Monday, July 3, 2017

BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 472

Thursday, June 15, 2017



PHẠM MẠNH TUẤN * TẬN MIỀN TRĂNG LU




Tận Miền Trăng Lu
Phạm Mạnh Tuấn
 
1. Hai cánh tay trói chặt
Còn đưa lên khỏi đầu
Đòi ôm lấy trời cao
Đòi ôm hết các vì sao…



Đầu tháng 7 năm 1976, tuy đã vào Thu nhưng trời vẫn còn oi bức trong trại cải tạo Cây Cày, vùng Tây Bắc tỉnh Tây Ninh khu sát biên giới Miên - Việt.
Tối hôm đó, như thường lệ, chúng tôi họp tổ để thông báo công tác lao động cho ngày hôm sau. Vì là tổ trưởng - anh em luôn đẩy tôi ra làm tổ trưởng từ ngày nhập trại bên Trảng Lớn, chuyển sang Đồng Ban và rồi đến đây – tôi được dịp thao thao “lên kế hoạch” với anh em:
- "Ngày mai công tác chúng ta vẫn là mỗi người chặt và mang về hai cây tre, dài ít nhất 10 mét, khúc ngọn nhỏ nhất cũng phải bằng một chít tay".

Rút kinh nghiệm hôm nay, ngày mai chúng ta sẽ không làm như những tổ khác, nghĩa là sẽ không dùng thang leo lên khỏi lớp gai rồi mới chặt mỗi người hai cây, nhưng tổ chúng ta sẽ chia làm hai nhóm, mỗi nhóm sáu người, chọn hai bụi tre lớn gần nhau, sau đó áp dụng chiến pháp “công thành triệt mộc”, ta sẽ phá từ ngoài phá vào, gặp gì chặt đấy, không phân biệt tre hay gai. Cách này sáu thằng thay phiên chặt, chỉ ba, bốn tiếng đủ tre để nộp cho hai ngày.

Tôi đưa mắt nhìn một vòng:
- Rồi! Kế hoạch như vậy, có thằng nào ý kiến gì không?

Tổ tôi may mắn gồm toàn những tay trẻ, độc thân, vì chúng tôi luôn tìm cách đứng chụm vào nhau nên sau mấy lần chuyển trại và “biên chế”, phần lớn vẫn còn chung một tổ và xưng hô “mày tao” thân mật.

Trong tổ cũng có vài anh ngoài ba mươi, như nhà tiến sĩ ngôn ngữ học, nói được năm thứ tiếng, mới từ Pháp về, hay anh Bác sĩ Quân Y đã ra trường vài năm, có điều cả hai anh này đều cù lần, chậm chạp, sau một thời gian được kính trọng, giờ đây cũng đã được xếp đồng hạng… “thằng” và xưng hô “mày, tao” tự nhiên. (1)

Hùng, giặc lái L19, to con nhưng rất nhát, rụt rè lên tiếng hỏi:
- Mình “đạt chỉ tiêu”sớm qúa nó bắt mình làm nữa thì sao? Mày không nhớ...

Tôi lắc lắc đầu, chép miệng:
- Không trách tụi nó gọi mày là Hùng khờ! Ai bảo mày chặt được bao nhiêu nộp hết bấy nhiêu. Chỉ nộp mỗi thằng hai cây thôi, số dư dấu dười suối, hôm sau mình cũng làm bộ chặt như người ta nhưng chỉ hai thằng ở ngoài canh bi-đông (bộ đội) thôi, còn tất cả rúc vào bụi, nấu cà phê, châm thuốc lào nghe thằng Phong kể Jack London, thằng Hợp kể Leon Tolstoy hay tao kể Hồng Lâu Mộng. “Nắm bắt” được chưa? Còn thằng nào muốn hỏi nữa?

Hùng lẩm bẩm:
- Thì mày nói sao tao làm vậy, tao nhận chân . . khuôn vác, như tuần trước.

Hùng có sức vóc và rất hiền lành, chân thật. Tuần trước đi cắt tranh, mỗi người phải nộp hai gánh mỗi ngày. Cắt tranh tuy không quá cực nhọc nhưng rất nguy hiểm, ban quản giáo họ lùa chúng tôi vào cắt trong những chỗ vốn từng là mật khu, toàn mìn bẫy. Ngay bữa đầu đã có người mất giò, người bị thương.

Vì là công tác cả B (khoảng đại đội), sau vài ngày, đống tranh đã lên cao như trái đồi nhỏ. Tôi cũng chia tổ ra làm hai, một nửa gánh tranh về nộp, đang lúc chất tranh, chờ nếu thấy không ai để ý, sẽ đưa chân đạp những bó tranh cho lăn vào gần ruộng mì cao rậm bên cạnh.

Một toán khác do tôi hướng dẫn, gồm những tên liều và lì, chờ sẵn kéo tranh đi dấu.
Ngày đầu tiên chúng tôi đã “kiếm” được trên trăm bó, mấy ngày sau việc chính của tổ tôi là tìm chỗ thật kín, thật khuất, cắt vài thằng thay phiên gác còn phần lớn chui vào bụi, nhấp trà hay cà phê, phi thuốc lào, hát nhạc vàng, nghe kể chuyện.

“Hùng khờ” và “tiến sĩ ngôn ngữ” chậm chạp nên tình nguyện gánh tranh về nộp chứ không dám tham dự màn chôm chỉa.

Thấy anh em không ai có ý kiến gì nữa, tôi với bộ bàn đèn (điếu cày chế bằng vỏ bom), tính phi một hơi trước khi giải tán ngủ, bỗng có tiếng chân rập rập trước cửa, anh quản giáo xuất hiện với hai bộ đội, vừa qua cửa anh ta hô lớn:
- Tất cả ngồi nguyên tại chỗ.

Anh quản giáo xăm xăm tới trước mặt tôi, hai người bộ đội chĩa súng đi hai bên, anh quản giáo rút ra tờ giấy dõng dạc đọc:
- Chiếu sắc lệnh số . . ngày . . của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời . . . . Chiếu . . . của Ủy Ban Quân Quản Thành Phố . . . về chính sách HT CT các sĩ quan ngụy . . . Tên PMT thời gian qua đã không thực tâm học tập để tiến bộ mà còn lén lút chơi và phổ biến nhạc vàng, lọai nhạc phản động, đồi trụy…

Anh quản giáo đọc “án lệnh” xong, tai tôi vẫn còn lùng bùng. Tôi đưa tay ấp úng:
- Quản giáo coi lại xem, tôi đâu có…

Người quản giáo lớn tiếng cắt ngang:
- Anh muốn phản ứng hả?

Hai người bộ đội cùng lên cò súng. Cả tổ im phăng phắc. Tôi thoáng nhận ra, tôi có thể bị bắn bỏ như một con chó hoang. Trong tầm mắt, Phong người bạn thân, khóa 25 Võ Bị, nhìn tôi lắc đầu.

Anh quản giáo lách người đến chỗ nằm của tôi, kéo ra dưới gối một quyển sách, quăng lên bàn trước mặt tôi lớn tiếng:
- Cái gì đây?!

Tôi lặng người, quyển độc tấu tây ban cầm viết bằng Anh ngữ của Segovia Tiến mới gởi vào!.
Tiếng anh quản giáo lại dõng dạc:
- Tôi cho anh một phút, mặc áo vào đi theo chúng tôi.

Tôi chỉ kịp khoác chiếc áo lành nhất, đưa mắt tạm biệt anh em, trước khi lủi thủi đi theo anh quản giáo. Hai người bộ đội chĩa AK-47 phía sau áp giải tôi lên “cây da xà”, chỗ biệt giam của trại Cây Cày.

“Cây da xà”, một căn chòi thấp và dài, trống trải, bệ rạc hơn cả “lán” tôi đang ở, cột kèo, chõng nằm đều bằng tre nguyên cây chưa chuốt vót.

Trời bắt đầu nhá nhem tối nhưng cũng đủ cho tôi thấy nơi biệt giam này hiện đang giữ hai người.
Cách chỗ tôi vài chõng, một người đàn ông đang nằm, chân trong còng, coi quen quen . . À đúng rồi Hoàng Qúy người sáng tác thánh ca nổi tiếng tôi vẫn hằng ngưỡng mộ, dưới đáy vực thẳm thẳm lạnh căm, tôi thấy loé lên vài tia sang ấm.

Dẫy chõng bên kia, nơi gần cuối, hình dáng một cô gái, tóc xổ tung, dáng tiều tụy, nhếch nhác. Trong khi tra chân vào còng để người bộ đội khóa, tôi đưa mắt tò mò hướng về cô gái, dáng cô như qủy dạ xoa, hai mắt toé lửa nhìn trừng trừng về phía hai người bộ đội.

Cô ta bỗng cất tiếng chửi, giọng khàn đặc, chắc vì đã la hét nhiều, lời chửi rất tục tằn, dữ tợn:
- Đồ khốn nạn, gian xảo. Đồ lưu manh côn đồ,…”

Một người bộ đội chỉ mặt cô gái chửi lại, lời lẽ hắn còn tục tĩu hơn:
- Câm ngay, con đĩ chó! Tao đập nát cái mặt L của mày ra bây giờ.

Cô gái vẫn tru tréo:
- Mày giết tao đi. Mày tưởng tao sợ chết hả? Nếu sợ tao đã không trốn trại, đã không dám chửi cha cái thằng Hồ Chí Minh…

Cô ta còn đang chửi, người bộ đội đã đến nơi, anh ta dơ thẳng tay táng vào mặt cô gái. Tiếng “chát” rợn người, máu từ mũi và miệng cô trào ra, cô chỉ phát ra được những tiếng “ư. ử . .”. Người bộ đội xốc lại súng, một tay quấn tóc cô gái rị xuống xạp, tay kia thẳng tay tống vào mặt cô. Cảnh tượng quá dã man, tôi quên hết vị thế của mình, buột miệng:
- Các anh phải tôn trọng…

Chưa dứt câu tên bộ đội đang xiềng chân tôi hét lên:
- Mày nói gì?

Tôi lập lại:
- Các anh…

Một báng súng vung lên hết cỡ đập mạnh vào quai hàm tôi. Ánh chớp lóa lên trước mặt, tiếng “kịch” vang trong đầu, tôi té bật ngửa ra xạp, gáy đập vào sàn tre người rũ ra vô cảm.

Tôi nằm bất động không biết bao lâu, lúc tỉnh lại, cảm giác đầu tiên nhận được là cơn đau nhức khủng khiếp từ cằm và hàm dưới. Lờ mờ tôi nhận ra Hoàng Qúy đang cúi nhìn. Tôi há miệng, định đưa tay sờ cằm, cơn đau nhói bùng lên, máu từ miệng ứa ra, tôi một lần nữa đi vào hôn mê. . . Thượng đế thật kỳ diệu, khi cơn đau trở nên qúa đỗi, Ngài cho giấc ngủ ập xuống, tê liệt mọi thần kinh, tránh bớt cho con người sự chịu đựng đớn đau.

Lần thứ hai tôi tỉnh lại, người vẫn như đang ngồi trên thuyền chao đao, nhưng trí nhớ đã dần hồi phục, tôi biết mình bị đánh một báng súng vào cằm dưới, quai hàm không biết có bị bể không nhưng chắc chắn đã bị trật khớp. Tôi không dám điều khiển hàm dưới vì mỗi lần thử ngậm miệng, cơn đau nhói lại bùng lên.

Thấy tôi mở mắt, H.Q. đứng bên cạnh từ lúc nào thì thầm:
- Tạ ơn Chúa, bạn đã tỉnh lại, bạn mê sảng cả đêm.

Anh ta đến gần tôi hơn, chắc vì tôi bị thương, cả hai chúng tôi đều được mở còng. Anh đưa mảnh vải nâu cũ lên lau máu chung quanh miệng tôi và thiết tha hỏi:
-Bạn bị trật khớp quai hàm, tôi cố nắn lại cho bạn nhá? Cũng khá đau đấy.

Tôi chớp mắt cám ơn và ráng gật đầu. Hoàng Qúy một tay giữ hàm trên một tay nắm chặt hàm dưới bóp mạnh. Tôi đau đớn như bị một báng súng nữa, mặc dù nghĩ trong đầu mình phải “ngon” hơn Quan Công (một tay đánh cờ, một tay đưa ra cho mổ), tôi vẫn giãy giụa. Lần đầu chưa thành công, HQ cố bóp lần hai rồi lần ba, càng những lần sau càng ráng sức hơn. Tôi vùng vẫy trong đau đớn, miệng tuy không hét được thành tiếng chắc cũng kinh khủng như tiếng heo bị chọc tiết.

Người bộ đội gác ngoài cửa thấy vậy cũng phải quát lên:
- Thằng kia! đếch biết làm thì thôi đi. Đ. được việc gì!

HQ thõng tay buồn rầu nhìn tôi, mồ hôi đầy mặt. Nằm im một lúc, tôi ra dấu muốn viết, HQ với tay lấy bút chì và tập giấy trên đầu xạp (dùng để viết kiểm thảo) đưa tôi. Tôi nguệch ngoạc: “Thiên, tổ 11, B2 giúp”. Tôi nghĩ đến anh BS Quân Y cùng tổ. Mãi đến chiều, Thiên đi lao động về mới có thể lên giúp tôi. Hắn mang theo mấy viên thuốc, chắc gom được của anh em dưới lán, hòa vào ly nước lạnh, trút từng muỗng sâu vào họng tôi.

Trong lúc Thiên đưa tay mò vào miệng tôi lấy ra hai, ba chiếc răng gẫy, anh giải thích:
- Tao không có thuốc tê, nhưng những viên thuốc này cũng làm mày bớt đau và ngủ yên đêm nay.

Thiên quay lại HQ giải thích:
- Tuấn nó bị trật hàm chứ may chưa bể, có thể bị nứt nhưng sẽ lành. Muốn bỏ lại khớp mình phải kéo hàm dưới ra, chớ bóp ngang vào, hai xương cấn nhau, không vào được.”

Sau khi Thiên giúp bỏ lại khớp xương, những gân và thần kinh chung quanh miệng như những giây đàn đang căng thẳng nay được buông chùng, cơn đau của tôi giảm đi qúa nửa, chỉ còn ê và miệng còn xưng vù, hết hẳn những cơn đau nhói, tôi đi vào một giấc ngủ sâu.

Trưa hôm sau anh em dưới lán quạy cho tôi một loong Bích Chi đường hột gà. - Dưới lán tôi “tư bản” hơn phần lớn anh em, vẩn còn vài chục gói bột Bích Chi Tiến mới tiếp tế và con gà mái đẻ. Tuy rất đuối sức tôi vẫn có thể tự ăn, nhưng lạ làm sao, người bộ đội gác cho phép cô gái “nhân phẩm” - Tệ đoan xã hội, đi cải tạo để phục hồi nhân phẩm - giúp đút bột cho tôi (2).

Hoàng Qúy vừa lấy gối tre kê vào lưng tôi vừa thì thào:
- Ông được người đẹp chăm sóc chắc sẽ mau lành.

