nào bóng hơn. Đó là bà Võ Thị Thắng. Nụ cười khá
ăn ảnh của bà bên ngoài tòa đại hình Sài Gòn, được một phóng viên Nhật
chụp ngày 27 tháng 7 năm 1968 và được Trần Quang Long đưa vào nhạc phẩm Nụ cười chiến thắng.
Bắt lấy cơ hội tuyên truyền, theo chỉ thị của đảng, từ đó, không biết
bao nhiêu phim, nhạc, thơ, bình luận, hồi ký, bút ký đã viết về bà Võ
Thị Thắng.
Kỹ thuật nhồi sọ theo
kiểu “Tăng Sâm giết người” rất đơn giản nhưng vô cùng hữu hiệu. Những
thông tin có tính chỉ đạo của đảng đã theo nhiều ngã tấn công và tấn
công liên tục vào ý thức vào con người. Từ sáng đến chiều, từ ban ngày
qua ban đêm, từ năm tàn qua tháng tận, dần dần không chỉ các em học sinh
có tâm hồn ngây thơ trong trắng yêu “nụ cười chiến thắng” của bà mà cả
người lớn cũng say mê những “mẫu chuyện anh hùng” về bà Võ Thị Thắng.
Và không những đảng
viên CS mà cả những người “phê bình đảng”, những “nhà phản biện” cũng
không thoát ra khỏi sức hút của “nụ cười Võ Thị Thắng”. Trong phiên tòa
xử tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ tháng 4 năm 2011, và lần nữa sau phiên tòa xử
hai em Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha mới đây, “nụ cười chiến
thắng” của Võ Thị Thắng lại được một số tác giả nhắc đến để ca ngợi tinh
thần yêu nước dũng cảm của hai em Phương Uyên và Nguyên Kha. Khi dùng
nụ cười một nữ khủng bố để so sánh với ước vọng dân tộc, nhân bản và hòa
bình trong tâm hồn trong như ngọc của một nữ sinh viên, các tác giả
không để ý đến những nghịch lý vô cùng căn bản trong hai mục đích sống,
hai phương pháp đấu tranh và hai nhân cách đạo đức hoàn toàn trái nghịch
giữa hai con người.
Võ Thị Thắng là ai ?
Bà Võ Thị Thắng, sinh
ngày 10 tháng 12 năm 1945 tại xã Tân Bửu, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
Ủy viên Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN khóa VIII và khóa IX. Bà là
con út của 10 anh em sinh ra trong một gia đình Cộng Sản hoạt động tại
Long An. Từ khi còn nhỏ bà đã giúp cha mẹ đưa cơm, nuôi giấu cán bộ CS.
Sau
khi từ Long An lên Sài Gòn đi học đến lớp đệ nhị, tức lớp mười một bây
giờ, tại trường Gia Long. Theo tài liệu chính thức của đảng, trong thời
gian tại Sai Gòn, “Thắng tham gia phong trào đấu tranh xuống đường
của thanh niên sinh viên, học sinh Sài Gòn Gia Định; rồi phong trào công
nhân và nhân dân lao động khu xóm, xí nghiệp nội thành; khẩn trương gây
dựng cơ sở, xây dựng căn cứ chính trị nội thành, diệt ác phá kềm, ém
quân, vũ khí mai phục, chuẩn bị vào đợt Mậu thân – tổng công kích khởi
nghĩa năm 1968.”
Từ
sau Mậu Thân, bà Võ Thị Thắng gia nhập lực lượng biệt động thành Sài
Gòn và được giao nhiệm vụ ám sát ông Trần Văn Đỗ. Ông Trần Văn Đỗ chẳng
phải là viên chức cao cấp, một chính khách tên tuổi gì của chính phủ
VNCH mà chỉ là phường trưởng phường Phú Lâm, quận 6, Sài Gòn. Theo tài
liệu đăng trên Quân Đội Nhân Dân ngày 17-09-2009 “Ngày 27-7-1968, sau
khi nắm tình hình địch, chị cải trang đột nhập vào nhà tên Đỗ cùng với
hai đồng chí yểm trợ vòng ngoài. Hôm đó khác thường lệ tên Đỗ đi ngủ
sớm, chị tiến thẳng đến giường tên Đỗ lên đạn bắn hai lần nhưng cả hai
phát súng đều không nổ. Thấy động tên Đỗ tỉnh dậy, chị bắn lần thứ ba
nhưng không trúng”. Vụ ám sát bị lộ, bà bị bắt, đưa ra tòa đại hình
và bị kết án hai mươi năm tù. Sau khi hiệp định Paris ký kết, bà Võ Thị
Thắng được trao trả về phía Cộng Sản tại Lộc Ninh vào tháng 4 năm 1974.
Tóm
lại, dù “vận chuyển vũ khí mai phục” hay “ám sát”, nhiệm vụ chính của
nữ cán bộ CS Võ Thị Thắng là giết người. Bà Thắng không giết Tây, không
giết Mỹ nhưng như bằng chứng trước tòa, bà đi giết người Việt Nam.
Hoạt
động của biệt động thành Sài Gòn chủ yếu là bắt cóc, ám sát, ném bom,
đặt chất nổ tại các nơi công cộng. Những hoạt động đó xét theo tiêu
chuẩn nào, vào thời kỳ nào và nhân danh bất cứ lý do gì đều là các hoạt
động khủng bố. Yasser Arafat, chủ tịch Tổ Chức Giải Phóng Palestine
(Palestine Liberation Organization), một tổ chức có liên hệ rất nhiều
với các hoạt động khủng bố chống Do Thái và từng thề sẽ làm cho “cuộc
sống của người dân Do Thái không thể nào chịu đựng nỗi” cuối cùng cũng
thừa nhận khủng bố là một hành động xấu xa, tội lỗi.
Phương
pháp khủng bố của biệt động thành Sài Gòn hoàn toàn giống như hoạt động
của phong trào Tháng Chín Đen tại Jordan thập niên 1970, của các nhóm
Hồi Giáo cực đoan tại Iraq sau 2003, Taliban tại Afghanistan sau 2001,
của cánh cực đoan quân sự Hamas tại Palestine, của tổ chức al-Qaeda tại
nhiều nơi trên thế giới hiện nay. Giống như hầu hết các tổ chức khủng
bố, ngoài việc lấy mục đích biện minh cho phương tiện bất nhân, những kẻ
giết người cũng đã được ca ngợi và vinh danh.
Để
giết một người Mỹ các nhóm khủng bố al-Qaeda đã giết hàng trăm người
dân chính nước họ như các hành động đặt đang bom diễn ra tại Iraq. Tương
tự, để giết một người Mỹ hay một người lính VNCH, các biệt động thành
Sài Gòn đã giết nhiều người Việt Nam vô tội trong đó có đàn bà trẻ em.
Một người Việt Nam lớn tuổi nào cũng không thể quên “chiến công hiển
hách” của lực lượng biệt động thành tại nhà hàng Mỹ Cảnh tối 25 tháng 6,
1965. Trong số hàng trăm người chết do hai trái mìm đặt tại nhà hàng có
nhiều “kẻ thù nhân dân” còn mặc tả.
Nguyễn Phương Uyên là ai ?
Nguyễn Phương Uyên,
sinh 12 tháng 10, 1992, sinh viên năm thứ 3 trường Đại học Công nghiệp
thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh, cư ngụ xã Hàm Trí, huyện Hàm Thuận Bắc,
Bình Thuận.
Khác với Võ Thị Thắng
được cha mẹ nuôi dường bằng lòng “căm thù Mỹ Ngụy”, sinh viên Nguyễn
Phương Uyên, dù tham gia đoàn trường của đại học nhưng bản chất là một
cô bé ngoan hiền, hồn nhiên, hiếu thảo và có tấm lòng vị tha đối với mọi
người.
Trong hai mươi mốt năm làm người từ lúc mới sinh ra cho đến nay,
cô bé mảnh mai này, ngoại trừ lúc vô tình dẫm lên, có thể chưa tự tay
giết một con kiến đừng nói chi nghĩ đến chuyện giết người. Một bộ ảnh do
bạn bè thu thập cho thấy một Phương Uyên sống yên vui bên cạnh gia
đình. Các em vui chơi, nhảy nhóc tung tăng, cười nói hồn nhiên như một
cánh bướm vàng trong khu vườn xuân tuổi trẻ. Một bạn học của em trả lời
đài Á Châu Tự Do: “Năm cấp 3, em và Uyên chơi thân với nhau. Trong
lớp học, Uyên học rất chăm chỉ. Bạn ấy hiền lắm. Khi đi học, bạn bè có
gì là bạn ấy hay giúp đỡ lắm. Nói chung, bạn ấy rất năng động trong
những hoạt động của trường lớp và hòa đồng với bạn bè.”
Khác với Võ Thị Thắng
là sản phẩm tuyên truyền, được sơn bằng những lớp son phấn giả tạo,
Nguyễn Phương Uyên là một con người thật, tinh khôi như một thiên thần.
Trong lúc Võ Thị Thắng đấu tranh bằng phương tiện giết người, bạo động
Nguyễn Phương Uyên chọn phương pháp ôn hòa để gióng lên tiếng nói của
mình. Che khuất trong đôi cánh thiên thần Phương Uyên là lòng yêu nước
vô cùng trong sáng.
Trong vóc dáng như sợi tơ tưởng chừng một cơn gió
nhẹ cũng có thể thổi em bay ra khỏi cửa sổ là một trái tim chan chứa
tình dân tộc không thể nào lay chuyển được. Em đứng trước tòa án CS nhẹ
nhàng như một nhánh lau non trước cơn bão lớn, điềm tỉnh nhưng cương
quyết: “Việc tôi làm thì tôi chịu, xin nhà cầm quyền đừng làm khó dễ
mẹ hay gia đình của chúng tôi. Chúng tôi làm để thức tỉnh mọi người
trước hiểm họa Trung Quốc xâm lược đất nước và cuối cùng là chúng tôi
làm xuất phát từ cái tấm lòng yêu nước nhằm chống cái xấu để làm cho xã
hội ngày càng tốt đẹp tươi sáng hơn”. Và em nói tiếp “Tôi là sinh
viên yêu nước, nếu phiên tòa hôm nay kết tội tôi, thì những người trẻ
khác sẽ sợ hãi và không còn dám bảo vệ chủ quyền của đất nước. Nếu một
sinh viên, tuổi trẻ như tôi mà bị kết án tù vì yêu nước thì thật sự tôi
không cam tâm”.
Tại sao nhiều người vẫn tin vào các “anh hùng” do đảng CS dựng nên ?
Nikolai Bukharin, lý
thuyết gia Cộng Sản, chủ nhiệm báo Sự Thật, cơ quan ngôn luận chính thức
của đảng CS Liên Xô và người bị Stalin thanh trừng năm 1938, viết trong
tác phẩm kinh điển “ABC về chủ nghĩa Cộng Sản”: Tuyên truyền về chủ
nghĩa cộng sản, về lâu dài trở thành một phương tiện để xóa bỏ mọi tàn
tích cuối cùng của tuyên truyền tư sản bắt nguồn từ chế độ cũ, và là
phương tiện mạnh mẽ để tạo ra một hệ lý luận mới, một cách suy nghĩ mới,
một tầm nhìn về thế giới mới.”
Với chủ trương đó, chính sách trồng người của các chế độ CS thể hiện qua hai phương pháp: giáo dục và tẩy não.
Về giáo dục, nền giáo
dục Cộng Sản không đặt trên cơ sở khách quan khoa học nhưng là một hệ
thống tuyên truyền phục vụ cho các mục tiêu của đảng và nhà nước CS
trong mỗi thời kỳ. Về tẩy não, năm kỹ thuật căn bản được áp dụng triệt
để trong phạm vi toàn xã hội cho đến từng người: cô lâp, kiểm soát, tạo sự bất an, lập đi lập lại và gây xúc động cho đối phương.
Nhận thức của con người
không ở trong trạng thái tỉnh nhưng luôn luôn biến động, thay đổi và
đón nhận các nguồn thông tin từ bên ngoài bao gồm xã hội, giáo dục, môi
trường thiên nhiên và cả cơ thể của chính con người. Chủ động kiểm soát
được nguồn thông tin đi vào ý thức con người là kiểm soát được con
người. Cả năm phương pháp tẩy não được thực hiện liên tục, phối hợp chặt
chẽ và tác dụng hỗ tương vào nhận thức con người cho đến khi đối tượng
hoàn toàn bị đặt trong vòng kiểm soát. Các nguồn thông tin do chế độ CS
cung cấp có tính hệ thống, theo từng tuổi, từng giai đoạn trưởng thành
thâm nhập vào nhận thức con người, củng cố và đóng đinh trong đó. Có lần
Stalin phát biểu một ngày nào đó vai trò của Bộ Công An sẽ không còn
cần thiết. Ý của tên đồ tể này là khi đó người dân đã bị cơ chế hóa, một
hình thức thuần hóa trong sinh vật, đến mức các luật lệ sẽ không cần
phải áp đặt mà vẫn được chấp hành như một phản xạ tự nhiên.
Biết rõ tuổi trẻ là
tuổi của khát vọng xanh tươi, nhiệt tình nồng cháy nhưng chưa có những
tham vọng cá nhân, bộ máy tuyên truyền của các quốc gia Cộng Sản sản
xuất các anh hùng mang tinh thần dâng hiến.
Có một thời tác phẩm Thép đã tôi thế đấy của
Nikolai Ostrovsky là tác phẩm gối đầu giường của đa số thanh niên CS
khắp thế giới, trong đó có thanh niên miền Bắc. Nhật ký của bác sĩ Đặng
Thùy Trâm, người bị giết tại Quảng Ngãi cuối tháng 6 1970, bắt đầu với
câu trích từ tác phẩm này “Cả đời ta, cả sức ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời: Sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người“.
Tương tự, trong nhật ký của Nguyễn Văn Thạc, tử trận tại Quảng Trị mùa
hè 1972, cũng thế, đầy những trích dẫn Thép đã tôi thế đấy. Ngày 24
tháng 12 năm 1971, Nguyễn Văn Thạc viết về thần tượng Paven của anh: “Dạo
ấy Paven mới 24 tuổi. Ba năm của thời 20, anh đã sống say sưa, sống gấp
gáp và mạnh mẽ. Cưỡi trên lưng con ngựa cụt hai tai trong lữ đoàn
Buđionni anh đã đi khắp miền đất nước. Cuộc sống của anh là một dòng mùa
xuân bất tận giữa cuộc đời. Đó là cuộc sống của người Đảng viên trẻ
tuổi, cuộc sống của một chiến sỹ Hồng quân. Mình thèm khát được sống như
thế. Sống trọn vẹn đời mình cho Đảng, cho giai cấp.”
Trong dòng lịch sử Việt
Nam bốn ngàn năm chống ngoại xâm và xây dựng đất nước, biết bao nhiêu
câu nói, thơ văn hiển hách của lớp lớp anh hùng dân tộc. Có câu nói nào
hay hơn, khí phách hơn câu nói của Triệu Nữ Vương “Tôi muốn cỡi cơn
gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, giành lại
giang sơn, cởi ách nô lệ, cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm
cúi đầu, còng lưng để làm tì thiếp người ta”. Có cái chết nào nói
lên tình yêu chung thủy, tình yêu nước đậm đà hơn cái chết của Nguyễn
Thị Giang, một phụ nữ như Võ Thị Thắng, “Mờ sáng ngày 18 tháng 6 năm
1930, cô về làng Thổ Tang, tổng Lương Điền, phủ Vĩnh Tường (nay thuộc
Vĩnh Phúc) để lạy tạ cha mẹ chồng (ông Nguyễn Văn Hách và bà Nguyễn Thị
Quỳnh), tháo chiếc đồng hồ có khắc chữ “G” tặng cho Nguyễn Văn Lâm, em
trai Nguyễn Thái Học và từ giã mọi người. Trên đường đi cô ghé quán trà
bên gốc cây đề, thuộc Xóm Mới, xã Đông Vệ giáp quốc lộ số 2, cách làng
Thổ Tang ước chừng một cây số. Sau khi uống bát nước trà xanh, từ biệt
bà chủ quán, cô đến đứng dưới gốc cây đề, mắt nhìn về hướng làng Thổ
Tang và tự kết liễu đời mình bằng khẩu súng lục mà Nguyễn Thái Học tặng
cô ở đền vua Hùng ngày nào.Hôm ấy là ngày 18 tháng 6 năm 1930”.