Tôi gượng cười cám ơn ông nhạc sĩ có dáng như thầy tu, đến nước này mà ông còn ráng nói diễu cho tôi vui.
Đưa tay sờ cằm, miệng tôi xưng lớn quá, nửa mặt dưới vẫn tê dại như người vừa ra khỏi phòng Nha Sĩ. Cô gái trước mặt gầy gò đen đủi, mặt cô ta chỗ bầm tím chỗ xưng vù, lúc đưa muỗng bột lên cao tôi mới để ý: áo cô mặc chỉ còn một tay, tôi nhớ đến miếng vải cũ HQ hay dùng lau máu, tôi nhìn cô cảm kích.

Trong hoàn cảnh này, những ý tưởng và phán đoán về danh giá, đẹp xấu hình như không còn nữa, tương quan giữa người và người chỉ còn lại nỗi cảm thương. Đột nhiên người con gái đưa mắt nhìn tôi, ánh mắt cô vừa linh hoạt vừa nhu mì trái hẳn vẻ trợn trừng hằn học ngày hôm qua. Cô im lặng chậm rãi đút từng muỗng bột vào miệng tôi, toát ra vẻ kiên nhẫn cũng khác hẳn nét dữ tợn hôm qua khi cô gào lên những câu chửi dữ tợn, chua ngoa.

Trong tâm trạng đớn đau pha lẫn nỗi sợ hãi và niềm cô đơn tuyệt vọng, khi nhìn ánh mắt hiền dịu của cô, tôi liên tưởng đến mẹ tôi với tình yêu thiết tha, đến những ân tình của nhiều người đã dâng tặng tôi. Tôi nhắm mắt nhủ thầm: “Nguyện cam tâm chịu những thống khổ này để bù lại phần nào ân tình người đã trao ban.” Những kỷ niệm mang nhiều xúc động thoáng hiện về, nước mắt tự nhiên ứa ra, tôi cố lẩm bẩm tự bào chữa cho mình: “Nhưng anh luôn sống thật, chưa hề lừa dối ai”. Có tiếng nấc trước mặt, tôi mở mắt, người con gái đang đút bột cho tôi cũng nước mắt lưng tròng, tay cầm muỗng bột run run. Chúng tôi đăm đăm nhìn nhau chắc cùng thương cho hoàn cảnh và tội cho số phận của nhau.

Tiếng kẻng bỗng vang lên đưa chúng tôi về thực tại. Người bộ đội gác ngoài cửa lớn tiếng:
- Hết giờ ăn, đến lúc ra ngoài.

Hoàng Qúy giải thích:
- Mình được tháo cùm, xuống suối tắm giặt, đi lại một giờ.
----------------------------
(1)Tổ cải tạo chung với tôi tại trại Cây Cày, Đồng Ban gồm 18 người, may mắn qua Mỹ được hơn nửa. Nguyên tại vùng San Jose chúng tôi có dịp gặp lại 6 người. (UTT, UTL, NCH, CS, NTN, NVN).
(2)Khi còn trong các trại tù cải tạo tôi tưởng lầm các cô “nhân phẩm” toàn là chị em ta. Nhưng khi ra tù tôi mới biết, có rất nhiều vợ con của “ngụy quân, ngụy quyền”. Có người bị bắt vì bán chợ trời, người vì phát biểu phản động chống phá cách mạng, v.v...


**********

2. Ngã gục xuống lòng đất
Cố níu vai cuộc đời
Thủy chung với loài người

Một tuần sau tôi bắt đầu bị gọi lên “làm việc” với “khung” và viết kiểm thảo. Sau mấy lần tờ kiểm điểm bị trả lại kèm lời phê: “Chưa thành thật khai báo”, tôi nhận ra họ (những người thẩm vấn) đã biết qúa nhiều, họ rành cả những chuyện “mật” mà chắc nhiều anh em trong tổ cũng không hay.

Không nghi ngờ gì nữa, trong nội bộ đã có đứa làm ăng-ten! Tôi bị kỷ luật và biệt giam không phải chỉ vì nhạc “vàng” mà còn bị gán thêm hai tội nặng: “sỉ nhục chiến sĩ Cách Mạng” và “phá hoại tài sản Xã Hội Chủ Nghĩa”!

Việc “sỉ nhục chiến sĩ” xẩy ra do hôm tổ đi trồng mì gần khu dân cư kinh tế mới, một chú chó nhỏ luẩn quẩn đến chỗ chúng tôi, đuổi cũng không chịu đi. Tới chiều chúng tôi về lại lán, chú chó cũng lẽo đẽo theo sau. Khi lội qua suối, vì không muốn bỏ lại con chó giữa rừng hoang, một anh ôm nó về trại. Tối hôm đó chúng tôi lấy ý kiến đặt tên cho chó. Tôi vừa đề nghị tên “Bi Đông” anh em đã vỗ tay “hồ hởi nhất trí”.

Kể từ đó, tội nghiệp con có nhỏ có bộ mặt dễ thương đã trở thành đối tượng để anh em chỉ trích: “Ê Bi Đông! Nhìn mặt mày là thấy lưu manh, gian ác, chỉ được cái nói như vẹt…”, “Mày vừa ngố vừa khờ mà vỗ ngực xưng ta đây đỉnh cao trí tuệ! phét lác . .”.

Anh cán bộ khi tra vấn tôi và lập lại những câu đó, anh ta đập bàn gằn giọng:
- Như vậy là các anh đã sỉ nhục BĐ, chiến sĩ cách mạng chứ còn gì nữa?!

Tôi lúng túng biện hộ:
- Thưa cán bộ, đúng ngày có con chó là ngày tôi bị mất cái bi-đông đựng nước, tôi đặt tên nó vậy chỉ vì nghĩ đến cái bi-đông mất chứ không có ý gì khác.

Anh ta rít một hơi thuốc lào thở khói mù mịt rồi mới hằn học:
- Còn chuyện ăn cắp gà bộ đội thì sao? Không thấy anh khai ra?

Tôi lắp bắp:
- Gà . . gà nào đâu.

Anh cán bộ lớn tiếng:
- Gà của quản giáo dẫy nhà số hai chứ gà nào, anh tưởng chúng tôi không biết phỏng?”

Thôi chết rồi! Số là trong trại tôi có thằng em kết nghiã tên Dương Hợp, thua tôi một tuổi, khóa cuối Võ Bị Đàlạt ra trường “non”. Hợp rất tư cách, anh em chung tổ từ bên Trảng Lớn. Trưa đó trên sân “Tinh Võ” (sân phơi lúa và khoai mì khô của Cây Cày), Hợp đang lui cui trở thóc, tên “Bộ Đội chó” đến sau lưng quất Hợp một gậy! Sở dĩ gã bộ đội này có bí danh “chó” vì hắn giải ngũ đã lâu nhưng không về quê ngoài Bắc, cứ quanh quẩn trong trại, mỗi dịp tù nhân được thăm nuôi hắn giết chó đèo vào chiếc xe đạp cũ, đạp tới các tổ rao: “Chó chó! Chó chó”.
Chỉ có lúc bán thịt chó hắn mới “dễ thương”, những lúc khác hắn cực kỳ hắc ám.

Mỗi khi thấy quản giáo đang “lên lớp”, bộ đội cờ tây nhà ta dựng xe đạp lại, chống nạnh chửi ké:
- Chúng mày trây lười đã quen, ngồi không ăn bám đã thành nếp, không thấy lao động là vinh quang,..

Rồi hắn ta vung hai cánh tay khẳng khiu lên:
- Bàn tay ta làm nên tất cả, với sức người sói đá cũng thành cơm...

Nhiều khi hắn ba hoa quá, quản giáo phải đuổi hắn mới chịu đi. Hắn còn thói xấu rất đáng trách mà cũng vì thói này, sân phơi lúa Cây Cày được mệnh danh “sân Tinh Võ”.

Lúc anh em đang cắm cúi làm việc, hắn đến sau lưng bất ngờ giơ gậy quất. Bữa đó Hợp bị một hèo, tôi tức lắm, nhìn đi chỗ khác tôi chửi đổng: “Đồ hèn!”. Tên “cờ tây” xăm xăm đi lại, cứ hắn tiến thì tôi lùi, luôn giữ khoảng cách xa hơn tầm gậy, tôi lùi vòng vòng trong sân, anh em ngưng làm theo dõi. Mặt bộ đội khuyển tái ngắt, miệng thở phì phò. Mãi đến lúc chính ủy trung đoàn ra đứng chống nạnh, “cờ tây” ta mới chịu lủi vào khu nhà quản giáo.

Buổi chiều tan giờ lao động, tôi ra hiệu cho Hợp biết anh em sẽ về sau cùng. Trên đường về giữa các ruông bắp, tôi nhanh chóng vồ được hai chú cào cào. Trong lúc Hợp canh chừng, tôi cột con cào cào vào sợi chỉ bao cát (vải áo tôi đang mặc). Lúc đi qua nhà quản giáo, tôi liệng chú cào cào vào giữa đàn gà, một con nhào ra mổ. Tôi chỉ việc chậm rãi kéo con gà lại, vì mồi đã mắc trong họng, gà ta ngoan ngoãn đi theo sợi chỉ, đến vừa tầm tay, tôi chụp đầu gà vặn ngược. Quái kê được giải thoát không một tiếng động. Hợp há hốc mồm khâm phục, hắn ngồi thụt xuống, banh cổ áo ra cho tôi nhét gà vào. Tối đó chúng tôi liên hoan món gà luộc, trả thù cho Hợp cú đòn hèn . . .

Nghe người cán bộ thẩm vấn hỏi về “kỳ tích” này tôi khá nao núng nhưng cũng tìm cách chống chế:
- Dạ có gà thật, nhưng đầu đuôi vì bữa đó tôi lao động về mệt quá, lại “tranh thủ” vác khúc củi về cho anh nuôi (bộ phận nấu ăn), chân nam đá chân xiêu, đàn gà lại cứ quẩn vào chân nên tôi có . . dẵm chết một con . . .

Người cán bộ đang “làm việc” bỗng gầm gừ ngắt lời:
- Thôi! Lý do của anh đến trẻ con cũng không tin được… Rồi! Thế còn vụ ăn cắp xa cá?

Tôi giật nảy mình, chết mẹ! vụ này giải thích sao đây? Số là bộ đội có cách bắt cá rất hay, họ đóng một dàn cầu tre ngang suối, phía dưới cầu tre họ đặt dàn lưới tre. Cá theo dòng nước chảy xuống sẽ bị mắc vào lưới. Nhiều lần đi lao động ngang xa cá bộ đội, phe cải tạo thèm nhỏ dãi, những ngày chúng tôi có thịt cá trong năm chắc đếm không hết năm đầu ngón tay.

Bữa đó chúng tôi bốn người - Phạm Minh Lại (giặc lái trực thăng ngoài Pleiku), Nguyễn cửu Hiệp (bộ TL Không quân) và Dương Hợp quyết định “chôm” cá của “bi đông”. Hợp và Hiệp đi trước thám sát, tôi sẽ chôm cá còn Lại quan sát phía sau.

Tôi và Lại cố tình chần chờ, lùi lại cuối đoàn cải tạo đi phá rẫy. Khi đi ngang cổng gác sau, một anh cán binh mặt mày non choẹt đứng lên quát:
- Hai anh kia! Đi nhanh lên! Đi đứng thất thểu như hai thằng chết đói.

Lại với giọng thều não thủng thỉnh trả lời:
- Đói chứ sao không đói.

Anh bộ đội nhí tức mình quát:
- Đói! Lúc nào cũng than đói. Sáng không ăn gì à.

Vẫn giọng nhừa nhựa, Lại nói như rên:
- Có gì đâu mà ăn.

Anh bộ đội lúc đó chắc chợt nghĩ ra: Tù cải tạo đâu có được ăn sáng. Anh ta chửi đổng:
- Chỉ bố lếu bố láo. Chây lười lao động… Đi nhanh lên.

Đến xa cá tôi nhìn phái trước thấy Hợp đứng xa xa ngay chỗ rẽ ra dấu an toàn, quay lại phía sau Lại cũng gật đầu, tôi dòm dẫm leo lên cầu khỉ đi trôm cá. Nhưng xui cho chúng tôi bữa đó chỉ có một con lớn bằng cổ tay. Vì không có đồ đựng, tôi nhét đại cá vào túi quần. Lại đến thấy đuôi cá còn lòi ra ngoài, hắn nghiến răng vừa cắn vừa bẻ đứt đuôi cá vất xuống suối.

Hôm đó tổ đứng thành hàng ngang cuốc đất trồng mì, tôi không có chỗ nào dấu đành cứ để cá trong túi. Sau mấy tiếng làm dưới trời nắng, mùi tanh của cá chết bốc lên lợm giọng…

Bị chất vấn về vụ trộm cá, tôi không biết đường trả lời nên chỉ còn cách chối. Nhất định nói rằng bị báo cáo gian. Mấy lần tra hỏi vặn vẹo không kết quả, anh cán bộ thẩm vấn hậm hực ra lệnh cho người cán binh điệu tôi trở lại phòng biệt giam.
Sau lần “làm việc” thứ tư, bản tự kiềm vẫn bị trả về kèm lời phê “chưa thành thật khai báo”, tôi thấy đấu trí kiểu này không xong. Họ có sở trường ù lì, chờ đợi.

Còn tôi, liệu chịu đựng được bao lâu vớì những cơn đói ngày đêm hành hạ?! Đói luôn ám ảnh tâm trí, trong giấc ngủ tôi thường chỉ mơ thấy ăn, tới những món tầm thường như chén chè, củ khoai. Có lần trên đường xuống suối tắm, chỉ cách họng súng mấy bước, vừa qua khúc quặt, tôi liều ra chiêu “diệu thủ” vặt một bó bo-bo nhét vào bụng. Nhưng than ơi “hoạ vô đơn chí”, trong bo-bo có qúa nhiều kiến lửa, chúng nhào ra cắn phồng da ngực, tôi đành giả bộ đi vệ sinh để nhét nắm bo-bo vào bụi!

Cách mạng muốn tôi viết về những điều họ chưa rõ, tôi lại chỉ dài dòng về những điều “trên” đã quá hay. Khung muốn tôi nói nhiều về người khác, tôi chỉ một mực viết về mình, có nhắc đến anh em cũng chỉ chung chung, cách “vô thưởng vô phạt”. Hôm đó sau khi nhận xấp giấy mới kèm những lời răn đe, tôi quyết định không viết tự kiểm nữa mà viết về . . tình yêu, dưới tiêu đề “Tình Yêu Đích Thực”. Tôi nảy ra ý định này vì nhớ vài ngày trước khi bị kỷ luật, anh quản giáo đến yêu cầu tôi giúp thực hiện tờ báo Tết cho trại.

Tôi sửng sốt rồi xin từ chối với lý do thiếu khả năng, anh ta cười:
- Chúng tôi được báo cáo cả rồi, trong trại huấn luyện sĩ quan ngụy (quân trường), anh từng làm trưởng ban báo chí.