Những câu nói anh hùng,
những cái chết kiên trinh như thế, tại sao thanh niên, sinh viên miền
Bắc không học, không sống, không học tập, không trích dẫn lại gối đầu
giường tác phẩm của nhà văn Sô Viết Nikolai Ostrovsky từ tận xứ Ukraine ?
Chỉ vì “nền giáo dục” ngoại lai và nô dịch Việt Nam thực tế chỉ là một phiên bản tuyên truyền của Liên Xô và Trung Quốc.
Trung Quốc có “anh hùng
lao động” Hướng Lôi Phong, Liên Xô có “anh hùng lao động” Alexey
Stakhanov, CSVN có Kim Đồng, Lê Văn Tám, Võ Thị Sáu, Võ Thị Thắng v.v…
Tuy nhiên, theo thời gian và đà tiến của kỹ thuật thông tin, hầu hết
“anh hùng” của Liên Xô, Trung Quốc và Cộng Sản Việt Nam đều lần lượt
được chứng minh là hàng giả.
Chuyện “anh hùng lao
động” Hướng Lôi Phong một năm sau khi bị trụ đèn đè chết trở thành anh
hùng là một ví dụ rất hề. Bộ máy tuyên truyền của đảng CSTQ, ngoài việc
phát hành các tuyển tập thơ, văn còn trưng bày nhiều hình ảnh của Hướng
Lôi Phong đang “lao động quên mình” khi còn sống. Tuy nhiên, Susan
Sontag, một nhà sản xuất phim ảnh sau khi xem xét bộ ảnh 12 tấm của Lôi
Phong đã nhận xét những bức ảnh đó được chụp bằng một phẩm chất và điều
kiện kỹ thuật tuyệt hảo đến mức không có một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp
nào có thể có mặt bên cạnh Hướng Lôi Phong để chụp. Làm thế nào một
nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp có thể biết trước một anh chàng binh nhì
Hướng Lôi Phong khi anh ta gần như vô danh tiểu tốt, để đi theo và ghi
lại “cuộc đời anh hùng” , “một người vì mọi người” của anh ta qua một bộ
ảnh chuyên nghiệp? Không quá khó để tìm câu giải đáp. Bộ ảnh chỉ là một
sản phẩm tuyên truyền được sản xuất sau khi Hướng Lôi Phong chết. Bây
giờ chuyện Hướng Lôi Phong là một chuyện cười nhưng đã có một thời người
dân Trung Quốc tin một cách chân thành.
Ran Yunfei, một nhà hoạt động dân chủ Trung Quốc, cho The Newyork Review of Books, biết “Tất
cả những gì đảng CS dạy bạn để kính phục đều là những chuyện giả dối.
Hiện nay họ lại thúc đẩy học tập Hướng Lôi Phong lần nữa nhưng ai cũng
biết Hướng Lôi Phong là nhân vật giả tưởng do đảng CS nặn ra. Tất cả
“anh hùng” đều là giả tạo”.
Sự kiện Tôn Đức Thắng Người thủy thủ phản chiến ở Biển đen của CSVN đã bị Giáo sư Christoph Giebel trong buổi phỏng vấn dành cho BBC khẳng định:
“Trong quyển sách của tôi, tôi tin rằng ông Tôn Đức Thắng không có mặt
trên bất kì con tàu nào của Pháp liên quan vụ binh biến ở Hắc Hải. Tôi
tin là vào thời điểm đó, ông Tôn Đức Thắng đang ở Toulon, cảng miền nam
nước Pháp.” Và thê thảm hơn, Lê Văn Tám là một nhân vật ảo, từ tên
tuổi cho đến đầu mình và tay chân đều do bộ máy tuyên truyền CSVN nặn
ra. Sự kiện này do chính Trần Huy Liệu, bộ trưởng bộ tuyên truyền CSVN
thú nhận và được Phan Huy Lê, một trong nhà sử học hàng đầu của chế độ
tiết lộ.
Nạn nhân của các “anh
hùng” trong nhiều trường hợp lại chính là “anh hùng”. Chuyện Võ Thị Sáu
hái hoa cài lên tóc là một điển hình. Theo sách vở của đảng, ngày bị xử
bắn, trên đường ra pháp trường Võ Thị Sáu còn rảnh rỗi để dừng lại hái
mấy cành hoa cài lên tóc của mình. Lãng mạn hơn, vài phút trước khi bị
bắn, bà ta còn gỡ những cành hoa trên tóc để tặng lại cho những người tù
đào huyệt lát nữa sẽ chôn mình.
Câu chuyện mô tả bà Võ Thị Sáu giống
như một công chúa đi dạo vườn hoa chứ không phải một tử tù sắp chết. Hãy
tạm gác qua bên việc bà có thể bị tâm lý bất bình thường như nhiều
người đang bàn tán mà chỉ xem xét khía cạnh pháp lý. Trên thế giới này,
không phải thế kỷ trước và cũng không phải thời các quốc gia nhược tiểu
bị cai trị dưới ách thực dân tàn bạo mà cả ngày nay tại các nước văn
minh tiên tiến, một tử tù ra pháp trường hai tay phải bị còng và chân
phải bị xích. Còng và xích không phải là vì sợ tử tù bỏ chạy nhưng đó là
một phần của bản án tử hình. Giống như Hướng Lôi Phong của Trung Quốc,
nhân vật Võ Thị Sáu có thể là một người thật, đảng Cộng Sản lợi dụng bà
trong tuổi vị thành niên để khích động lòng dân nhưng lại tô vẽ nên một
Võ Thị Sáu bịnh hoạn đến độ đáng thương.
Chúng ta đều biết, về
mặt kinh tế và kỹ thuật Việt Nam phát triển chậm hơn các quốc gia khác
nhiều chục năm tuy nhiên đó chưa hẳn là một mối nguy nghiêm trọng lâu
dài. Mối lo lớn của đất nước là về mặt dân trí, xã hội, đạo đức và những
mặt này Việt Nam còn thua xa các quốc gia tiên tiến nhiều thế kỷ. Với
óc cần cù của người Việt, chúng ta không phải quá lo lắng về một nền
khoa học hiện đại, một nền kỹ thuật hiện đại nhưng điều đáng lo lắng
nhất là làm thế nào để có những con người Việt Nam với những suy nghĩ
đúng, có nhận thức đúng về hướng đi của đất nước hôm nay và mai sau.
Phục hưng dân tộc, vì thế, phải bắt đầu ở việc phục hưng các đặc điểm
đạo đức, các giá trị nhân bản, khai phóng từ chính trong mỗi người Việt
Nam. Một xã hội lương thiện phải được xây dựng bằng những con người có
tinh thần hướng thiện.
Một con vẹt có thể cất
giọng ca thánh thót và ngay cả hát hay hơn một con chim sơn ca ngoài
vườn buổi sáng nhưng không ai bảo tiếng hát của vẹt là biểu tượng cho
“mùa xuân, hạnh phúc, hy vọng, may mắn, tự do, niềm vui, tuổi trẻ, tính
sáng tạo và ngày mới” như khi nhắc đến chim sơn ca. Phương Uyên là tiếng
hát của sơn ca trong khu vườn xuân đất nước. Cơn mưa dài chưa dứt, cơn
bão lớn chưa ngưng nhưng hy vọng vẫn còn đây trong lòng người Việt. Tổ
tiên để lại cho chúng ta một gia tài vô cùng phong phú với tất cả phương
tiện cần thiết để đưa đất nước Việt Nam thành một cường quốc văn minh
và hiện đại. Chúng ta có tinh thần độc lập, tự chủ cao hơn bất cứ một
quốc gia nào ở vùng Đông Nam Á. Chúng ta đều ôm ấp một giấc mơ Việt Nam
huy hoàng, sáng lạng. Cái duy nhất mà chúng ta chưa có đó là một cơ hội.
Và cơ hội sẽ không do ai ban cho, không do ai viện trợ nhưng chính
người Việt Nam trong và ngoài nước, đặc biệt là các bạn trẻ, là những
người đang tạo ra cơ hội cho dân tộc mình.