À ra thế! Nay quyết định viết bài, tôi biết mình phải viết làm sao để mấy anh này thấy hay, thấy thích, từ đó họ không bắt tôi viết tự kiểm nữa. Và biết đâu - phải biết đâu, tôi còn được tha về lán. Dưới đề tài tình yêu, tôi mổ xẻ, phê bình các lọai liên hệ tình cảm: tình yêu trai gái; tình yêu giữa cha mẹ và con cái; tình bạn bè, tình họ hàng, . . tất cả những loại tình yêu này đều đáng tôn trọng nhưng đều . . vị kỷ. Con người mới trong một xã hội mới, cần tiến đến tình yêu vị tha, cần vượt ra ngoài biên giới ích kỷ hạn hẹp, đè bẹp những dục vọng đam mê bản thân, để có thể tiếp giáp với tha nhân.

Trong thiên đường Cộng sản, tình yêu nhân quần xã hội thôi thúc con người cùng nắm tay nhau đấu tranh, hủy bỏ xiềng xích bất công, trả tự do cho người bị áp bức. Với tình yêu vị tha được thăng hoa, con người sẽ giúp tha nhân dẹp bỏ mọi gánh nặng, chia cơm sẻ áo cho kẻ đói rách, tiếp rước những người phiêu bạc không nhà. Con người không chỉ biết chăm xóc chính bản thân mình mà còn cảm nhận những nỗi khốn khổ của đồng loại,…

Gần mười trang giấy tôi viết ra những ý tưởng tốt đẹp nhất tôi có thể hình dung được về tính vị tha, về tình yêu cao thượng đối với cả… loài người. Thậm chí tôi không giới hạn “tình yêu” của mình vào phạm vi quốc gia dân tộc, với quan điểm “thế giới đại đồng”, nếu chưa yêu . . toàn thế giới, hết nhân loại, tình yêu đó còn tính “cục bộ”, vẫn “chưa đạt”!...

Anh cán bộ nhận bài viết của tôi thay vì bản tự kiểm, lúc đầu mặt anh ta nghệt ra nhưng đọc một lúc, những thớ thịt trên mặt anh giãn dần. Cuối cùng, người cán bộ nói lấp lửng:
- Được rồi, chúng tôi sẽ làm việc với anh sau.

Ngay chiều hôm đó, tôi được “bố trí” lên làm việc với chính ủy trại. Từ chỗ biệt giam “cây da xà” cuối trại, muốn đi lên “khung” hai người cán binh phải điệu tôi đi băng qua lán. Anh em có toán đã đi làm về, thấy tôi đi giữa hai người bộ đội tay lăm lăm AK, đã nhìn theo với ánh mắt ái ngại, chắc anh em đoán tôi đang bị dẫn đi xử. Riêng tôi thật bình thản, từ thiếu thời tôi đã có niềm tin lạ lùng rằng sau lưng tôi có một quyền lực vô hình khi cần sẽ bảo vệ, giúp tôi vượt thắng gian nguy. Trường hợp tệ nhất, lát nữa đây hồn tôi sẽ theo những đám mây đang lơ lửng trên bầu trời để ngao du, quên hẳn thế gian tục lụy.

Người chính ủy trại giam tiếp tôi sau chiếc bàn gỗ, gói thuốc Sài Gòn Giải Phóng đè trên xấp giấy tái sinh vàng nhạt, bài viết của tôi đã được anh ta đọc, gạch sửa, phê bình bằng mực đỏ như một bài luận học trò.

Với lối phát âm nặng của vùng Nghệ-Tĩnh, anh chính ủy chậm rãi:
- Về mặt tích cực, bài viết của anh đã chứng tỏ việc học tập của anh đã có ít nhiều tiến bộ. Nhưng về mặt tiêu cực, nhận thức của anh còn nhiều chỗ chưa đạt, chưa chuẩn.

Anh ta trao xấp giấy cho tôi và tiếp:
- Anh viết lại, cô đọng trong ba trang thôi, để ý đến những chỗ tôi đề nghị. Bài này sẽ đăng trong báo Xuân của trại.

Tôi đứng dậy, người chính ủy đến vỗ vai nói nửa khuyên nửa đe:
- Vì qúa trình học tập của anh có dấu hiệu tiến bộ, chúng tôi tạm ngưng việc thi hành kỷ luật của anh, nhưng anh phải ra sức phấn đấu, lần sau chúng tôi sẽ không khoan hồng nữa.

Sau đó anh ta đưa cho hai anh vệ binh một mảnh giấy viết sẵn và chỉ thị họ đưa tôi về lán thay vì trở lại chỗ biệt giam. Trên đường về lán, tôi nghĩ mình được thả về với anh em vì “khung” vào thế kẹt. Không lẽ cho đăng bài của một tên đang bị kỷ luật.


**********

3. Người đi trên giao tuyến
Sống chết như đêm ngày
Tim đau hồn ứa máu
Tự do một tiếng thôi

Về gặp lại anh em, những biểu lộ mừng vui chân thành của họ khiến tôi nghẹn lời. Tuy mặt còn xưng, hàm còn ê, tôi như vừa thóat cơn đại nạn.

Hợp khi biết tôi được tha về vì bài viết “Tình yêu đích thực”, hắn ngồi tư lự dáng không vui, nhưng Phong (đàn anh Hợp, khoá 25) sau khi đọc bài tôi viết, hắn phá ra cười:
- Mày viết tình yêu loại này chắc chỉ có trên thiên đàng!”.

Tôi nghiêm mặt:
- Chứ sao, thiên đàng CS, thế giới đại đồng mà lị.

Mặt Hợp, La, Hồng trở nên rạng rỡ. Tôi nghĩ họ nhớ tới những buổi học tập chính trị, nếu có mặt cán bộ quản giáo tôi luôn đưa tay phát biểu, tôi ráng giữ ở mức quản giáo thấy tôi “hăng say phát biểu”, “thành thật khai báo” nhưng vừa đủ để với anh em họ thấy nó “hơi lố”, “hơi sạo” và tôi đang ngầm mang đề tài thảo luận ra… diễu. Nhờ vậy những buổi học tập chính trị đỡ căng thẳng. Có khi tôi chưa kịp nói anh em đã đề nghị tôi phát biểu.

Tối hôm đó quản giáo đến họp với tổ tôi, anh ta giải thích vì học tập có dấu hiệu tiến bộ tôi được tạm ngưng kỷ luật và “đề nghị” tôi vẫn giữ tổ trưởng. Anh em hò reo hưởng ứng. Sau khi cán bộ về, tổ ăn mừng bằng màn nước trà, thuốc lào và hát nhạc… cách mạng. Cả tổ hợp ca “Những bước chân đi tới” và “Tiếng hát những đêm không ngủ”.

Chúng tôi thích hai bản này vì những câu như: “… Đêm nay ta cất cao tiếng hát giữa những trại giam.” hay “… Dù cho máu đổ quyết tâm giữ vững lòng son…” Đến phần điệp khúc anh em phụ họa bằng tiếng vỗ tay, đập bàn, cùng nhau rống lên:
- Dậy mà đi đồng bào ơi! Dậy mà đi đồng ới! Mẹ VN có hay chăng…”

Cả tổ đang gân cổ “cất cao tiếng hát giữa những trại giam”, bỗng anh quản giáo hồng hộc chạy tới:
- Im ngay, im ngay. Các anh không được hát những bài này nữa. Cách mạng đã thành công rồi còn “dậy mà đi”, dậy mà đi làm gì?

Sau khi anh em gỉai tán về sạp, tôi hỏi Phong:
- Sao không thấy ông già Tỏ nhỉ?

Phong hậm hực thấp giọng:
- Ngay sau hôm mày bị kỷ luật, thằng gìa đó được khung điều lên làm đầy tớ, nấu cơm rửa chén rồi!

Tôi buột miệng:
- Không ngờ!

Như vậy rõ ràng người phản thùng, báo cáo tôi cũng là người tôi đã cưu mang gần năm nay.

“Già Tỏ” (tên chúng tôi gọi ông) đã nổi tiếng làm “ăng-ten” từ Trảng Lớn, nghe nói ông ta có hai vợ năm con, người vợ hai còn rất trẻ dọa sẽ bỏ đi lấy bộ đội nếu ông không về sớm. Khi chuyển về Đồng Ban, có lúc ông ta đau đi phải chống gậy. Một ngày cuối năm, nhân dịp ra ngoài cắt tranh, ông “liên hệ” với dân mua được xị đế.

Đúng đêm Ba Mươi năm đó, ông qúa nhớ vợ con, một mình tu hết xị rượu rồi ra giữa sân chửi đổng. Ông chửi từ “đồng chí bí thư” đến anh quản giáo. Sợ liên lụy tôi ra dìu ông vào sạp, mắc mùng và dỗ ông ngủ.

Sau Tết mấy ngày chúng tôi chuyển trại về Cây Cày, anh em không ai muốn cho ông nhập toán, tôi thấy ông già yếu, bệnh hoạn bị mọi người ghét bỏ, nên ráng thuyết phục nhóm thân thiết của tôi cho ông ghép vào. Những ngày đầu ông rất dễ thương, phần công tác của ông chúng tôi gánh hết, bù lại ông đóng vai anh nuôi rất chu đáo. Ông pha trà, cà phê, đi kiếm đọt chùm bao, rau dền dại về nấu với ếch nhái chúng tôi vồ được. Có bữa cao hứng ông còn mở keo muối mè dấu trong bọc, múc cho anh em mỗi người một muỗng.

Vài tháng sau khi chuyển trại, ông trở bệnh nặng, đi đứng khó khăn, tôi thường xuyên phải dìu ông đi vệ sinh. Có lúc vội vàng ông tè cả vào chân tôi, nước tiểu pha máu đỏ lòm. Hằng ngày ông chống gậy lên bệnh xá nơi có hai anh quân y trực, để nhận mấy viên “xuyên tâm liên”. Những thuốc của bồ và gia đình tôi gởi vào từ thuốc bổ đến ký ninh, thuốc lọc nước… đều chuyển cho ông phần lớn.

Mãi khoảng nửa tháng truớc khi tôi lên cây da xà, ông mới tạm bình phục, đi đứng tự nhiên và xin lên làm tạp dịch cho khu nhà quản giáo. Từ đây ông có dịp gặp gỡ cán bộ, báo cáo lập công. Chỉ không ngờ người ông báo cáo đầu tiên lại là tôi, không trách họ biết tất cả từ vụ chơi nhạc vàng đến con chó Bi Đông! (1)
. . . .

Sau đó vài tuần, chúng tôi có công tác đi nhổ mì về cho nhà máy làm bột ngọt Cây Cày - đây có lẽ là nhà máy làm “mì chính” lớn và lời nhất Tây Ninh (vì nhân công toàn là tù khổ sai). Bửa đó trời mưa tầm tã, chúng tôi sáu thằng ngồi vắt vẻo trên chiếc Molotova chất đầy khoai, thằng nào cũng ướt - lạnh tím môi. Mỗi lần đi qua đám dân kinh tế mới chúng tôi hốt một mớ mì liệng xuống, trả thù cho việc “nhà nước” bắt chúng tôi trồng bạt ngàn mấy chục mẫu mì nhưng không bao giờ cho phép chúng tôi ăn một củ.

Xe về đến nhà máy, chúng tôi lo chạy vào lấy giỏ cần xế hốt mì mang vào cho toán gọt vỏ - toàn là đàn bà, các chị “phục hồi nhân phẩm”. Tôi và Hợp khiêng một giỏ cần xế, Hợp không khỏe hơn tôi nhưng hắn cố tình khiêng gần lại để chịu nặng nhiều hơn. Tôi bỗng khựng lại, trước mặt tôi hình ảnh một người con gái quen thuộc, cô ta nhìn nhếch nhác tiều tụy quá sức, có lẽ còn tệ hơn người ăn mày chợ cá!


Tóc cô ta cột bằng sợi dây chuối, quần áo rách rưới vá chằng vá đụp. Cô ngồi chống gối, ống quần te tua tệ hơn miếng ghẻ rách. Cô không xấu lắm nhưng mặt mày xanh lét, môi thâm tím mắt vô hồn. Thân tôi đã bệ rạc nhưng nhìn cô tôi vẫn thấy quá xót xa quá. Cô cũng đã nhận ra tôi nên buột miệng: “Anh Tuấn!”. Tôi gật đầu, tôi ngừng hẳn lại tính nói câu gì đó với cô nhưng Hợp nói nhỏ:
- Chắc cô anh gặp trên cây da xà phải không? … Phải đi anh ơi, có thằng bộ đội nhìn mình nãy giờ.

Tôi đưa mắt chào cô rồi vội vã đi. Trong cải tạo họ kết tội rất nặng nếu đám sĩ quan “ngụy” liên hệ với tù hình sự, nhất là với các chị em “phụ hồi nhân phẩm”.

Trên chuyến xe đi nhổ mì lần sau, thấy tôi ngồi một mình trong góc xe buồn buồn, Hợp đến hỏi:
- Chắc anh thấy tội cho cô trên cây da xà?
- Ừ! Chắc anh sẽ kiếm gói bột Bích Chi hay vài thẻ đường cho cô ta. Anh vẩn mang ơn cô đút cháo cho anh bữa đầu anh bị đánh.

Phong xen vào:
- Trong tù mày biết các bà các cô cần nhất cái gì không? … Băng vệ sinh.

Tôi vội lắc đầu:
- Đi thăm tao là cô bồ và cô em. Không lẽ nói hai người này mang bang lên? Làm sao giải thích làm gì? Cho ai?
Cả bọn đều gật gù đồng ý. Đi tù mà “order” món hàng này coi bộ không ổn.

Lúc mang mì về chuyến nhì, tôi có ý kiếm “cô cây da xà” nhưng không thấy – tôi đến lúc đó vẫn không biết tên cô, còn cô biết tên tôi có lẽ nghe HQ gọi - Mãi đến khi khiêng hết mì vào, đang rửa tay mới nghe một giọng nói gần gần:
- Anh Tuấn lúc về đến kiếm trong bụi chuối.

Tôi nhìn lên, cô “te tua” đang đứng gần, tay cô đang cố che những chỗ áo rách lòi da, mắt cô hướng về bụi chuối kế nhà vệ sinh. Tôi gật đầu tỏ ý hiếu. Sau đó tôi làm bộ đi vệ sinh rồi tạt vào bụi chuối, mò ra được ba củ khoai mì nướng gói trong lá khô.

Chúng tôi sáu thằng vừa đói vừa lạnh chia nhau những củ mì nóng, ngon ơi là ngon. Lạ một điều khoai mì sau khi luộc hay nướng ăn rất ngon và lành nhung khi còn sống lại vô cùng nguy hiểm.

Có lần Muôn - nhà tiến sĩ ngôn ngữ - đói quá cạp đại một củ mì tươi, ăn xong mắt anh trợn trừng, miệng xùi bọt. Từ đó đói mấy chúng tôi cũng không dám ăn mì sống. Thời gian đi nhổ mì khoảng hơn nửa tháng bữa nào chúng tôi cũng được chén mì nướng. Để đền đáp tôi và Phong cũng kiếm được ít gói bột, vài thẻ đường cho lại – Hợp vốn “con bà phước”, chưa bao giờ được thăm nuôi.

Một lần chúng tôi đi lao động, mới ra khỏi nhà thấy một đám đàn bà xa xa đi đến. Một thằng réo:
- Tụi mày ơi! Bồ thằng Tuấn tới.