Phân tích chính sách
tuyên truyền của chế độ CS để thấy sự tác hại của nó trong nhận thức của
các tầng lớp nhân dân và cũng cho thấy việc so sánh giữa Võ Thị Thắng
và Nguyễn Phương Uyên chẳng khác gì so sánh giữa giả và thật, chiến
tranh và hòa bình, hận thù và nhân ái, bóng tối và ánh sáng.
Trần Trung Đạo
(25.5.2013)
CHUYỄN HÓA
Friday, May 24, 2013
KHOA HỌC & ĐỜI SỐNG
Tin tức / Ðời sống
Tại sao tổ tiên của loài người lại đứng thẳng lên để đi?
CỠ CHỮ
24.05.2013
Điều gì đã khiến tổ tiên sơ khai nhất của chúng ta lại từ bỏ sự che chở của cây cối để đứng thẳng người và đi bằng hai chân?
Các lý thuyết truyền thống nêu lên những biến đổi khí hậu làm giảm bớt sự che phủ của cây và buộc người xưa phải tìm thức ăn và săn bắt trên đất cứng.
Nhưng một cuộc khảo cứu mới gợi ý về một kích thích tiến hóa khác.
Các nhà khảo cổ tại Trường Đại Học York ở London bên Anh nói con người sơ khai bị hấp dẫn bởi mặt đất gồ ghề được tạo ra bởi các núi lửa và các trận động đất thời Pliocene, từ hai triệu tới năm triệu năm trước đây.
Những vỉa đất trồi lên và những hẻm núi cung cấp nơi ẩn náu và các cơ hội săn bắt, nhưng đòi hỏi phải bò, trườn, leo trèo và phải di chuyển nhanh qua những lớp đất nứt.
Trong tạp chí Antiquity, các nhà khảo cứu Châu Âu nói các tình huống nêu trên khuyến khích một dáng đứng thẳng hơn, bàn tay to hơn, cánh tay khéo léo hơn, kết quả những người nguyên sơ biết dùng các dụng cụ thô sơ.
Isabelle Winder, một trong các tác giả của cuộc khảo cứu này gợi ý rằng sống trong khung cảnh khó khăn như vậy dẫn tới “việc cải thiện những kỹ năng nhận biết, ví dụ như biết xác định vị trí và có khả năng truyền tin,” tiếp tục biến hóa thành những chủng loại như chúng ta ngày nay.
Các lý thuyết truyền thống nêu lên những biến đổi khí hậu làm giảm bớt sự che phủ của cây và buộc người xưa phải tìm thức ăn và săn bắt trên đất cứng.
Nhưng một cuộc khảo cứu mới gợi ý về một kích thích tiến hóa khác.
Các nhà khảo cổ tại Trường Đại Học York ở London bên Anh nói con người sơ khai bị hấp dẫn bởi mặt đất gồ ghề được tạo ra bởi các núi lửa và các trận động đất thời Pliocene, từ hai triệu tới năm triệu năm trước đây.
Những vỉa đất trồi lên và những hẻm núi cung cấp nơi ẩn náu và các cơ hội săn bắt, nhưng đòi hỏi phải bò, trườn, leo trèo và phải di chuyển nhanh qua những lớp đất nứt.
Trong tạp chí Antiquity, các nhà khảo cứu Châu Âu nói các tình huống nêu trên khuyến khích một dáng đứng thẳng hơn, bàn tay to hơn, cánh tay khéo léo hơn, kết quả những người nguyên sơ biết dùng các dụng cụ thô sơ.
Isabelle Winder, một trong các tác giả của cuộc khảo cứu này gợi ý rằng sống trong khung cảnh khó khăn như vậy dẫn tới “việc cải thiện những kỹ năng nhận biết, ví dụ như biết xác định vị trí và có khả năng truyền tin,” tiếp tục biến hóa thành những chủng loại như chúng ta ngày nay.
Mời
xem cơ thể con người ta làm việc như thế nào: vô cùng kỳ diệu. Những
phát minh khoa học cực kỳ phức tạp đều do bộ óc con người suy nghĩ, sáng
chế.
Với những đồ họa máy tính, những kỹ
thuật chụp ảnh tân tiến, quay chậm tuyệt diệu, chúng ta có thể khám
phá mọi khía cạnh, mọi bộ phận trong cơ thể con người trong nhiều giai
đoạn phát triển .
CÂU CHUYỆN CUỘC SỐNG (Life Story)
Người dịch: Phạm Phương Anh, Trần Thanh Vân, Bích Ngọc đến từ KEC1
Người biên tập: Nguyễn Huyền Trang + VCĐ
Người dịch: Phạm Phương Anh, Trần Thanh Vân, Bích Ngọc đến từ KEC1
Người biên tập: Nguyễn Huyền Trang + VCĐ
Mời Bấm:
XÃ HỘI VIỆT NAM
Những kiểu giữ của 'có một không hai'
25.04.2013 09:39
Có gia đình, cuộn giấy vệ sinh cũng phải khóa vì sợ bị lấy mất.
Chỉ sợ mất cái chỗ ngồi.
Khóa vào bất kỳ nơi đâu có thể.
Xe ô tô cũng cần khóa thủ công.
Bánh trước, bánh sau, đố ai lấy được?
Cuộn giấy vệ sinh cũng sợ bị lấy cắp.
Món ngon đâu muốn chia phần cho ai.
Vì một mét vuông mười thằng ăn trộm nên đôi dép tổ ong cũng phải khóa kỹ.
Cả nhà cả cửa còn mỗi cái điện thoại.
Cho chắc.
Khóa làm gì?
Mô-tô cũng khóa như khóa xe đẹp.
Khóa ngoài, khóa cả trong.
Cứ phải xích vào cây.
Khi quên khóa.
Dori (Xzone/Tri Thức Thời Đại)
Thursday, May 23, 2013
TIN TỨC GẦN XA
Philippines: Căng thẳng châu Á có thể dẫn đến xung đột
Philippine
Foreign Affairs Secretary Albert Del Rosario addresses the media during
a press conference in suburban Pasay City, south of Manila,
Philippines, after his return from the ASEAN Regional Forum in Cambodia
Friday, July 13, 2012. Del Rosario deplo
CỠ CHỮ
24.05.2013
Ngoại trưởng Philippines hôm 23/5 cảnh báo rằng tranh chấp lãnh thổ
tại châu Á đang “tạo căng thẳng gay gắt có thể dẫn đến xung đột” vì có
nhiều quốc gia đang đối đầu với Trung Quốc về chủ quyền biển đảo.
Lên tiếng trong một diễn đoàn doanhnghiệp ở Tokyo, Ngoại trưởng Albert del Rosario nói rằng con đường 9 đoạn của Trung Quốc là một đòi hỏi ông gọi là “quá lố” vì nó coi như bao trùm toàn bộ Biển Đông.
Ông nói tiếp, ngoài Biển Đông còn có Biển Hoa Đông, nơi có nhiều nước châu Á lớn đang có những tranh chấp ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ giữa các nước Trung Quốc, Nhật Bản và Nam Triều Tiên.
Ông nói rằng “Các cuộc tranh chấp lãnh hải này đang tạo ra căng thẳng gay gắt có thể dẫn đến xung đột.”
Người ta tin rằng Trung Quốc đang tăng cường năng lực Hải quân tại Thái Bình Dương, và Trung Quốc đang bị các nước láng giềng chỉ trích về thái độ mà họ gọi là ngày càng hung hăng của Trung Quốc trong khu vực, biệt là đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc trên nhiều vùng đất và vùng biển khác nhau.
Ngoại trừ Brunei, tất cả các nước đòi chủ quyền đều có binh sĩ đóng tại các đảo hoặc các bãi san hô tại Trường Sa, quần đảo lớn nhất ở Biển Đông, để khẳng định chủ quyền của mình.
Lên tiếng trong một diễn đoàn doanhnghiệp ở Tokyo, Ngoại trưởng Albert del Rosario nói rằng con đường 9 đoạn của Trung Quốc là một đòi hỏi ông gọi là “quá lố” vì nó coi như bao trùm toàn bộ Biển Đông.
Ông nói tiếp, ngoài Biển Đông còn có Biển Hoa Đông, nơi có nhiều nước châu Á lớn đang có những tranh chấp ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ giữa các nước Trung Quốc, Nhật Bản và Nam Triều Tiên.
Ông nói rằng “Các cuộc tranh chấp lãnh hải này đang tạo ra căng thẳng gay gắt có thể dẫn đến xung đột.”
Người ta tin rằng Trung Quốc đang tăng cường năng lực Hải quân tại Thái Bình Dương, và Trung Quốc đang bị các nước láng giềng chỉ trích về thái độ mà họ gọi là ngày càng hung hăng của Trung Quốc trong khu vực, biệt là đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc trên nhiều vùng đất và vùng biển khác nhau.
Ngoại trừ Brunei, tất cả các nước đòi chủ quyền đều có binh sĩ đóng tại các đảo hoặc các bãi san hô tại Trường Sa, quần đảo lớn nhất ở Biển Đông, để khẳng định chủ quyền của mình.
Thứ năm 23 Tháng Năm 2013
Thuyền nhân Việt Nam (Ảnh lưu trữ - DR)
460 thuyền nhân Việt Nam kể cả phụ nữ và trẻ em đã đến Úc trong
4 tháng đầu 2013. Gần 40 năm sau ngày Việt Nam thống nhất trong chế độ
"xã hội chủ nghĩa", hiện tượng người vượt biển lại tăng cao, bằng
tổng số thuyền nhân đến Úc trong 5 năm trước.
Tuy nhiên, chính sách tỵ nạn của Canberra đã khác, không rộng
lượng như thời thập niên 80,90 khi hàng triệu người bỏ nước. Người vượt
biển bị tạm giam trong các trại cách ly với tương lai mờ mịt.
Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, trong gần hai thập niên sau ngày
30/04/1975, hơn 1,3 triệu người Việt Nam vượt biên, vượt biển đi tỵ
nạn. Trong số này , Liên Hiệp Quốc thẩm định từ 200.000 đến 400.000
người không đến được bến bờ hoặc chết vì tàu bị đắm, bị hải tặc Thái Lan
sát hại. Trong khoảng thời gian này, Hoa Kỳ đón nhận 823.000 thuyền
nhân , Pháp 96.000, Úc cũng như Canada nhận 137.000 người, Anh quốc
19.000.
Nhưng vào năm 2013, nguyên nhân nào lại thúc đẩy hàng trăm người
Việt Nam vượt biển ? Theo luật sư Úc Keye Bernard, trong số thuyền nhân
mới đến có một số tín đồ Công giáo từng tham gia tranh đấu bảo vệ giáo
xứ Thái Hà. Một số khác bị truy bức trong các vụ tranh tụng đất đai bị
nhà nước trưng thu.
Tuy nhiên, chính sách tỵ nạn của Úc, quốc gia tây phương duy nhất
gần Việt Nam và cũng là điểm đến của những con người muốn có cơ hội xây
dựng đời sống mới, đã trở nên gắt gao hơn. Số phận thuyền nhân ra sao ?
Phải trở về Việt Nam hay có hy vọng được định cư ? Trong số 101 thuyền
nhân đến Úc trong năm 2011, có sáu người bị đưa về Việt Nam.
Hôm qua 22/05/2013, một phái đoàn của Cộng đồng Việt Nam Tự Do tại Úc
đã gặp thủ tướng Julia Gillard vận động chính phủ Úc về vấn đề thuyền
nhân. Sau khi nhận được tin nhắn cầu cứu của hai thuyền nhân từ đảo
Manus gửi cho RFI, ban biên tập chúng tôi đặt câu hỏi với nhà báo Lưu
Tường Quang từ Sydney.
Nhà báo Lưu Tường Quang : « Trong những ngày
qua, báo chí quốc tế và Úc đều loan tin có sự gia tăng rất đáng kể của
thuyền nhân Việt Nam từ Việt Nam hoặc qua trung gian tại Indonesia đến
Úc trong 4 tháng đầu năm 2013 : 460 người xin tầm trú tại Úc. Đây là
con số đáng kể nhiều hơn của 5 năm về trước . Có người cho rằng đây là
vì lý do kinh tế nhưng cũng có người cho rằng đây là hậu quả của chính
sách đàn áp của nhà cầm quyền Hà Nội đối với nhân quyền, tự do ngôn
luận và chính kiến tại Việt Nam.
Có thể, tất cả những lý do đó đều đúng ….nhưng cần phải xem kỷ
những thuyền nhân này có lý do chính đáng khi họ liều lĩnh vượt biển tìm
tự do tại Úc và những hậu quả khi họ đến lãnh thổ, lãnh hải của Úc thì
họ phải đối diện với những khó khăn gì để những ai bị giam cầm trong các
trại tỵ nạn tại Úc hiểu rõ tiến trình họ phải đi qua và những ai bị đối
xử tàn tệ vì lý do nhân quyền vì lý do chính kiến thì họ sẽ có thể làm
gì, suy nghĩ gì cho tương lai của họ…
Nguyên nhân cốt lõi của hiện tượng thuyền nhân gia tăng : « Nhà
cầm quyền Việt Nam đương nhiên phải nói là người đi tầm trú là vì lý do
kinh tế vì nếu nhìn nhận những thuyền nhân ra đi vì lý do chính trị thì
điều đó là một phản ảnh tiêu cực về chế độ của họ…. Nếu chúng ta nhìn
lại cái tiến trình cho đến năm 2006 khi Hà Nội tổ chức (thượng đỉnh)
Apec thì Hà Nội đã phần nào nới tay đến mức độ mà tổng thống Mỹ George
W. Bush đã lấy tên CHXH Chủ nghĩa Việt Nam ra khỏi danh sách các nước
cần ưu tư (về tự do tôn giáo)….Trước khi gia nhập WTO ( Tổ chức Thương
mại Thế giới) thì họ cũng có những biện pháp gọi là tạm thời cởi mở cho
đến 2007.
Tuy nhiên, sau hội nghị Apec năm 2006 và được vào WTO đầu năm
2007 thì CHXHCN Việt Nam sử dụng những điều luật 79, 88 tuyên truyền
chống phá nhà nước và âm mưu lật đổ chế độ là những điều khoản đi ngược
lại với những điều khoản bảo vệ tự do ngôn luận, tự do phát biểu ý kiến
có ghi trong Hiến pháp 1992 của Việt Nam cũng như hoàn toàn đi ngược lại
với công ước quốc tế về quyền chính trị mà Việt Nam là thành viên kết
ước… nhà cầm quyền Hà Nội mỗi ngày mỗi siết chặt và gia tăng đàn áp
những người yêu nước, những thanh niên sinh viên tranh đấu cho tự do dân
chủ.
Ngay giờ phút này, 8 thanh niên Công giáo ở Nghệ An đang bị xét
xử phúc thẩm và mới đây vài ngày sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh
Nguyên Kha bày tỏ lòng yêu nước, họ nói vì tổ quốc chống ngoại xâm, vì
tiền đồ dân tộc chống tham nhũng là những điều được gọi là chính sách
của nhà nước thế nhưng họ bị kết ánt ù rất nhiều năm tại tòa án tỉnh
Long An.
Rõ ràng là chính sách đàn áp nhân quyền đã đưa đến tình trạng nhiều người bỏ nước ra đi. Nếu căn cứ vào định nghĩa của « người
tỵ nạn » thì những ai có bằng chứng đang lo sợ bị hành hạ, bị bắt bớ
bị tù đày vì lý do chính kiến, hoặc vì lý do chủng tộc hay tôn giáo thì
họ thỏa mãn định nghĩa về « người tỵ nạn » theo điều khoản thứ nhất
trong Công ước quốc tế về người tỵ nạn 1951-1967.
Trên căn bản đó, nếu họ có ao ước, những hoài bão để cải thiện
đời sống kinh tế thì cái hoài bão đó không loại trừ cái khả năng họ được
chứng nhận là người tỵ nạn vì căn nguyên cốt lõi vẫn là cái nỗi lo sợ
bị trừng phạt, bị tù đày, bạc đãi vì lý do chính kiến hay vì lý do tôn
giáo.Chính sách của Úc đối với thuyền nhân Việt Nam : Từ năm 2012, Úc áp dụng « giải pháp Thái Bình dương , tạm giam thuyền nhân trong các trại di trú trên đảo Nauru và Manus. Đặc điểm của « giải pháp » này là những thuyền nhân tới Úc phải chờ đợi một khoảng thời gian bằng với thời gian đáng lẽ họ phải chờ ở Indonesia để được cứu xét.