Đám trong lán nhao nhao chạy ra:
- Đâu đâu? Có phải cô đẹp nhất không?
- Tao thấy ngược lại.
- Không đẹp nhưng mà có duyên.
- Tao không biết có duyên không nhưng rất tốt. Cho mình ăn mì hoài…

Đám đàn bà con gái đi ngang. Một thằng lên giọng diễu:
- Anh Tứng ơi! Anh Tứng. Em nè.

Các cô có vẻ mắc cở líu ríu dạt qua bên kia đường. Cô “cây da xà” vẫn tiều tụy xanh sao, lệt bệt đi gần cuối.
Tôi tự nhiên thấy tức quá nạt tụi bạn:
- Tụi mày câm bớt cái miệng lại. Mình là cái thá gì mà phê bình người ta, đẹp với xấu… Bồ bịch khỉ gì. Trong tận cùng bằng số, còn lại chút tình người đối xứ với nhau…

Bẵng đi cả mấy tháng chúng tôi không có dịp tiếp xúc với phe “phục hồi”. Hôm đó không biết tình cờ hay do linh tính dẫn dắt khiến tôi tự nhiên đến bụi chuối đặc biệt, nơi chúng tôi vẫn dùng để trao đổi. Không có củ khoai mì nướng nào nhưng có một mảnh giấy nhỏ gấp dấu dưới cục đá: “Yến mất hôm qua. Đã chôn sáng nay.”

Tôi bàng hoàng. Lần đầu tiên biết tên cô “cây da xà” cũng là lúc cô không còn ở thế gian. Ôi một kiếp người. Tôi làm dấu Thánh giá, thầm cầu cho cô được Thiên Chúa bù lại những gì cô đã phải chịu đựng ở trần gian.
--------
(1) Bên Mỹ tôi cũng có lần gặp lại “Già Tỏ”. Bữa đi biểu tình chống triển lãm hình HCM trên Oakland. Trong đám biểu tình đứng gần tôi, một ông già nhỏ thó nhưng la “Đả đảo” rất to.

Thấy dáng quen quen tôi nhìn kỹ: A! Đúng cha già dịch. Tôi đến gần hất hàm: “Ê! Sao hồi ở Việt Nam ông không la lớn như vậy giùm tôi?”. Già Tỏ nhận ra tôi nhưng đáp tỉnh bơ: “La để bị chết hả? Bên đây mình biểu tình. đả đảo có cảnh sát gác, sợ gì không la.”

Phạm Mạnh Tuấn

ĐÔNG ĐOÀN * ĐỜI TÔI KHÔNG CÒN GÌ


 
Đời Tôi Không Còn Gì 
ĐÔNG ĐOÀN
 
Bài viết này, xin được coi như một nén hương dâng lên cầu xin cho linh hồn chồng và con gái tôi được yên nghỉ trong Chúa
Tiếng trẻ con la thất thanh làm tôi giật mình tỉnh giấc, thì ra đó là một đoạn trong cuốn phim ma chồng tôi đang xem. Những cảnh trong cuốn phim làm tôi nhớ lại tất cả những gì hãi hùng đã xảy ra trong chuyến vượt biển đó. Cho dù thời gian qua đã lâu, xong tôi không thể nguôi ngoai được. Nỗi niềm đau đớn này tôi không biết tỏ cùng ai nhất là với người chồng hiện tại - Vì người chồng và đứa con gái trước đó của tôi đã chết và mất tích kể từ ngày kinh hoàng đó.

Con thuyền nhỏ bé rời bến Vũng Tàu được hơn một ngày, mọi người thở phào nhẹ nhõm vì nghĩ mình đã thoát nạn. Một số lên boong tầu thở không khí trong lành của biển cả sau bao ngày chui rúc ở dưới khoang chật chội và hôi hám. Con tầu cứ lầm lũi tiến thẳng trong đêm. Ngày hôm sau trời quang đãng, bỗng trở nên u ám. Gió ngày càng thổi mạnh. Rồi những giọt mưa quất ồ ạt xuống mui tầu. Về chiều, gió thổi càng mạnh hơn, con tầu lắc lư muốn bể ra từng mảnh. Trong khoang tầu, tiếng đàn bà, trẻ con la khóc, tiếng người nôn oẹ, tiếng cầu kinh...Mọi âm thanh hỗ tạp đó càng làm tăng thêm sự sợ hãi cho mọi người. Tôi cùng chồng và hai đứa con ngồi ở một góc tầu, hai đứa tay làm dấu thánh và cất giọng đọc bài kinh sám hối. Con tầu vặn mình trong cơn bão, tiếng cọt kẹt của những miếng ván tôi tưởng chừng như chúng vỡ đến nơi.

Ở trên buồng lái, người tài công cố ghìm bánh lái đưa con tầu thoát cơn bão. Mặt trời ló rạng cũng là lúc cơn bão đã qua. Mọi người bơ phờ, mệt mỏi nhưng mừng rỡ vì vừa thoát chết. Con tầu tả tơi rùng mình băng tới trước. Qua ngày thứ ba trên biển khoảng chừng bốn giờ chiều bỗng có tiếng la: " Có tầu phía trước ". Mọi người mừng rỡ leo lên boong tầu, họ cầm tất cả những thứ gì có thể cầm được, quơ lấy quơ để hy vọng chiếc tầu kia nhìn thấy họ và quả thật, chiếc tầu đã nhìn thấy họ. Nó từ từ tiến lại gần chiếc tầu vượt biên nhỏ bé. Khi hai chiếc kề nhau mọi người mới tá hỏa thấy hai ba tên cầm sùng nhảy qua tầu họ. Chúng nói điều gì không ai hiểu, bỗng một tên trong họ cất tiếng, hắn nói tiếng Việt Nam bập bẹ: " Bọn tao là cướp biển, bỏ hết vàng bạc ra, chống cự sẽ bị giết ".

Sau đó cả bọn hơn mười tên ào tới lục soát tất cả mọi người, mọi nơi. Một lát sau không còn gì để lấy, chúng gom lại và xì xào điều gì đó với nhau, tên chỉ huy ra lệnh cho bọn chúng đem tất cả đàn bà, con gái sang bên tầu của chúng. Còn đàn ông, chúng gôm tất cả lại một góc ở trên boong. Tôi cũng là nạn nhân bị đem qua tầu hải tặc. Khi tên hải tặc cầm tay tôi lôi mạnh bắt đi theo hắn, tôi giật lại, cố ôm ghì đứa con trai mới hơn mười tháng tuổi trong đôi tay yếu ớt của mình. Giằng co một hồi thấy không thể kéo một mình tôi hắn đành đẩy tôi đi với cả đứa trẻ. Khi qua tới tầu bọn hải tặc, tôi thấy khoảng mười cô gái, không nói không rằng, cả bọn quẳng súng ống, giáo mác vồ lấy các cô, cô nào chống cự, chúng đánh không thương tiếc.

Các cô gào khóc kêu cha mẹ cứu mình, chồng con cứu mình, còn tôi dùng hết sức mình đạp mạnh vào hạ bộ của tên hải tặc nãy giờ cố đè lên mình tôi. Hắn nhăn nhó đấm thẳng vào mặt tôi, đau đớn tôi ngã vật xuống sàn tầu. Tên này xé toạc tất cả quần áo tôi và tiếp tục hành động thú vật của hắn trong tiếng cười điên loạn. Tôi cố ngước nhìn đứa con trai nãy giờ bị vất nằm trên sàn tầu. Tôi tự nhủ phải cố sống vì con, tôi gồng mình chịu đựng. Sau khi tên này xong việc, hắn ra hiệu cho tên khác chạy đến. Hắn như con thú đói mồi, lao lên mình tôi, hắn vừa hãm hiếp vừa đánh tôi.

Quá đau đớn tôi gọi tên chồng tôi, tôi gào tên con tôi. Chồng tôi đứng bên kia tầu, anh thấy tôi như vậy, anh vùng mạnh đôi tay chạy qua để cứu tôi. Một tên trong bọn chúng rút phăng cây mã tấu chém một nhát ngang cổ anh. Máu tuôn xối xả, anh ngã vật xuống tắt thở trong khi đôi mắt trợn trừng căm hận. Sau đó tên này đẩy xác anh xuống biển. Nằm bên này thấy rõ cảnh đó, tôi ngất đi, sau khi tỉnh lại. Tôi thấy mình và các cô gái khác nằm ở dười gầm tầu. Không biết bao lâu, chúng lại lùa chúng tôi lên để thay nhau hãm hiếp tiếp. Không biết bao lần tôi bị đẩy lên boong như vậy. Tôi muốn cắn lưỡi để tự tử, song nhìn lại đứa con nhỏ của mình tôi đành cắn răng cố sống vì con.

Có thể đó cũng là động lực giúp tôi sống đến ngày hôm nay Ngày qua ngày, bọn hải tặc vẫn tiếp tục hành động bẩn thỉu của chúng. Sau khi chán chê, chúng thả chúng tôi lên một hòn đảo và may mắn thay, vài ngày sau cảnh sát tuần duyên Mã Lai phát hiện và đưa chúng tôi vào bệnh viện. Nhìn lịch, tôi đã thấy hơn nửa tháng từ khi tôi rời Việt Nam. Sau khi lành bệnh, họ đưa chúng tôi vào trại tập trung với những thuyền nhân đã tới trước. Thời gian này tôi cố dò hỏi về chiếc thuyền của chồng và con gái tôi ở trên đó nhưng không ai biết cả. Sau này tôi được một người cho biết chiếc tầu của chồng tôi đã bị bọn hải tặc đâm thủng cho chìm hòng giết người để bịt miệng. Tôi ở đảo được khoảng tám tháng. Sau khi phái đoàn phỏng vấn, tôi được cho đi định cư tại Mỹ - đến miền đất lạ, tôi không bà con, anh em, người bảo trợ cho gia đình tôi lại là người Mỹ - hai phong tục, hai ngôn ngữ khác nhau nên cuối cùng tôi lại trở nên đơn độc.

 Sau khi ở chung khoảng vài tháng tôi dọn ra thuê phòng ở khu chung cư có người Việt Nam, tôi mong được nghe tiếng mẹ đẻ nơi đất khách quê người - Tôi thầm cảm ơn trời, đã cho tôi đến được miền đất hứa. Nhưng mọi việc không suông sẻ như tôi nghĩ. Hằng đêm mỗi khi tôi nhắm mắt thì hình ảnh những tên hải tặc hiện đến, rồi hình ảnh chồng tôi với cái cổ đầy máu và đôi mắt trợn trừng lại về, tôi không thể dỗ giấc ngủ, không một ai chia sẻ nỗi buồn này, rồi tôi ngã bệnh cả tháng trời. Cuối cùng tôi cố trỗi dậy và tự nhủ phải làm một công việc gì để quên đi và để lo cho con trai tôi.

Tôi gởi con rồi lao vào công việc để quên đi hết nỗi bất hạnh ập xuống đời tôi. Hết rửa chén bát đến nhặt rau nhà hàng...Ngày qua ngày, mỗi khi tôi đón con thì thằng bé đã ngủ say. Tôi hôn lên trán con mà nước mắt tuôn rơi. Thời gian cứ lặng lẽ trôi đi, hết thu sang rồi đông đến. Thấm thoát tôi đã ở Mỹ được 16 năm rồi. Một ngày khi nỗi buồn nguôi ngoai, tôi bước thêm bước nữa. Người chồng này sống với tôi cho đến ngày hôm nay. Tuy vậy tôi chỉ cho anh biết tôi đi vượt biên và chồng cùng con gái đã chết trên biển - Tôi rất sợ nếu nói lên sự thật sẽ làm anh ghê tởm tôi và sẽ mất đi chỗ dựa cuối cùng này. Nhưng tạo hóa trớ trêu lại giáng tai họa xuống đời tôi một lần nữa. Một hôm đang làm việc, bỗng xếp của tôi gọi lên văn phòng và nói cho biết cảnh sát vừa gọi điện thoại cho biết con tôi theo đám bạn nhậu say rồi bắn lộn gây chết người. Hiện nó đang bị giam tại trại giam thành phố.

Tôi thấy mọi thứ như sụp xuống đầu tôi. Đứng chết lặng một hồi, tôi cố lê đôi chân về nhà sắp sếp vài thứ rồi vội vã vào nhà lao thăm con. Khi tôi và chồng tôi tới nơi, mẹ con ôm nhau khóc, chồng tôi sau khi hỏi han, căn dặn con tôi vài thứ anh ra ngoài để mẹ con tôi tiện việc nói chuyện. Nhìn sâu vào mắt con, tôi dùng hết sức mình hỏi nó:"Tại sao con lại làm như vậy?" Tôi muốn hỏi nó thật nhiều và thật rõ nguyên căn sự việc, song chỉ nói tới câu sao con làm như vậy là nước mắt tôi tuôn tràn, cổ họng tôi không thể nói thêm được. Thằng bé bây giờ đã ra vẻ đàn ông trả lời: "Tất cả tại mẹ, mẹ lo công việc suốt cả ngày. Tháng này qua tháng khác, con lớn lên không cha, không mẹ bên cạnh. Khi con gặp khó khăn trong cuộc sống, con không biết hỏi ai, không biết bày tỏ với ai con đành phải đi tìm bạn bè và kết quả như ngày hôm nay, con không ân hận gì hết ". Nghe con nói lòng tôi tan nát, tất cả hết rồi, đời tôi không còn gì nữa. Tôi gục xuống tất cả cho định mệnh.  

Ghi chú: " Câu chuyện này là sự thật 100%, nhưng vì để giữ hạnh phúc cho gia đình sau này, Người viết bài đành phải dấu tên họ. Nên xin quý vị đừng ngạc nhiên khi người kể chuyện là đàn bà mà người ký tên là đàn ông. Xin cảm ơn." Atlanta 1/5/03 ::: Đông Đoàn:::

HIẾU ĐỆ * VƯỜN NHÃN BÁC SĨ NGUYỄN HỮU TRÍ

 Vườn Nhãn
                                                   Bác Sĩ Nguyễn Hữu Trí
            Tôi quen thân với bác sĩ Nguyễn Hữu Trí từ ngày chúng tôi còn mặc đồ lính. Năm 1962 tôi được bổ nhiệm về Phòng Báo Chí Cục Tâm Lý Chiến chăm sóc mấy tờ báo Quân Đội cùng với các nhà văn Mặc Thu và Thanh Nam. Lúc đó, bác sĩ Trí trông coi Phòng khám bệnh của Tiểu Đoàn 50 Cục Tâm Lý Chiến và Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung ương. Thời gian này bác sĩ Trí vừa mới ra trường. Bác còn rất trẻ, khoản chừng trên dưới ba mươi tuổi. Quân đội Pháp đã rút về nước. Bác sĩ người Pháp hầu như cũng không còn làm việc ở Việt Nam. Tình trạng khan hiếm bác sĩ trong nước rất gay go.
Tính từ thời người Pháp thành lập Viện Đại Học đến nay, các bác sĩ chuyên khoa trong nước không quá ba trăm người để phục vụ cho đồng bào toàn quốc. Cũng như anh em trường Mỹ Thuật chúng tôi vừa tốt nghiệp ở Sài Gònvào  năm 1956, số họa sĩ chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Bác Trí thường nói với tôi:
- Hiếu Đệ à! Chúng ta còn phải làm việc nhiều hơn nữa. Không lẽ tụi mình phải mặc đồ lính và bị kẹt mãi cả đời trong trại như thế này sao?                                           
Tình hình trong nước mỗi lúc một khó khăn. Cộng sản miền Bắc đánh phá khắp nơi. Phật giáo xuống đường chống lại vụ đàn áp tôn giáo của chính phủ Ngô Đình Diệm. Qua đến năm sau, quân Mỹ nhảy vào Miền Nam. Chánh phủ Diệm bị quân đội lật đổ. Anh em Nhu Diệm bị giết hại. Bọn binh tôm tướng cá bên quân đội nhảy lên nắm chính quyền. Chúng tôi nhân cơ hội này chạy về phía dân sự, cởi bỏ đồ lính trả lại cho quân đội. Bác sĩ Nguyễn Hữu Trí đắc cử Hội Đồng tỉnh Gia Định. Tôi qua Phủ Thống Nhất nơi đây gặp đám bạn cũ là luật sư Nguyễn Hải Tấn và Phan Tùng Mai. Tôi xin  làm chân Công Cán Ủy Viên Văn Hóa Chính Trị. Rồi từ đó, tôi mới xin về trường Mỹ Thuật trở lại.
Theo chỗ tôi biết thì bác sĩ Nguyễn Hữu Trí sinh ở bên Tàu. Bác về nước lúc lên năm tuổi và lớn lên ở làng Bát Tràng miền Bắc. Ông thân sinh của bác sĩ Trí mang họ Mạc. Lẽ ra bác sĩ Trí là Mạc Hữu Trí nhưng lớn lên gia đình đổi là Nguyẽn Hữu Trí để lên Hà Nội thi vào trường Đại Học. Nguyên trọn cuộc đời bác sống trong hoàn cảnh chiến tranh của đất nước nên bác hằng mơ ước làm sao xây dựng lại thành một nước Việt Nam thanh bình, thoát khỏi sự chi phối của ngoại bang. Bác thực sự là một người yêu nước, yêu dân tộc.                            
Vì ta không lý tưởng
Để lòng ta vấn vương
Quanh quẩn bên yêu đương
Cho thân ta phờ phạc
Cho đời ta tan tác
Hãy tìm ra lối thoát
Cho đời ta sáng hơn
Hãy yêu lấy giang sơn
Cho tình ta rộng lớn
Không ngại nắng hay sương
Quên mình ta sung sướng
Nhân loại là tình thương.
(1958)
Bài thơ này bác làm từ ngày mới ra trường đại học năm 1958. Những năm còn ngồi ghế nhà trường, bác rất say mê chính trị. Bác là người đầu tiên thành lập Tổng Hội Chuyên Việt Nam đánh  thức tuồi trẻ Việt Nam thời đó như tinh thần bài thơ được phổ nhạc thành bài hát kêu gọi tuổi trẻ Việt Nam ở các trường đại học trong nước:
Chuyên viên Việt Nam vùng lên!
Bồi đắp non sông huy hoàng
Không phân giai cấp, không gieo hận thù
Anh em quyết chuyên một nghề
Tự mình ta sống chẳng nhờ tay ai
Dân ta tự lập
Anh em ơi! Hãy đứng lên
Muôn người như một, hãy sát cánh bên nhau
Ta cười tin tưởng ngày mai huy hoàng
Hiên ngang hãy sống, hãy làm
Ngửng mặt lên. Người dân Việt
Hiên ngang quyết tâm xây dựng
Một thế giới vui tươi hòa bình!
Mang thiên hạ ra khỏi lầm than điêu tàn
Dám nói dám làm
Đã nói phải làm
Anh em ơi! Hãy đứng lên!
Anh em ơi! Hãy đứng lên!
Hiên ngang như người
Ngày mai cách mạng lên rổi
Ngày mai chuyển hướng nơi nơi vui mừng
Không ngừng tiến lên, không ngừng tiến lên
Anh em ơi! Anh em ơi!
Không ngừng tiến lên!
(1995) 
Những năm làm Chủ tịch Hội Đồng Tỉnh Gia Định, bác sĩ Trí đã xây dựng được các lớp Bách Khoa Bình Dân dạy các ngành khoa học kỹ thuật, các lớp hướng nghiệp, mở các quán cơm xã hội cho người nghèo. Bác Trí mơ ước làm sao mỗi người dân Việt Nam có một nghề chuyên môn trong tay để đất nước mình thoát khỏi cảnh nghèo khó. Bác là con người khoa học luôn luôn hướng về cái mới, cải thiện lấy nhân nghĩa để cất cánh bay cao và tiến xa hơn.
Những ngày mang gia đình di tản sang quê hương mới, đặt chân đến Michigan giữa những mùa tuyết lạnh rất khó khăn. Bác đã tranh đấu để đứng vững và vươn lên để xây dựng cho con cái nên người. Phải nói là buổi đầu có sự tiếp tay của người vợ thật rất lớn. Một bà mẹ Việt Nam đã tạo nên một thế hệ bác sĩ thứ hai nối tiếp truyền thống gia đình và sống theo nề nếp của người cha để đi lên bằng chính tài năng thật sự của mình nhằm xây dựng sự giàu mạnh cho gia đình và cho đất nước sau này. Sau hơn ba mươi năm loạn lạc, trái đất vẫn tròn, tôi gặp lại bác sĩ Nguyễn Hữu Trí ở vùng Ngũ Đại Hồ Michigan này. Bác sĩ Trí đã nhiều lần tổ chức hội thảo chính trị mở rộng khối đoàn kết người Việt Nam tự do.
Sau thập niên 80, khối Cộng sản Bắc Âu và Liên bang Sô Viết đã sụp đổ. Bức tường Bá Linh chia cắt nước Đức cũng không còn. Tại Đại hội Y Dược Việt Nam tổ chức ở Ba Lê, Pháp, bác sĩ Trí đã đọc một bài tham luận về sức mạnh dân chủ và tiên đoán khối Cộng sản Việt Nam sẽ bị cuốn trôi theo làn sóng dân chủ của thế giới không tránh khỏi. Bác sĩ Nguyễn Hữu Trí là người đầu tiên đứng ra thành lập Ban Chấp hành Người Việt tại thành phố Grand Rapide và miền Tây Michigan. Trong những nhiệm kỳ đầu, bác sĩ Nguyễn Hữu Trí được cử làm Chủ tịch và người viết làm Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký. Bác Trí mơ ước cộng đồng người Việt hải ngoại là hậu cứ của những cuộc cách mạng dân chủ trong nước.
Trong đêm tối đã có mặt trời
Trên đất Mỹ đã có chúng tôi
Dù đang sinh sống nổi trôi
Quyết đòi công lý không ngơi
Đồng bào ơi!
Bao năm lam lũ nhọc nhằn
Đói không cơm, rét không áo, đau không thuốc
Khó khăn lâu rồi!
Đứng lên thôi! Đứng lên thôi!
Đồng bào ơi! Đứng lên thôi!
Quyết đòi công lý không ngơi
Dưới ánh mặt trời, soi sáng khắp nơi.
(1995)
Ngày nay theo trật tự toàn cầu hóa, Cộng sản Việt Nam đã gia nhập vào thương mãi thế giới W.T.O. Qua những cuộc nổi dậy của đồng bào trong nước, từ đồng bằng đến cao nguyên, lực lượng dân chủ đã vùng dậy kết nạp thành phần trẻ trong nước. Người dân không còn sợ bạo lực của đảng nữa. Trái lại, đảng đang khiếp sợ trở lại nhân dân. Bác sĩ Nguyễn Hữu Trí tiên đoán một ngày không xa Cộng sản Việt Nam sẽ bị sụp đổ bởi hằng loạt sóng thần trong nước do nhân dân vùng dậy:
Toàn dân bừng tỉnh dậy
Cách mạng như sóng thần
Dâng lên từ lòng dân  
Tràn ngập khắp nơi nơi
Quét sạch loài cỏ dại
Chẳng ngần ngại xót xa
Xây dựng lại cơ đồ
Ông cha đáng mặt người.
(1995)
Người Việt nước ngoài chúng ta không có lãnh thổ nhưng tất cả cùng một lập trường quốc gia. Chúng ta có chung một ngọn cờ vàng đã được các tiểu bang của nước Mỹ công nhận. Bác sĩ Trí gọi đó là một quốc gia Viêu Việt. Chúng ta tranh đấu ở đây có nghĩa là tranh đấu cho tám mươi triệu đồng bào trong nước. Chúng ta vì Đại Nghĩa Dân Tộc chứ không đòi hỏi một quyền lợi nhỏ nhoi nào.
Ai đã tu thân? Ai đã tề gia?
Hãy đứng lên cùng ta lập quốc
Quốc gia Siêu Việt.
Con đường Đại Nghĩa
Giúp nhân loại vui sống tự do ấm no hòa bình
Một đời cho nhân loại thân thương
Cho Việt Nam phú cường.
(03.1996)
Cuộc tranh đấu dân chủ trong nước không phải là cuộc tranh đấu của một người. Cho dầu bác sĩ Trí đã nằm xuống nhưng chúng ta vẫn còn hàng vạn người trẻ đang đi tới. Thế hệ lão niên không còn nữa thì thế hệ tuổi trẻ Việt Nam tiến lên. Trong cuộc chiến đấu ở Iraq vào những năm trước, trong đạo quân chiến thắng đánh vào chế độ độc tài ở Baghdad có một số thanh niên là con cháu của anh em cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa. Họ mang trong người truyền thống của cha anh. Chúng ta hy vọng lứa tuổi này sẽ góp bàn tay của mình trong việc gây dựng lại một nước Việt Nam giàu đẹp và dân chủ phú cường trong tương lai.
Kèn Đại Nghĩa đã thổi vang vang
Anh em ơi! Chúng ta cùng nhau lên đàng
Làm trai quyết chí hiên ngang
Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài yên
Dân ta cực khổ triền miên
Nào ai thấy cảnh thấn tiên bao giờ?
Việt Nam! Việt Nam ơi!
Ta yêu đất mẹ tuyệt vời
Ai về ta nhắn mấy lời thân thương
Quê hương! Quê hương ơi!
Có ngày ta trở lại
Tương lai rất gần.
(1996)
Thụy Vi, một thi sĩ của thế hệ đi sau nhưng cũng hưởng ứng tinh thần vì Đại Nghĩa của bác sỉ Nguyễn Hữu Trí:
Cũng muốn thắp đèn trong đêm quá tối
Cười thật tươi trong đời sống ly hương
Dựng lại niềm tin giữa cơn bối rối
Trong tình thương nở rộ khắp mười phương
Cũng muốn phá rừng xới vun đất mới
Gieo giống ươm mầm lên mảnh vườn hoang
Nhựa sống đầy như nụ non mới mọc
Đồng lúa yêu thương nặng trĩu hạt vàng.
Cũng muốn làm chim bay vào nắng sớm
Hành trình xa không mỏi cánh phiêu du
Thu ngắn đường dài bằng đôi chân nhỏ
Sống thênh thang cho bõ kiếp ngục tù.
Cũng muốn hát hò cho người tiếng khóc
Phấn đấu thật nhiều trong kiếp ly hương
Điểm phấn tô hồng cho đời rạng rỡ
Đại Nghĩa mang đến hạnh phúc tình thương.
Cũng muốn xóa đi bao đời nô lệ
Hái nụ xuân hồng ướp thắm hương hoa
Quê hương ta có lắm điều cơ cực
Cuộc sống ưu tư trong chuỗi ngày dài.
Cũng muốn xóa đi bao điều phiền muộn
Bất công, đọa đày, ngu dốt, xấu xa
Tranh sống từng giờ phồn vinh giả tạo
Nước mắt tuôn dòng, lòng vạn xót xa.
Ước mơ dân ta đồng tâm hiệp lực
Cho Việt Nam thật hạnh phúc bình yên
Cho Việt Nam không bao giờ nô lệ
Cho Việt Nam thoát ách triền miên.
Quyết tâm – Ta phải thành Nhân
Quyết tâm – Ta phải thành Nhân
Tạo hạnh phúc cho nước nhà vĩnh cửu
Mầm non gieo trên thửa đất điêu tàn.
(Thụy Vi kính tặng bác sĩ và bà Nguyễn Hữu Trí).
Cuộc tranh đấu vì Đại Nghĩa, vì lá cờ vàng, mặc dầu chúng ta đang ở nước ngoài vẫn gay go lắm, chứ không phải bình thường. Không tránh khỏi bị người Việt với nhau trong cộng đồng chụp mũ. Bác sĩ Trí không tránh khỏi bị chụp mũ là Cộng sản, là nằm vùng, là thân Cộng. Tờ báo Người Việt Michigan bị đánh phá không cho lấy quảng cáo nữa. Các chợ, các nhà hàng người Việt nào phát hành tờ báo sẽ bị hăm dọa tẩy chay. Tờ báo phải dẹp tiệm thôi. Bác sĩ Trí cũng hay than phiền là khoản tiền bảo hiểm mỗi năm một lên nhất là mỗi khi làm bác sĩ mà vấp phải những vụ kiện tụng. Mỗi vụ kiện như vậy không phải một năm là xong, có khi còn kéo dài đến ba bốn năm, sống lo lắng đến phải đau tim. Bác là bác sĩ sản khoa, giải quyết những ca sinh đẻ cũng hồi hộp lắm.
Hơn nữa tiểu bang Michigan vào mùa tuyết lạnh, mặt trời bị mây mờ che phủ. Cây cối trơ cành. Không có ánh sáng mặt trời, tim bác không được khỏe. Bác dời về thị trấn Naple, tiểu bang Florida để dưỡng bệnh và nghỉ hưu. Nơi đây khí hậu ấm áp như ở Lái Thiêu, tỉnh Bình Dương Việt Nam. Năm 1997 thị trấn Naple chỉ toàn là rừng, dân cư thưa thớt như nông thôn Việt Nam. Buổi sáng thức dậy nghe tiếng gà gáy, tiếng chim hót líu lo. Cuộc sống ở đây như một ẩn sĩ, không còn ai tranh chấp hơn thua với mình nữa. Khung cảnh rất thanh bình. Chỉ có hai mùa mưa nắng. Có điều hơi xa thủ đô Orlando của tiểu bang Florida, lái xe lên phố phải mất bốn tiếng đồng hồ. Bác sĩ Trí xây ngôi nhà ngói đỏ và bắt đầu vui thú điền viên, xin nhận nơi này làm quê hương. Bác nói làm vườn chẳng phải mua bảo hiểm nữa vì chẳng có cây cỏ nào nó kiện mình hết, khỏe re.
Bác cũng rủ tôi đi làm vườn với bác. Vì đất rừng ở đây rất rẽ chỉ có ngàn đồng một mẫu tây. Tôi nghĩ mình nay cũng có tuổi rồi đâu cần làm anh chàng tarzan ở trong rừng nữa, sống với con cháu được ngày nào hay ngày đó chẳng vui hơn sao? Đám con bác Trí xây cho bác cái nhà thật đẹp, có hồ tắm, có hòn giả sơn, có dòng suối và chiếc cầu bắt ngang.
Trong vườn ngồi ngắm cỏ hoa
Dưới nước cá lội trên cành chim ca
Ngoài kia vẳng tự đàng xa
Nghe tiếng suối đổ reo hòa với thông
Trời xanh mây trắng vẫn hồng
Làm ta lại chạnh đau lòng xa quê
Xa quê mong có ngày về
Mơ sao “Đại Nghĩa Việt Siêu” mau thành
Tuổi ta nay đã sáu tư
Mong con cháu tự theo đường ta đi
Can đảm, yêu thương, đoàn kết
Trai tài, gái sắc, thông minh, hiền hòa
Thế là sống trọn đời ta
Đi từ trái đất tiến vào thiên thai
Chẳng cần ganh tị cùng ai
Chỉ cầu nhân loại vui tươi thái bình.
(1998)
Khu vườn của bác rộng khoản năm mẫu tây. Bác trồng được hơn một ngàn cây nhãn và một số cây ăn trái. Công lao động ở đây thật rẽ, khoản hai ba đồng một giờ. Mình đến chợ người thuê người Cuba hay người Mễ về làm, chiều chở họ về trả lại chợ người. Quanh năm bác trồng rau loại ngắn hạng như rau muống, ngò gai, húng quế, bầu bí. Có nhà thầu đến thu gom cứ mỗi tuần lễ đôi lần. Bác Trí mơ ước nơi đây sẽ là một làng Việt Nam lấy tên là Hùng Vương xã. Nơi đây sẽ trở thành một làng xã như ở Đài Loan. Con người ở Đài Loan họ cũng căm thù cộng sản ở Hoa Lục. Nhưng họ chỉ lo làm ăn. Họ chỉ xây dựng thành một quê hương giàu đẹp làm cho Trung cộng phải lẹt đẹt theo sau đó là điều chắc chắn.
Nguyễn Gia Trang. Làng Việt Nam
Mang tên “Hùng Vương xã”
Tinh thần Hưng Đạo Vương
Đại nghĩa thắng hung tàn
Trí nhân thay cuồng bạo
Mang dòng giống Việt
Sáng ngời năm châu
Dù đang sinh sống nơi đâu
Về đây góp mặt
Xứng danh: con Rồng cháu Tiên
Xây nhà ngói đỏ. Với vườn cây xanh
Sống trong thanh bình. Con cháu noi gương
Tiến lên!
Trong một thế giới. Vui tươi hài hòa
Florida!
Nơi ta lập nghiệp lâu dài ai ơi.
(12.1998)
Tính đến ngày Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2003 cũng đã có hơn hai mươi gia đình người Việt Nam về đây lập nghiệp. Lúc này thị trấn Naple không còn là cánh rừng như hồi bác sĩ Trí mới đến nữa. Đất rừng ở đây người ta không còn bán cho mình với giá một hai ngàn US đô la một mẫu mà đã được nhân lên đến ba mươi ngàn đồng. Thành phố trở thành một nơi nghỉ mát rất đẹp, đã có shoping mall rất tối tân, xa lộ sáu lanes rộng lớn, phi trường mở rộng. Vườn nhãn của bác sĩ Trí xanh mướt trái nhiều, cành quằng xuống đất. Thu hoạch hằng ba bốn trăm ngàn đồng mỗi năm. Bác thường khoe với tôi vườn nhãn của bác rất đẹp như con gái mười tám. Mỗi mùa xuân, mỗi cây nhãn cho bác hơn cả trăm pounds trái nhãn.
Đây mảnh đất hoang vu đầy cỏ
Biến nó thành một chỗ vui chơi
Từ ngàn xưa mảnh đất không người
Nay dân Việt cùng nhau đoàn tụ
Mảnh đất ấy nằm vùng tráng lệ
Chờ bàn tay bồi đắp dân ta
Buổi ban đầu tuy bước không xa
Đặt căn bản cũng là trọng hệ
Dân tộc ta lưu vong bốn bể
Gặp lại đây trên đất hữu tình
Mảnh đất này sẽ có cây xanh
Có trái thắm và bông hồng rực rở
Đất tồn tại với không gian rộng mở
Chỉ tình mình vọng lại quê hương
Đất với người vương vấn tình thương
Hồn dân tộc ấm lòng thế hệ.
(K.T.S. Nguyễn Đình Thi Sarasota - Đầu Xuân 2000)
Tôi biết bác ở một mình trong rừng cũng buồn lắm nên bác thường rủ tôi xuống ở chơi với bác. Nhất là những mùa đông ở trên Michigan chỗ tôi ở mây mù và tuyết lạnh. Bác kêu tôi đi trốn tuyết ở nhà bác một đôi tháng, anh em rủ nhau phơi nắng, tắm biển đến khi Michigan trời hết tuyết rồi hãy về. Có hôm tôi đi chơi ở nhà bác Trí gặp lúc bác đi khám đầu ở nhà thương For Meiyer. Bác bảo tôi mang theo quyển tiểu thuyết ngồi đọc chờ bác đi khám. Khi ra về, bác nói mấy scane khám trong đầu bác thấy có bướu não. Họ bảo tuần sau đi mổ. Tôi lý luận với bác:
- Nếu như ngày xưa chưa có cái máy đo đó thì họ đâu có biết là mình có bướu não. Mình cũng sống được từ năm năm đến bảy năm nữa, có chết cũng chẳng sao. Bây giờ mình thử phớt lờ đi cũng được chứ gì.
Bác Trí cự nự:
- Ông là nghệ sĩ nói sao cũng được. Chứ tôi làm khoa học, thấy bệnh thì phải chữa, phải sống chết vì khoa học, phớt lờ đâu được.
Hôm đó nhân mùa Giỗ Tổ Hùng Vương có giáo sư Nguyễn Văn Canh xuống thăm vườn nhãn của bác sĩ Trí. Tối hôm đó có một buổi họp bạn thân mật có một số anh em trẻ tham dự gồm kiến trúc sư và địa ốc cùng các ngành xây dựng. Họ phác họa chương trình phát triển mở rộng thị trấn du lịch và thương mãi của người Việt Nam ở Naple. Các chuyên viên trẻ dĩ nhiên họ làm ăn mạnh bạo hơn mấy cụ già. Họ có thể vay bạc triệu từ các ngân hàng để xây dựng thành phố. Nhưng dù sao bác sĩ Nguyễn Hữu Trí vẫn là người mở đường đi trước. Qua ngày sau, chúng tôi kéo nhau về Orlando thì nghe tin bác Trí đi giải phẩu bướu não. Bác đi luôn trong ca mổ.  Bác vẫn lạc quan như những phi hành gia trong chiếc phi thuyền Chalenger khi về đến gần trái đất.
Hôm nay làng Hùng Vương lớn mạnh thành một đô thị. Vườn nhãn vẫn đơm bông kết trái, chim vẫn hót, hoa vẫn nở nhưng bác sĩ Trí không còn nữa. Bà vợ của bác sĩ Trí từ nay không dám sống đơn chiếc một mình ở trong rừng. Bà bán vườn nhãn trở về ở với con cháu trên tiểu bang Michigan.