Thuyền nhân bị giam trên đất liền hay trên các đảo Christmas, Manus, hãy bình tĩnh chờ đợi … Cộng đồng Việt Nam tại Úc là cộng đồng tỵ nạn và không bao giờ quên đồng hương của mình đang ở trong tình trạng khó khăn. Ngày hôm qua, một phái đoàn của Cộng đồng Người Việt Tự Do, có cả tôi, đã đến gặp thủ tướng Úc Julia Gillard để tranh đấu cho thuyền nhân Việt Nam đang bị giam giữ. Chúng tôi nói hầu hết thuyền nhân Việt Nam không phải là tỵ nạn kinh tế mà vì lý do chính trị.
Tuy nhiên đây là vấn đề hồ sơ, một vấn đề bằng chứng. Cho nên thuyền nhân muốn xin tư cách tỵ nạn thì cần phải chuẩn bị bằng chứng cụ thể , những lý do có cơ sở vững chắc vì lời khai đầu tiên nó có ảnh hưởng đến vấn đề cứu xét…tôi đương cử hai trường hợp cụ thể. Trường hợp thứ nhất là tàu Hào Kiệt với 53 thuyền nhân đến miền tây Úc năm 2003….. tất cả đều được định cư… ».
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20130523-38-nam-sau-1975-nguoi-viet-nam-lai-vuot-bien
Khoảng 1,3 triệu di dân bất hợp pháp từ châu Á sống ở Hoa Kỳ
CỠ CHỮ
22.05.2013
LOS ANGELES — Có ước chừng 11 triệu di
dân không có giấy tờ hợp pháp ở Hoa Kỳ. Trong khi các nhà lập pháp tranh
luận về dự luật cải cách di trú, tập trung phần lớn vào những người từ
châu Mỹ Latinh, 5 trong số 10 nước đứng đầu về số di dân không có giấy
tờ hợp pháp là người Á châu. California là tiểu bang có số di dân bất
hợp pháp lớn nhất tại Hoa Kỳ.
Có chừng 1 triệu 300 ngàn di dân bất hợp pháp từ châu Á đang sinh sống ở Hoa Kỳ. Mãi cho đến khi lên trung học Anthony Ng mới biết là mình không có giấy tờ hợp pháp. Sau đó anh bắt đầu sống trong sợ hãi. Anthony nói:
“Sợ bị trục xuất, sợ mọi người sẽ đối xử khác, sợ sẽ không được lên đại học nữa, sợ sẽ phải làm việc nặng nhọc mà vẫn không thực hiện được các ước mơ.”
Ng xuất thân từ Philippin. Anh đến Hoa Kỳ cùng với cha mẹ lúc 12 tuổi. Anh cho biết:
“Khi doanh nghiệp của chúng tôi ở Philippin bị phá sản, chúng tôi không còn phương tiện nào để sinh nhai. Do đó cha mẹ chúng tôi đã quyết định đến đây để đem lại cho tôi và các anh chị em tôi một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tôi thực sự biết ơn điều đó.”
Anh phát hiện rằng anh không có giấy tờ hợp pháp khi bắt đầu xin nội trú và trợ cấp để vào đại học. Di dân bất hợp pháp phần lớn không xin được khoản trợ cấp này. Anh nói:
“Chúng tôi đã tham khảo ý kiến của vài luật sư để tính xem có cách nào điều chỉnh tình trạng di trú hay không, và họ đều nói là chỉ có cách chờ cải cách luật di trú.”
“Các giá trị Mỹ mà tôi học được ở đây khiến tôi mang tính cách Mỹ. Tôi nghĩ đó không phải là một mảnh giấy. Ðó là cách tôi lớn lên. Cách tôi nói lên điều tôi nghĩ và điều tôi cảm nhận.”
Lối phát biểu ý kiến kiểu Mỹ của anh đã khiến anh trở thành một người tranh đấu cho di dân bất hợp pháp. Anh không còn sợ hãi nữa. Anh đã có công việc toàn thời gian và dự định theo học trường luật trong tương lai.
Có chừng 1 triệu 300 ngàn di dân bất hợp pháp từ châu Á đang sinh sống ở Hoa Kỳ. Mãi cho đến khi lên trung học Anthony Ng mới biết là mình không có giấy tờ hợp pháp. Sau đó anh bắt đầu sống trong sợ hãi. Anthony nói:
“Sợ bị trục xuất, sợ mọi người sẽ đối xử khác, sợ sẽ không được lên đại học nữa, sợ sẽ phải làm việc nặng nhọc mà vẫn không thực hiện được các ước mơ.”
Ng xuất thân từ Philippin. Anh đến Hoa Kỳ cùng với cha mẹ lúc 12 tuổi. Anh cho biết:
“Khi doanh nghiệp của chúng tôi ở Philippin bị phá sản, chúng tôi không còn phương tiện nào để sinh nhai. Do đó cha mẹ chúng tôi đã quyết định đến đây để đem lại cho tôi và các anh chị em tôi một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tôi thực sự biết ơn điều đó.”
Anh phát hiện rằng anh không có giấy tờ hợp pháp khi bắt đầu xin nội trú và trợ cấp để vào đại học. Di dân bất hợp pháp phần lớn không xin được khoản trợ cấp này. Anh nói:
“Chúng tôi đã tham khảo ý kiến của vài luật sư để tính xem có cách nào điều chỉnh tình trạng di trú hay không, và họ đều nói là chỉ có cách chờ cải cách luật di trú.”
Quốc hội tiếp tục tranh luận về cải cách di trú. Hy vọng đã đến hồi
tháng 6 với dự luật Hoãn Hành động đối với những người nhập cư lúc còn
nhỏ, còn gọi tắt là DACA. Dự luật này cấp giấy phép làm việc tạm thời
cho di dân bất hợp pháp đến Hoa Kỳ lúc còn là trẻ em và hoãn lại việc
trục xuất.
Bà Tiffany Panlilio giúp di dân bất hợp pháp nộp đơn xin hưởng quy chế DACA. Bà cho biết lệ phí nộp đơn là 665 đôla và người nộp đơn phải chứng minh họ đã ở Hoa Kỳ từ hồi còn nhỏ. Bà cho biết:
“Rất khó cho những người sống trong bóng tối và chỉ gắng hết sức để tránh lọt tên mình vào đâu đó, và rồi bỗng dưng lại xuất hiện rồi nói bây giờ mình cần phải có bằng chứng là đã có mặt ở đây.”
Cho đến nay chỉ có dưới 300 ngàn người trên toàn quốc được chấp thuận quy chế DACA. Ða số là người Mexico. Ngoài châu Mỹ Latinh ra, có rất nhiều di dân bất hợp pháp từ Trung Quốc, Philippin, Ấn Độ, Nam Triều Tiên và Việt Nam.
Hơn 100 ngàn người Á châu ở khắp Hoa Kỳ có khả năng hội đủ điều kiện hưởng quy chế DACA. Bà Panlilio nói một số đã không nộp đơn bởi vì họ đã được rèn luyện sợ hãi chính phủ.
“Nhất là trong giới truyền thông Trung Quốc theo tôi nhận xét, họ rất ngờ vực.”
Các tổ chức quần chúng trong các cộng đồng Á châu đã tìm cách giáo dục và khích lệ những người không có giấy tờ hợp pháp nộp đơn xin DACA. Anh Anthony Ng đã nộp đơn và được cấp giấy phép làm việc hồi năm ngoái. Anh nói:
Bà Tiffany Panlilio giúp di dân bất hợp pháp nộp đơn xin hưởng quy chế DACA. Bà cho biết lệ phí nộp đơn là 665 đôla và người nộp đơn phải chứng minh họ đã ở Hoa Kỳ từ hồi còn nhỏ. Bà cho biết:
“Rất khó cho những người sống trong bóng tối và chỉ gắng hết sức để tránh lọt tên mình vào đâu đó, và rồi bỗng dưng lại xuất hiện rồi nói bây giờ mình cần phải có bằng chứng là đã có mặt ở đây.”