                                                                                                                       Hiếu Đệ

Thursday, June 15, 2017


NGUYỄN VĂN SÂM * CA DAO TẬP TÀNG

Ca Dao Tập Tàng

06/06/201717:18:00(Xem: 562)
Nhăn mặt nhịn đau nhích cái chưn sưng bị treo gá ngỡi giữa hai cây giăng mùng, chú Tư Trích chép miệng: “Thiệt tức, ban đầu có chút híu bây giờ tầy huầy như vầy thì cực còn hơn Thủ Huồng bị đọa, muốn trở mình chút đỉnh cho đở mõi mà có được đâu. Nằm lâu, chuyện vệ sinh tắm rửa lần nào cũng trần thân muốn khóc… Giống như dao cùn, dao mẻ chờ giờ bị liệng đi.” Chú bặm môi cố gượng trở mình, nhưng mới nhúc nhích chút đỉnh đã cảm thấy đau thấu mây xanh bèn nằm yên, trí nghĩ bâng quơ về quá khứ.
Có thói quen nếu bảnh mắt dậy mà thấy trời rọi chút yến sáng là Tư Trích tốc mùng đi đếm số bông bí trong vườn. Bữa nào hể đếm được chừng độ bốn năm chục bông là chú mừng quýnh, hí ha hí hửng đi một vòng vườn rồi mới trở vô nhà tiếp tục làm chuyện gì đó đợi tới chừng 8, 9 giờ xách rỗ ra vườn cắt bông bí đem vô khoe với vợ. Vừa cắt, Tư Trích vừa ngâm nga nho nhỏ, thường là bắt đầu bằng câu đã có từ lâu: Mẹ mong gã thiếp về vườn. Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh
Ngâm đã rồi chú phụ đề như là có người kế bên. Không có sẵn dưa hường, nấu với dưa chuột tôm khô hay cá diêu hồng cũng hết xẩy vậy bây! Có bữa hứng chí chú ư ử mấy câu tự mình ứng khẩu: Bông bí vàng tươi như đời em thắm. Ăn bông bí nhiều không tắm cũng thơm. Rồi chú liếc mau vô nhà nghĩ thầm: Em không tắm mà da em cũng thơm mùi xà bông Cô Ba là cái chắc! Rực vàng bông bí sau vườn. Thương em không dám leo tường cũng leo. Ờ, mà em chịu đèn thì tội gì không leo qua! Ngu sao! Hay Bông bí vàng lườm trong chùm xanh lá. Anh ngắm em hoài sợ má em la. 
Con gái người ta mà ngắm hoài chết duyên còn gì cha nội! Mấy ý bậy bạ nầy chú bị vợ háy nguýt hoài mà không chịu bỏ, vẫn lẫm nhẫm rồi tủm tỉm cười một mình. Chú giải thích với bà vợ ù ù cạt cạt của mình: “Mình biết không? Phải ăn bông bí nhiều thì người mình mới có hương thơm. Ăn nhiều là yêu bông bí vô vàn, sự yêu thích đó khiến cho mùi hương của bông bí có cơ tỏa ra lại khiến người mình được thơm tho.” Thím Tư chỉ buông tiếng ‘Vậy hả?’ rồi tiếp tục làm công việc của mình, ngại hỏi dần lân láng cháng ổng nổi máu Ca Dao lên thuyết giảng thì chặt hổng đứt, bứt hổng rời, hết buôn hết bán buổi sáng.
Vậy mà buổi sáng đó khi chồm vói vô một sợi dây bí rợ bò hơi xa, chú Tư trợt cẳng vấp vô đâu đó một cái quá mạng. Gần sứt móng ngón chưn cái luôn. Trét vô chút xíu dầu gió xanh, xé lấy miếng giẻ rách cột lại, tưởng vài bữa là yên chuyện. Ai dè!
Ngó qua hàng hiên nhà trước mặt, chất đầy mít, đu đủ trong khi khách hàng lựa lựa người chủ điềm nhiên ngồi chích thuốc thúc chín vô cuống bất cứ trái mít nào còn xanh, chú nói:
“Thằng Dần bên kia biết kiếm tiền ha, tiếc là mấy tháng nay tôi nằm bẹp như người bụng bí đao làm biếng.” Rồi chú ngâm nga: “Bụng dài như trái bí đao. Nằm không ăn mãi ruộng sào cũng bay.”
Chú vừa ngâm vừa đưa tay quạt quạt lia lịa vì thím Tư vừa mới đốt nhang trên một hàng bốn cái trang thờ trong nhà, trang nào thím cũng đốt ba cây thành ra khói mịt mù, chú chảy nước mắt, ngứa mũi, lại khó thở rồi ho sặt sụa. Chú đổ quạu:
“Mình muốn giết tui thì nói đại đi chớ nhang mà đốt như ung khói, nhà lại không mở cửa sổ, kín như hủ nút thì chết người trong nhà chứ chết ai!”

Biết lỗi mình, thím Tư lật đật đi mở banh hết mọi cánh cửa phía trước, phía sau, gắn quạt máy ở gần chỗ chú Tư nằm…
“Không biết sao mà lúc nầy nhang có khói nhiều quá.” Chị vợ nói như để chữa tội mình.”
“Thì lúc nầy họ làm nhang bằng mạt cưa trộn acít nầy acít nọ cho có lời lại tẩm hương liệu bậy bạ nên khói là khói acít, hưởi nó hư phổi hư tim mà hơi vô mắt thì trước sau gì cũng mờ mờ, cườm nước, cườm khô mau mọc lên thôi.”
 Chú dòm lên dãy trang thờ, ra lịnh cho vợ:
“Mình hạ mấy dĩa cam xuống đi, nằm đây ba tháng rồi mà mấy trái cam đó không thúi thì mình biết đó! Cam tẩm ắp lẵm hóa chất mới vậy, dục đi, để trong nhà hơi nó bay ra không tốt đâu mà.”
Thím Tư lại bắt thang lên đem mấy dĩa cam xuống. Thím tiếc của xăm soi từ trái từ trái, ý chừng muốn giữ lại, Tư Trích nhướng mắt thấy bèn lên lớp vợ:
“Tui biểu mình dục là dục, bộ tui không biết tiếc của sao chớ, nhưng mà cam nầy từ Trung Quốc qua, nó tẩm thuốc giữ cho khỏi hư thúi nên độc lắm, ăn vô chẳng biết có bổ béo gì không nhưng chắc chắn là có thêm một chút hóa chất tích tụ vô người mình, về sau không phát bịnh nầy cũng sanh bịnh nọ.”
Thím Tư quày quả đem mấy trái cam ra vườn bỏ gom dưới gốc cây vú sửa để làm phân. Tư Trích dòm theo, biết ý vợ, muốn thuyết thêm nữa, nhưng ngại bị cho là mình nói nhiều nên chép miệng làm thinh nằm nhắm mắt.
Bỗng Tư Trích giựt mình đánh thót gần như muốn ngồi bật dậy khi nghe tiếng ngã rầm tiếp theo là tiếng loãng xoãng của chai lọ bể, tiếng rên nho nhỏ của thím Tư. Thì ra do kê cái thang bất ý sao đó thím bị thang ngã, bể hết mấy cái bình bông quí của chú.
Chú nói như hét:
“Bà làm bể hai cái bình bông quí của tui rồi phải không? Biết mà! Không coi trước coi sau!”
Không nghe tiếng vợ trả lời chỉ nghe tiếng rên nho nhỏ “Đau quá! Đau quá!” chú hơi dịu lòng lại rồi chú nói sau cái chép miệng:
“Vái trời cho bể cái lư hương với mấy cây đèn dầu, không bể hai cái bình bông cổ vật của tôi. Hai cái đó quí lắm, có tiền triệu cũng mua không được đâu!”
Vợ chú làm thinh. Vài phút sau chú thay đổi giọng, nói với vợ bằng lời âu yếm:
“Mình có sao không, tội quá, tôi không ngồi dậy được để đở mình. Mình ngồi xuống đây, tôi kể chuyện nầy cho nghe. Chuyện của tôi hồi nhỏ…”
Cha tôi đau nặng. Ông bị bịnh suyển mấy năm rồi, khó thở, thường ngũ chồm hổm đầu cúi xuống, cong mình như con tôm, nói rằng như vậy hai lá phổi của ông trải ra, dễ thở hơn. Tôi, thằng bé mười tuổi, ham ngủ nhưng thường phải ngồi kế bên cha, ngủ gật gà gật gù mà tay thì cầm cái quạt mo quạt liên tục cho ông có đủ không khí để thở. Thỉnh thoảng cha kêu uống nước, tôi phải để quạt xuống, mò dưới chưn bàn cái vỏ chai nước mắm nhĩ Phú Quốc dùng để đựng nước chín, rót cẩn thận vô tách đưa cho ông. Tánh ông khó, rót nhiều cũng bị la, mà rót ít ông uống không đủ cũng bị rầy. 
Chai đẹp thiệt tình, màu xanh nhè nhẹ, trong suốt, hai hàng chữ trắng Nước Mắm Nhĩ Phú Quốc, Thượng Hạng in khắc chạm mờ mờ thay vì được dán nhản như tất cả loại chai nước mắm rẻ tiền khác. Mắt người cha theo dõi từng cử chỉ của thằng con. Cái chai trở nên thiệt nặng trong tay tôi. Tôi rót run tay vì biết rằng cha mình quí cái chai đó lắm, rớt bể chai chắc no đòn.
Hôm đó, tôi nhớ buổi chiều Thứ Bảy, tan trường, hớn hở cầm tấm Bảng Danh Dự về đưa cha ký tên, tôi được xếp trong năm trò học giỏi nhứt lớp tháng nầy. Cha nhìn tôi bằng ánh mắt thương yêu và hãnh diện, nói: ‘Con phải học giỏi hơn con Liên mới được nha.’ Tôi không hiểu tại sao ông nói hơn con Liên mà không nói hơn những đứa khác trong xóm như con Liễu, thằng Đực, con Bê, con Bưởi, thằng Thìn, thằng Tỵ…. Liên là con bà chủ nợ, nó học một lớp với tôi nhưng chúng tôi không chơi với nhau vì Liên là con gái nhà khá giả, đã biết làm điệu, đã biết phân biệt giàu nghèo. 
Ba nó làm thầy phạm nhe, chuyên môn thích thuốc theo toa bác sĩ, má nó là cô giáo mở trường dạy mẫu giáo trong xóm, bà lại sống phụ thêm bằng nghề cho vay. Cứ hai ba ngày con Liên qua nhà tôi một lần để đòi tiền góp, mỗi lần gặp mặt tôi nó đều giả lơ như không biết tôi, không thấy tôi, chỉ nói chuyện với ba, má tôi mà thôi. Hồi chiều nay nó cầm một tờ giấy biên dài sọc mấy chục hàng số nói rằng má nó cộng lại thấy nhà tôi thiếu tiền góp với tiền hụi ngày hơn tháng nay, nhiều quá rồi, phải kiếm cách trả không thôi má nó sẽ qua nói chuyện phải quấy. Cha tôi nghe tới chữ chuyện phải quấy thì làm mệt, kéo đàm chặn cổ, năn nỉ nó đi về, hứa rằng sẽ kiếm tiền trả dứt dạt khi ông bớt bịnh, rồi ông đưa cho tôi cộng lại bản tiền nợ. 
Tôi khám phá ra sai số mấy trăm đồng, con số thiệt là lớn thời đó. Run run tôi ngồi cộng tới cộng lui thiệt nhiều lần để chắc chắn rằng mình cộng đúng. Cha tôi vui mừng vì sự khám phá đó của tôi, ông nói vậy là con học giỏi hơn con Liên thiệt tình. Nó cộng sai, con đã bắt được lỗi của nó. Cha đưa tay xoa đầu tôi. Cử chỉ hình như lâu rồi không có. Được cha khen, tôi ngồi thẳng lưng trên ghế, chưn đánh đồng xa, mắt sáng rỡ, thoải mái. Chẳng dè chưn đưa quá trớn, đá bể cái chai nước mắm Phú Quốc của ông. Cha tôi nghe tiếng chai bể, ông xuýt xoa: ‘Vái Trời cho bể chai khác, không bể chai nước mắm nhĩ. Chai đó quí lắm! Khó kiếm.’ Tôi run run dọn dẹp, nói sự thật với cha trong tâm trạng chờ đợi sấm sét. Cha tôi chỉ thở dài: ‘Thôi bể rồi thì thôi, con phải rán học giỏi hơn con Liên hoài hoài mới được!’
Đó là một trong rất ít lần tôi làm bể vật gì mà không bị cha đánh đòn. Nhà nghèo mà, mình biết đó, nghèo thường hay tiếc của.
Sau nầy lớn lên mỗi lần thấy chai nước mắm nhĩ tôi đều nhớ đến gương mặt với giọng nói xuýt xoa của cha: ‘Vái Trời cho bể chai khác…’
Ôi nhà nghèo, cái ước mơ nhỏ nhoi sao mà quá lớn!”
Tư Trích ngừng kể, ông thấy giọt nước long lanh trên khóe mắt của vợ.
“Té ra hồi nảy tôi không bị chưởi như tách nứa giống mọi lần vì mình liên tưởng tới câu nói của ba trước đây. Câu nói vái Trời của mình với câu vái Trời của ba mấy chục năm trước sao mà giống!”
Tư Trích cười xẻng lẻng bằng câu ca dao ứng khẩu: “Giống nhau vì bởi chữ nghèo. Cha con đều vái, eo sèo chi em?” Hồi nảy tôi dằn cơn giận xuống, nén cái lòng tiếc của vì thấy mặt nhăn nhó đau đớn của mình, như là hồi xưa ba tôi dằn lại là vì tôi đem tấm Bảng Danh Dự về, và tôi đã cộng sửa lại bớt được số tiền thiếu nợ.”
Thím Tư vói tay rờ rờ cái chưn đau của chồng, cười cười.
 Tư Trích kéo vai vợ ấn ngồi lại thêm với mình khi thấy vợ dợm cẳng đứng dậy:
“Trời còn sớm, mình ngồi nán lại chút nữa để tôi kể chuyện khác cũng có liên quan đến cái nghèo ngày xưa, nhưng chuyện nầy vui hơn nhiều.”
 “....Đứa em gái tôi cả tuần nay bị bịnh nằm thiêm thiếp. Tôi rờ tay em thấy nóng, rờ trán em còn nóng tợn hơn. Cả nhà ai cũng lo. Bà ngoại lui cui nấu cháo thịt bằm cho em nói là ăn cho đổ mồ hôi mau hết bịnh. Em không ăn, chỉ húp nửa muổng cháo lỏng rồi để đó, thiêm thiếp trở lại, tô cháo chơ vơ, bốc khói trên bàn. Ẩn hiện dưới lớp cháo là những miếng thịt bằm trộn tiêu hành, gừng và nước mắm… mời gọi tôi. Thèm quá đổi, nước miếng ứa ra. Bao nhiêu năm rồi đâu được ăn cháo thịt bằm đâu. Ngó tô cháo mà tôi tưởng tượng ra được mùi thơm của tiêu, mùi cay của gừng, mùi béo béo của thịt được bằm với nhiều thịt nạc, chỉ có chút ít mở đưa trơn. Tôi bị tô cháo cuốn hút nên quanh quẩn bên giường em hoài. Nhiều lần em mở mắt ra thấy tôi vẫn lẩn xẩn kế bên, em hỏi giọng yếu ớt: ‘Bộ anh thương vì thấy em bịnh hả?’ Tôi không trả lời, trí óc và cặp mắt bận ngó chăm chăm vô tô cháo, thèm thuồng. Em nói: ‘Anh ăn cháo giùm em đi, em không đói.. .’ 
Tôi chỉ đợi có bao nhiêu đó thôi, kéo tô cháo tới gần, vừa ăn vừa nói: ‘Anh muốn được bịnh để được ăn cháo thịt bằm, bao nhiêu năm nay nhà mình đâu có ăn cháo thịt đâu.’ Em cựa mình nằm nghiêng để nhìn rõ tôi hơn rồi chậm rãi nói:
‘Em sắp chết rồi, anh có thương em khi em chết không. Thầy Năm Chích ba con Liên nói chiều nay chích một mũi nữa mà không hết bịnh thì ngày mai em chết. Em buồn quá vì phải xa ngoại, xa cha mẹ và hai anh.’
Tôi buông muỗng, đẩy tô cháo dở dang ra xa nói không ăn nữa. Em ăn cho có sức mau lành bịnh, đừng tin Thầy Năm Chích nói bậy bạ. Em nài nĩ tôi ăn hết tô cháo giùm, nói rằng anh thèm thì cứ ăn, em thích thấy anh ăn ngon lành như vậy. Em sắp chết rồi đâu cần ăn uống gì nữa, anh ăn đi để Ngoại vô rầy em.
Không đợi biểu tới lần thứ hai, tôi kéo tô cháo về, húp rồn rột ngon lành. Mồ hôi tuôn ra như tắm. Em mỉn cười vui héo hắt miệng méo xệch.
Có tiếng xe máy thắng rít trước nhà, giọng Thầy Năm Chích hớt hơ hớt hãi:
‘Có ai trong nhà không, nhớ là đừng cho con Lùn ăn gì nha, ban cua lưỡi trắng mới lộ tức là thương hàn nhập lý, cho ăn là lủng ruột chết liền đó. Hồi sớm mơi đi gấp quá quên dặn, không biết nhà có cho nó ăn gì chưa. Ăn rồi là kẹt lắm. Chạy thuốc không kịp đâu. Tức quá, hỏng biết sao chuyện quan trọng như vậy tôi lại quên lửng đi…’
Bà Ngoại dưới bếp tất tả đi lên, khi ngó thấy cái tô không trơ vơ bà bù loa trong nước mắt:
‘Tôi nấu tô cháo thịt bằm… Chết cha, nó ăn hết rồi. Tôi giết con Lùn rồi!’
Tôi tủm tỉm nói:
‘Con ăn đó ngoại, tại con Lùn nó hổng ăn chớ bộ.’
Bà Ngoại ngượng ngịu cú đầu tôi, chửi thương:
‘Tổ cha mầy, lại dụ ăn em. Để rồi Ngoại cầm đôi bông mù u của Ngoại nấu cho mầy nguyên một nồi cháo thịt ăn tràn họng hết thèm, bỏ tánh dụ ăn của em.’
Năm đó tôi lên mười một, chưa bao giờ trong nhà thấy được một bữa cơm ngon từ khi tôi biết nhớ!   
Dụ ăn cũng có cái hay. Cứu em khỏi chết, thằng nầy có công. Đó là câu mà sau nầy khi hơi lớn hơn một chút tôi thường đọc lên để đùa với ngoại. Tội nghiệp ngoại nghe tôi đọc như vậy chỉ cười hiền, không nói được lời gì. Mà mình thấy tôi có công không, nếu không dụ ăn của em thì nó đâu sống tới bây giờ.”
Thím Tư thấy chồng vui cũng vui lây, đưa tay rờ rờ lần nữa chỗ cái bàn chưn sưng băng vải của chồng ra điều lo lắng.
“Không biết chừng nào mới hết bịnh đây. Thấy ông nằm hoài cũng tội nghiệp. Thôi để tôi ra vườn coi có miếng rau cỏ nào hái vô nấu bậy một nồi canh.”
Được dịp trúng tủ Tư Trích nói mau:
“Ờ! Bà hái nhiều nhiều nha, rau tập tàng thì ngon, cũng như con tập tàng thì khôn.”
Thím Tư đứng dậy lấy ngón tay xỉa mạnh vô mũi chồng:
“Cũng cái giọng đó không! Hồi đó mỗi lần đi ngang nghe ông nói câu đó là tôi về khóc hết nước mắt. Dấu cha dấu mẹ thì được mà dấu thiên hạ ngoài đường sao khó quá. Mà không hiểu sao hồi đó tôi lại ưng ông để ông biến thằng con tôi thành thằng con tập tàng, bữa nào cũng thêm chưn thêm tay bắt mệt!”
Tư Trích cười xẻng lẻng nhìn gò má già mà còn thẹn thùng của vợ, bỗng chú hít hít mũi đánh hơi rồi la lớn:
“Chết cha! Nghe như mùi hủ rượu thuốc rắn hổ mang của tui bị đổ bể! Mình coi lại coi. Vái Trời cho đổ rượu chút đỉnh mà không bể hủ! Cái dòng rượu thuốc hổ mang ngâm sáu tháng tốt lắm, uống đã hết nhức mình mà trên biểu đâu dưới nghe răm rắp, không cãi.”
Người vợ cười hề hề:
“Bể cha nó rồi còn ở đó vái với cầu. Rắn hổ mang cái khỉ khô họ. Ba con rắn nước, tụi nó xẻ một đường dọc chỗ cổ rồi banh ra làm bộ như rắn hổ mang để gạt thiên hạ. Hổ mang nào mà đủ cho đám đàn ông mấy ngài ngâm năm nầy qua năm khác…” 
Để ăn mừng chưn mình hết đau, Tư Trích làm một bữa tiệc nhậu bĩ bàng với vài ba người hàng xóm. Rượu lừng lừng Tư Trích triền miên:
“Hồi đó tôi làm biếng học thuộc lòng lắm, ông thầy Quan, dạy Việt Văn cắc cớ thường bắt tụi tôi học từng đoạn từng đoạn văn xuôi dài mà ổng ưng ý. Tui ba gai, thà bị zéro chứ không thèm học thuộc lòng bất kỳ đoạn văn nào. Tới chừng ổng bắt học thuộc 50 câu ca dao thì tui nghĩ ra cách chơi trát ổng. Tui nặn óc đặt trước ở nhà mấy chục câu và cá với tụi bạn là ổng sẽ không dám nói tôi đặt tuồng bụng.
Quả thiệt y chang như vậy,  tới chừng làm bài thi Đệ Nhị Lục Cá Nguyệt, môn Việt Văn của thầy Quan tôi về nhứt nhờ những câu ca dao trời thần của mình. Đâu ai thuộc hết ca dao đâu, cho nên gặp câu lạ ông thầy cứ làm thinh như mình đã biết, không gạch đỏ xanh gì hết là con đường khôn ngoan nhứt.
Trò chơi đó cho tới bây giờ tôi kiếm tiền nhuận bút hoài hoài bằng những bài xào đi kho lại như Tình yêu qua ca dao, Người phụ nữ trong ca dao, Tình huynh đệ trong ca dao, Tình quê hương trong ca dao, Ca dao như là cách chơi chữ, Cách ứng xử của người Việt qua ca dao, Sản phẩm địa phương qua câu hát… Cứ như vậy mà tôi làm tới. Bài nào cũng chỉ có một vài câu thiệt đã có trong sách vỡ, kỳ dư là giả, ở trong bụng tôi ra hết. Tôi đặt tên mấy câu mới sanh nầy là Ca Dao Tập Tàng.  Tập Tàng là lượm chỗ nầy một chút chỗ kia một chút góp gom chung lại. Góp của tôi là góp ý và cách làm theo thể tỷ với thể hứng..”
Thực khách coi bộ lơ là không muốn nghe. Có người quậy hơn trong khi chủ nhà huyên thiên nói ông ta rót rượu mời người kế bên vô vô lia chia, ngậu xị.
“Tài vặt đặt ca dao của tôi giúp tôi sau nầy được chọn vô tổ văn hóa, tuyên vận của phường,  tôi lo bóp óc nặn ra câu nầy câu nọ cho những chiến dịch của phường. Bù lại họ để yên không bắt đi Kinh Tế Mới. Được vài ba năm thì họ mời về, cám ơn mình, lúc đó nhiều khi vừa tủi thân vừa tức cười khi nhận được những bức thơ vận động đi Kinh Tế Mới do mình thảo ra hay những câu ca dao thúc giục do mình sáng tác trước đây…  Tài viết Ca Dao khiến tôi đụng được bà nhà tôi, khiến tôi không lúc nào đói, nhưng cũng nói thiệt nó làm tôi nặng lòng hơn hai chục năm nay!”
Thím Tư thấy chồng nói nhiều , nháy mắt ra hiệu nhưng chú Tư Trích cứ thao thao:
“Hồi còn chiến dịch Thủy Lợi tôi đặt câu hơi nặng: Thằng Trời đứng lại một bên. Để cho Thủy Lợi đứng lên làm Trời. Nói nào ngay, ban đầu thì tôi nói Ông Trời, mấy ổng bàn ra tán vô thét rồi đổi thành Thằng Trời. Mình cũng không dám cãi. Thế là cái câu mạnh mẽ, ngang tàng, coi Trời như không kia đi khắp mọi nơi có làm thủy lợi.
Sau nầy khi hết làm việc, ngẩm nghĩ lại, tôi thấy mình dại. Hơn hai chục năm nay cứ mang mặc cảm mình ngỗ nghịch với Trời vì một chuyện chẳng ra gì. … Chứa để mặc cảm tội lỗi trong lòng, thét thành tâm bịnh, tôi mất đi cái hoạt bát ngày xưa, thêm đau bao tử và trầm cảm. Gần đây bị thêm cái ung lớn trên bàn chưn tưởng là không thể hết, tôi cho là biến tướng của mặc cảm tội với nghiệp mình đã tạo trước kia.”
Có tiếng một thực khách vồm vàm hỏi theo giọng dân nhậu:
“Rồi sao lại bỗng nhiên hết đi, Tư Trích nói không xuôi là bị phạt ba ly đó nha!”
“Con người mà, đâu ai là không bất toàn. Quá khứ đã có cái bất toàn thì làm sao sửa được? Mặc cảm chỉ làm cho mình hết còn là mình. Tôi tỉnh ngộ, tôi nghĩ đời mình lỗi,xấu chẳng nhiều nhỏi gì. Tại sao không nhìn trên đại thể để thấy rằng mình tốt, để ý chi cái xấu nhỏ chẳng đáng kể, chỉ như một vết đen trên tờ giấy trắng thôi. Trong tương lai mình lo phát triển tánh tốt thì có ích lợi hơn tối ngày ngồi đó nghiền nát hồn mình trong mặc cảm tội lỗi xa xưa.
Vậy là chừng một tuần sau tôi hết bịnh. Cái chưn lành như được xức thuốc tiên. Tôi lại vui đời. Tâm ủ ê mặc cảm Thủ Huồng bị phạt tiêu tán không để lại chút dấu vết nào.”
Bạn nhậu nghe lọt lổ tai, cùng reo hò hoan hô vô cạn ly rần nhà.
Thằng con Tư Trích đi đâu vừa về, dựng xe ngoài sân, bước vô nhà như gió lốc, không cần chào ai, nói không kịp thở:
“Chúa Nhựt nầy biểu tình không được. Họ dựng nhiều chốt quá, lềnh khênh đâu của thấy họ, lại còn bắt nguội tuốt ngoài xa như mình là ăn cướp không bằng! Thôi tuần sau tính!” Nói xong nó lũi vô nhà sau, dáng buồn bực mệt mỏi.
Tư Trích giơ cao ly rượu về phía vợ, con mắt mặt nháy nhó trao đổi gì đó trong khi ngâm nga ứng khẩu:
Rau tập tàng thì ngon,
Con tập tàng thì khôn[1],
Văn tập tàng thì hay.
Con ơi, lấy phải làm nền,
Lấy nhơn làm gốc mà đền nước non.
Thiếm Tư đứng dậy cái rẹt, nói nho nhỏ:
“Thằng con tập tàng ngày xưa ổng thêm tay thêm chưn sao mà giống ổng hịt, chuyện nhà thì nhác, chuyện chú bác thì siêng! Rồi đây sẽ khổ, tôi lại phải đi lên đi xuống nuôi tù!”  
Tư Trích hiểu thái độ dùng dằng của vợ. Chú ngó theo bước đi của thím, mỉn cười bao dung. Bạn đồng tiệc vẫn triền miên trong ồn ào ly chú ly anh. Chú gắp một miếng gì đó cho có chừng, bỏ ơ hờ trong chén rồi chống đũa mơ màng. Xưa mình từng ăn lựu đạn cay, giờ con mình cũng thế thôi, có khác gì đâu nà. Chuyện trần gian nầy xoay qua xoay lại cũng từng bao nhiêu thứ như gió sớm, mưa chiều, sương khuya, nắng quái. Nhân quả luân chuyển, tất cả đều là vô thường. Đời nào cũng có cái sai đúng tương đối của thời nấy. May mà mình vừa hiễu được điều đó để rủ bỏ mặc cảm oằn nặng bấy lâu nay.
Và Tư Trích thoải mái nhập tiệc, lòng thảnh thơi như chưa từng bao giờ được như thế. Nắng chiều ngoài sân thiệt là đẹp dưới măt chú Tư.
Victorville, CA, Sept. 18-25, 2011
(Trích tập truyện Quê Hương Vụn Vỡ, Viện Việt Học CA xuất bản, 2012)