Cho đến nay chỉ có dưới 300 ngàn người trên toàn quốc được chấp thuận quy chế DACA. Ða số là người Mexico. Ngoài châu Mỹ Latinh ra, có rất nhiều di dân bất hợp pháp từ Trung Quốc, Philippin, Ấn Độ, Nam Triều Tiên và Việt Nam.
Hơn 100 ngàn người Á châu ở khắp Hoa Kỳ có khả năng hội đủ điều kiện hưởng quy chế DACA. Bà Panlilio nói một số đã không nộp đơn bởi vì họ đã được rèn luyện sợ hãi chính phủ.
“Nhất là trong giới truyền thông Trung Quốc theo tôi nhận xét, họ rất ngờ vực.”
Các tổ chức quần chúng trong các cộng đồng Á châu đã tìm cách giáo dục và khích lệ những người không có giấy tờ hợp pháp nộp đơn xin DACA. Anh Anthony Ng đã nộp đơn và được cấp giấy phép làm việc hồi năm ngoái. Anh nói:
“Các giá trị Mỹ mà tôi học được ở đây khiến tôi mang tính cách Mỹ. Tôi nghĩ đó không phải là một mảnh giấy. Ðó là cách tôi lớn lên. Cách tôi nói lên điều tôi nghĩ và điều tôi cảm nhận.”
Lối phát biểu ý kiến kiểu Mỹ của anh đã khiến anh trở thành một người tranh đấu cho di dân bất hợp pháp. Anh không còn sợ hãi nữa. Anh đã có công việc toàn thời gian và dự định theo học trường luật trong tương lai.
PHẠM TÍN AN NINH * NỢ ĐỜI ƠN EM
Nợ đời một nửa, còn một nửa
ơn em........
Biết bao giờ trả cho xong?
(Viết
cho em và
những người vợ
lính trung
hậu)
Phạm Tín An Ninh
Phạm Tín An Ninh
Thời
còn đi học,
lang thang từ
Nha Trang đến
Sài Gòn, dù
con nhà nghèo,
học tàm tạm,
và nhan sắc
dưới trung
bình, tôi cũng
đã mang tiếng
đào hoa. Cho
nên có muốn
kéo dài thêm
cái đời học
trò để được mơ
mộng đủ thứ
chuyện dưới
biển trên trời
thiên hạ cũng
đâu có cho.
Rồi có phải
thuộc giòng
hào kiệt gì
đâu, tôi cũng
xếp bút nghiên
theo việc kiếm
cung.
Nói kiếm
cung cho nó vẻ
văn chương và
lãng mạn, chứ
thực ra tôi
vào lính, mà
lại là thứ
lính hạng bét
thì làm gì có
kiếm với cung.
Có phải lính
tàu bay tàu
thủy gì đâu,
mà là lính đi
bộ. Lúc băng
rừng lội suối,
mặc bộ đồ trận
hôi hám cả
tuần không
tắm, tôi ghét
cay ghét đắng
cái ông nào là
tác giả cái
câu “Bộ Binh
là nữ hoàng
của chiến
trường” mà tôi
đã đọc được
ngay từ khi
mới vào quân
trường, đếm
bước một hai
để hát bài
“đường trường
xa”.
Khổ thì
khổ vậy, chứ
mấy cô gái bé
bỏng hậu
phương lại mê
lính trong mấy
bản nhạc của
ông Nhật
Trường. Vì
“nếu em không
là người yêu
của lính, ai
thương nhớ em
chiều rừng
hành quân, ai
băng gió sương
cho em đợi
chờ, và giữa
chốn muôn
trùng ai viết
tên em lên tay
súng?..”.
Nhờ
vậy, trong mấy
năm đóng quân
dọc đường số
1, nơi nào tôi
cũng để lại
vài mối tình
con. Tôi nghĩ
đời lính như
vậy mà vui,
thì thôi chớ
tính chuyện vợ
con làm gì cho
nó vướng chân
vướng cẳng.
Hơn nữa tôi
cũng hiên
ngang với đám
con gái lắm,
thì làm gì có
chuyện “chết
trong mắt em”.
Vậy rồi trời
xuôi đất khiến
thế nào, sau
mấy năm đánh
đấm ở Quảng
Đức, Ban Mê
Thuột rồi Bình
Định, Phú Yên,
đơn vị tôi
được mấy cái
tàu há mồm chở
vào bỏ xuống
bãi biển Nha
Trang vào lúc
đường phố mới
lên đèn.
Tôi
thấy lòng lâng
lâng sung
sướng vì không
khí yên bình
của thành phố
biển, mà cũng
vì tưởng mình
đã được trở về
với những
“hang động
tuổi thơ” của
ông Nguyễn
Xuân Hoàng.
Nào ngờ, khi
còn mải mê với
mộng mị, tôi
bị đánh thức
lúc nửa đêm
cùng đơn vị
leo lên một
đoàn xe mấy
chục chiếc để
tiếp tục “hát
khúc quân
hành”.
Đoàn xe
ra khỏi thành
phố, qua Ty
Thông Tin, ra
quốc lộ 1,
trực chỉ hướng
bắc. Tôi lại
mừng thầm,
nghĩ là sẽ
được về dưỡng
quân ở huấn
khu Dục Mỹ.
Nhưng tôi đã
“ước tính tình
hình” sai bét.
Đoàn xe dừng
lại tại bùng
binh, ngã ba
Ninh Hòa. Một
tiểu đoàn lính
đổ xuống cái
thị trấn còn
đang say ngủ.
Đại đội tôi
nhận lệnh vào
đóng quân
trong sân vận
động. Sáng hôm
sau tôi rủ mấy
thằng bạn,
quần áo chỉnh
tề, ra phía
trước “thăm
dân cho biết
sự tình”.
Thấy một ngôi nhà mở cửa, bọn tôi bước vào làm quen. Chủ nhà là một cô gái nho nhỏ dễ thương, mời đón mấy thằng lính trời ơi đất hởi mà miệng vui cười, e thẹn nhìn tôi bằng cặp mắt nai tơ. Vậy mà thằng lính ngang tàng như tôi lại chết trong đôi mắt ấy. Bắt đầu từ một chuyện tình cờ như vậy đó, mà tôi trở thành chú rể của Ninh Hòa hơn một năm sau. Trường Trần Bình Trọng cũng vừa có một cô học trò bỏ trường, bỏ lớp, bỏ bạn bè và bỏ cả đội múa ”Trăng Mường Luông ”.
Bây giờ cứ mỗi lần đọc bài thơ của ông nhà thơ Quan Dương, người Ninh Hòa, là tôi nhìn thấy có tôi trong đó:
Hồi nhỏ tôi rất anh hùng
Một mình dám nhảy cái đùng xuống sông
Bơi nghiêng, bơi ngửa giữa dòng
Hiên ngang trấn giữ một vùng tuổi thơ
…………
Lớn lên trở chứng ngu khờ
Mắt em nào phải bến bờ sông sâu ?
Cớ sao chưa kịp lộn nhào
Đành chịu chết đuối, thiệt đau đúng là..
Nàng làm vợ lính đúng tám năm. Tám năm khốn khổ lo âu. Vì lúc nào cũng có thể trở thành góa phụ. Đã vậy đứng ở Ninh Hòa lúc nào nàng cũng nhìn thấy hòn núi Vọng Phu sừng sững cuối chân trời! Nhưng rồi nàng không trở thành góa phụ mà lại trở thành tù phụ. Cơn sóng bất ngờ phủ xuống miền Nam, cuốn nàng theo cùng những người có chung số phận. Thân phận bọt bèo với một đàn con dại, cô học trò Trần Bình Trọng bé nhỏ ngày nào bây giờ phải một mình chống chọi với phong ba.
Riêng tôi, một thằng lính bất ngờ thua trận thì chuyện tù đày nào có than chi. Chỉ tội nghiệp cho “người tình bé nhỏ” ngày xưa. Tôi tự trách mình, giá mà ngày đó tôi đừng ra khỏi cái sân vận động, không gặp nàng, thì biết đâu nàng chẳng tìm lại một cố nhân nào đó - mà tôi thường nghe nàng nhắc đến với lòng ngưỡng mộ - bây gìờ đã là một ông quan hải quân, sẽ đưa nàng xuống tàu ra khơi đi tìm vùng đất hứa.
Rồi nàng bỗng dưng trở thành con cò lặn lội bờ sông của ông Trần Tế Xương, để nuôi đủ sáu con với một chồng – ông chồng gần tám năm biền biệt ở các trại tù Lào Cai, Yên Bái.
Tôi còn nhớ lúc ở trong tù, tôi may mắn nằm bên cạnh nhà thơ lớn Tô Thùy Yên. Tôi rất quý anh vì anh là một người tù có tư cách. Thấy tôi dốt nát mà cũng thích thơ văn, anh làm tặng tôi một bài thơ khá dài và hay lắm. Nhưng lúc bị cai tù kiểm tra, tôi nhát gan nên bỏ cả bài thơ vào miệng nhai nát rồi nuốt vào cái dạ dày đang đói. Vì vậy tôi không còn nhớ hết mà chỉ thuộc lòng mấy câu viết về nàng:
Tám năm áo rách bao nhiêu lượt
Em vá chồng lên những nỗi niềm
Từ thuở anh đi nhà tróc nóc
Con thơ đâu còn biết vui cười
.................................................
Cô gái Ninh Hòa, thương quá đỗi
Một mình chèo chống giữa phong ba
Ra khỏi trại tù, dường như tôi chỉ đem về cho nàng thêm những đắng cay. Với một người chồng còn mang đầy những vết thương cả trên thể xác lẫn tâm hồn, cùng một đàn con thơ dại, giữa một xã hội chất chồng thù hận, nàng biết xoay xở làm sao ? Cuối cùng, nàng phải cùng chồng con, đem sanh mạng đánh một canh bạc cuối cùng.
Có lẽ ông trời không phụ lòng nàng. Chuyến đi vội vã, chuẩn bị chưa xong, rồi cũng đến được bến bờ. Trong lúc bao nhiêu người tìm cách tận hưởng hạnh phúc của một điều tưởng chừng may mắn nhất của con người, hoặc ít ra cũng ngơi nghỉ để hoàn hồn từ cõi chết, nàng lại tiếp tục làm kiếp con cò trong một vùng băng tuyết mênh mông, lo lắng cho con, để cho chồng học thêm vài ba chữ và vác ngà voi chạy đủ thứ chuyện bao đồng.
Bây giờ những đứa con đã trưởng thành. Nàng chiều chồng để cho mỗi đứa tự chọn đất nước nào nó thích mà dung thân. Mỗi đứa một phương trời. Nàng lại là một hậu phương cho các con đi vào trận mới. Ngôi nhà trở nên trống vắng.
Thấy một ngôi nhà mở cửa, bọn tôi bước vào làm quen. Chủ nhà là một cô gái nho nhỏ dễ thương, mời đón mấy thằng lính trời ơi đất hởi mà miệng vui cười, e thẹn nhìn tôi bằng cặp mắt nai tơ. Vậy mà thằng lính ngang tàng như tôi lại chết trong đôi mắt ấy. Bắt đầu từ một chuyện tình cờ như vậy đó, mà tôi trở thành chú rể của Ninh Hòa hơn một năm sau. Trường Trần Bình Trọng cũng vừa có một cô học trò bỏ trường, bỏ lớp, bỏ bạn bè và bỏ cả đội múa ”Trăng Mường Luông ”.
Bây giờ cứ mỗi lần đọc bài thơ của ông nhà thơ Quan Dương, người Ninh Hòa, là tôi nhìn thấy có tôi trong đó:
Hồi nhỏ tôi rất anh hùng
Một mình dám nhảy cái đùng xuống sông
Bơi nghiêng, bơi ngửa giữa dòng
Hiên ngang trấn giữ một vùng tuổi thơ
…………
Lớn lên trở chứng ngu khờ
Mắt em nào phải bến bờ sông sâu ?
Cớ sao chưa kịp lộn nhào
Đành chịu chết đuối, thiệt đau đúng là..
Nàng làm vợ lính đúng tám năm. Tám năm khốn khổ lo âu. Vì lúc nào cũng có thể trở thành góa phụ. Đã vậy đứng ở Ninh Hòa lúc nào nàng cũng nhìn thấy hòn núi Vọng Phu sừng sững cuối chân trời! Nhưng rồi nàng không trở thành góa phụ mà lại trở thành tù phụ. Cơn sóng bất ngờ phủ xuống miền Nam, cuốn nàng theo cùng những người có chung số phận. Thân phận bọt bèo với một đàn con dại, cô học trò Trần Bình Trọng bé nhỏ ngày nào bây giờ phải một mình chống chọi với phong ba.
Riêng tôi, một thằng lính bất ngờ thua trận thì chuyện tù đày nào có than chi. Chỉ tội nghiệp cho “người tình bé nhỏ” ngày xưa. Tôi tự trách mình, giá mà ngày đó tôi đừng ra khỏi cái sân vận động, không gặp nàng, thì biết đâu nàng chẳng tìm lại một cố nhân nào đó - mà tôi thường nghe nàng nhắc đến với lòng ngưỡng mộ - bây gìờ đã là một ông quan hải quân, sẽ đưa nàng xuống tàu ra khơi đi tìm vùng đất hứa.
Rồi nàng bỗng dưng trở thành con cò lặn lội bờ sông của ông Trần Tế Xương, để nuôi đủ sáu con với một chồng – ông chồng gần tám năm biền biệt ở các trại tù Lào Cai, Yên Bái.
Tôi còn nhớ lúc ở trong tù, tôi may mắn nằm bên cạnh nhà thơ lớn Tô Thùy Yên. Tôi rất quý anh vì anh là một người tù có tư cách. Thấy tôi dốt nát mà cũng thích thơ văn, anh làm tặng tôi một bài thơ khá dài và hay lắm. Nhưng lúc bị cai tù kiểm tra, tôi nhát gan nên bỏ cả bài thơ vào miệng nhai nát rồi nuốt vào cái dạ dày đang đói. Vì vậy tôi không còn nhớ hết mà chỉ thuộc lòng mấy câu viết về nàng:
Tám năm áo rách bao nhiêu lượt
Em vá chồng lên những nỗi niềm
Từ thuở anh đi nhà tróc nóc
Con thơ đâu còn biết vui cười
.................................................
Cô gái Ninh Hòa, thương quá đỗi
Một mình chèo chống giữa phong ba
Ra khỏi trại tù, dường như tôi chỉ đem về cho nàng thêm những đắng cay. Với một người chồng còn mang đầy những vết thương cả trên thể xác lẫn tâm hồn, cùng một đàn con thơ dại, giữa một xã hội chất chồng thù hận, nàng biết xoay xở làm sao ? Cuối cùng, nàng phải cùng chồng con, đem sanh mạng đánh một canh bạc cuối cùng.
Có lẽ ông trời không phụ lòng nàng. Chuyến đi vội vã, chuẩn bị chưa xong, rồi cũng đến được bến bờ. Trong lúc bao nhiêu người tìm cách tận hưởng hạnh phúc của một điều tưởng chừng may mắn nhất của con người, hoặc ít ra cũng ngơi nghỉ để hoàn hồn từ cõi chết, nàng lại tiếp tục làm kiếp con cò trong một vùng băng tuyết mênh mông, lo lắng cho con, để cho chồng học thêm vài ba chữ và vác ngà voi chạy đủ thứ chuyện bao đồng.
Bây giờ những đứa con đã trưởng thành. Nàng chiều chồng để cho mỗi đứa tự chọn đất nước nào nó thích mà dung thân. Mỗi đứa một phương trời. Nàng lại là một hậu phương cho các con đi vào trận mới. Ngôi nhà trở nên trống vắng.
Cuối
cùng nàng cũng
chì còn có
tôi, người
lính thất trận
năm nào, đã
mang đến cho
nàng biết bao
là hệ lụy. Dư
âm cuồng nộ
của những cơn
dông bão năm
nào dường như
vẫn còn đâu đó
trong giấc ngủ
của riêng
nàng.
Tuổi sắp già, mà tôi còn mang nhiều món nợ. Biết làm sao trả cho xong. Nợ núi sông, nợ máu xương bè bạn. Mà khổ thay, tôi thì cứ mãi là thằng lính hèn mọn, bạc tình. Và tôi còn nợ nàng, nợ Ninh Hòa. Mảnh đất hiền hòa đã cho tôi một người vợ chung tình, cùng tôi qua bao cuộc biển dâu.
No comments:
Post a Comment