VÕ KỲ ĐIỀN * HẢI ĐẢO BUỒN

Hải Đảo Buồn Lâu Bi Đát

13 Tháng Tám 201012:00 SA(Xem: 339)

Quí độc giả có thể tìm được một phần hình ảnh vui buồn, hy vọng, thất vọng của những người Việt đã chấp nhận tất cả, kể cả mạng sống, để có được Tự Do.

Tôi còn đứng ỳ ra trên boong. Đảo Dừa chỉ còn là một khối xám nhạt ở chưn trời. Trời thì cao xa thăm thẳm giáp mí với sóng nước gờn gợn xanh ngắt một màu. Nắng sáng rực rỡ loang loáng trên mặt biển xanh. Ba chiếc ghe Mã lướt sóng phăng phăng chiếc sau nối đuôi chiếc trước chạy một dọc thẳng hàng. Không còn gì hết, tôi thẫn thờ ngồi xuống một bên be ghe. Nắng nóng như thiêu như đốt, ghe lại không có mái che nên chỉ trong chốc lát, nghe như muốn bốc khói. Phải kiếm một tờ báo, một cuốn vở học trò để che cho đỡ nóng. Ghe còn rất mới. Sớ gỗ còn tươi nước sơn. Đinh vít chưa có dấu rỉ sét. Trên boong và trong khoang đều rất sạch sẽ, đồ đạc xếp ngăn nắp chỉnh tề. Có điều rất ngộ là Mã Lai là xứ nóng mà từ tài công đến thủy thủ đều mặc âu phục, quần dài và áo tay dài cài khuy. Họ nói được những câu tiếng Anh thông thường. Những đợt sóng lớn chồm lên, nước văng tung tóe, ghe lắc lư mạnh. Chiêu ói đầu tiên, mặt xanh xám, rồi như bắt chước nhau, thằng Dân gì đó, Sơn ói liên tu bất tận. Phía bên kia, vợ Quách Linh Hoạt cũng ụa liên hồi, mấy đứa nhỏ ngồi bu xung quanh mặt mày bơ ngơ báo ngáo. Duyên cũng bắt đầu váng vất, nàng bèn bồng Bi lên phòng lái ngồi chung với mấy người già yếu. Trên đó có mái che và trải chiếu. Bi nằm ngủ ngon lành...

Ghe đi dọc theo bờ biển Mã Lai. Nhìn lên bờ về hướng trái thấy núi non xanh đen trùng điệp nối tiếp nhau không dứt, bát ngát mênh mông. Đúng là xứ của núi cao rừng sâu. Ghe có lúc đi gần bờ, tôi rán nhìn thấy được những cao ốc, dinh thự của một thành phố lớn y như một thành phố Âu Mỹ lẩn khuất trong những rặng cây xanh. Có phải đây là Kuala Trengganu mà người ta thường nhắc tới? Những trụ điện cao thế băng ngang qua đồi núi, lẩn khuất len lỏi trong rừng sâu... Ghe vẫn nổ máy giòn giã tiếp tục cuộc hành trình dằng dặc.

Một anh thủy thủ buồn tình lấy dây câu ra câu cá. Đó là một miếng ván nhỏ hơi dài hình chữ nhựt dùng để quấn dây. Lưỡi câu lớn có cột một chùm lông gà trắng. Dây câu được tuôn ra hằng trăm thước bề dài, kéo lướt trên sóng. Vì ghe chạy quá nhanh nên nó không chìm xuống được. Tôi nhìn cái nhóm lông gà trắng lẫn trong bọt sóng mong có một con cá rượt theo đớp mồi. Sợi dây câu lớn bằng cọng bún, chắc dành để câu cá lớn, giữa biển khơi đâu có cá nhỏ... Ngồi chờ hoài không thấy cá, anh chán nản để dây câu móc vào be ghe, đứng lên mở nắp hầm dưới khoang lấy ra những xắp màn ny lông dầy màu xanh nước biển, quảng cáo với chúng tôi, “Ở Bidong cần loại này để che nóc lều, qua đó mua mắc lắm, bây giờ anh bán rẻ cho.” Mời mọc hoài cũng chẳng ai mua.

Cá cũng không cắn câu mà hàng cũng không ai mua, thua buồn anh ngồi xuống lấy thuốc ra hút. Lúc đó từ trong khoang bước ra một người dân sự độ bốn mươi tuổi, có mang súng cồm cộm bên hông. Cũng giống như bất cứ anh công an nào, anh ta nói úp úp mở mở mình không phải là công an. Anh ăn mặc chải chuốt, nón trên đầu, giày dưới chưn, khăn vắt túi, dây nịt khoen vàng, viết vắt ở túi, viết cầm tay ghi ghi, chép chép. Đúng là một nhơn vật quan trọng. Ghi chép hồi lâu chừng cũng chán, anh ta móc túi lấy ra một cọc tiền Mã Lai dầy cộm, đếm đi đếm lại. Tụi tôi trố mắt ra nhìn. Mấy ngón tay anh lanh lẹ hết sức, lật tờ giấy bạc kêu xoành xoạch. Tay này mà chia bài gian lận thì ai nhìn cho kịp... Xong màn biểu diễn, anh gạ tụi tôi có đồng hồ bán anh mua. Chiêu đương cần tiền vội cởi ngay cái đồng hồ cũ đang đeo. Mới có một tháng đi biển, cái đồng hồ tuy còn chạy nhưng xác xơ. Hơi nước đóng mờ trên mặt kiếng, nước mặn ăn loang lổ vỏ ngoài. Vài ba người Tàu cũng đưa ra vài cái. Anh công an coi tới coi lui rồi chê. Anh đòi các hiệu nổi tiếng như Oméga, Seiko, Orient... Chiêu tưởng là không bán được tính đeo lại nào ngờ nó lại chịu mua, trả giá mười đồng. Tất cả những cái khác nó đều mua hết...

Ghe đi được ba tiếng đồng hồ thì Bidong hiện ra trước mặt. Giữa biển cả sóng gió chập chùng một hòn đảo nhỏ xanh rì nổi lên chơ vơ, hiu quạnh. Có một đảo nhỏ bên cạnh nép kế bên như con rùa con bò kế bên con rùa mẹ. Pulau Bidong lớn hơn đảo nhỏ này nhiều nhưng so với Kapas thì Bidong nhỏ xíu. Từ đây nhìn vào bờ không còn thấy những rặng núi xanh xanh, dầu chỉ là lờ mờ. Chỉ còn trời và nước. Nó xa cách đất liền, trơ trọi giữa biển khơi. Cũng giống y như Côn Đảo của Việt Nam mình!

Mọi người xúm nhau mà ngó. Bidong đây rồi. Cái nơi tìm kiếm trên cả tháng nay. Nắng lúc năm giờ chiều vẫn còn chói chang. Niềm hân hoan của mọi người trên ghe cũng như ánh nắng lung linh trên sóng. Gần một tháng ở đảo vắng xa cách hoàn toàn thế giới bên ngoài, bây giờ được gặp gỡ nhiều người, biết được nhiều việc, tiếp xúc được nhiều nơi... chắc là thú vị lắm. Phong cảnh rõ dần, rõ dần. Đảo là một khối hình tròn, giữa có núi đất. Rừng cây chỗ đậm, chỗ lợt. Những thân cây vì ở quá xa nhìn thấy nhỏ xíu đứng song song nhau trong khối lá xanh rì. Những chỗ lợt là những bãi trống loang lổ vì bị cháy rừng hay bị đốn phá bừa bãi... Có những đám khói xám trắng bốc lên ở đỉnh núi. Ở dưới chưn núi, sát mé biển cũng một rừng dừa. Những thân dừa suông đuột vàng lên dưới nắng. Thiệt, cái xứ Mã Lai chỗ nào cũng toàn là dừa. Một cầu tàu nhỏ bằng cây chạy dài ra ngoài mé nước. Sơn níu lấy tay tôi:

- Anh coi kìa, chỗ nào cũng có lều...

Đến bây giờ thì tôi thấy rõ. Dưới những tàn dừa là những lều cao thấp chen chúc nhau, kề cận nhau, xô đẩy nhau nối tiếp, cái này nhô ra, cái kia thụt vào, hỗn độn rối nùi. Vui quá sức! Cả một sức sống vươn lên. Bidong có cái gì hấp dẫn hơn Kapas. Kapas chỉ là có cái cầu tàu bằng sắt sơn xanh là có bàn tay con người, còn tất cả là thiên nhiên. Bidong thì không. Từ ngoài cầu tàu, đến bờ cát, sâu vô trong, trên ghềnh đá, trong các hốc núi, cheo leo trên thân cây, loanh quanh trên sườn đá đều có bàn tay con người xen vô. Đủ thứ màu sắc xanh đỏ tím vàng tha hồ mà tô điểm. Tôi trả lời Sơn:

- Bidong coi bộ hấp dẫn, anh bây giờ chịu cảnh rần rần náo nhiệt như vầy nè, ở bên Kapas buồn quá sống một tháng mà tưởng chừng một năm...

Sơn nhìn tôi:

- Lúc trước cũng anh nói anh thích Kapas yên tĩnh, sống gần gũi hòa hợp với thiên nhiên, bây giờ anh lại nói thích Bidong vì ồn ào náo nhiệt... Sao kỳ vậy?

Tôi cười:

- Ừ, anh cũng không biết tại sao khi vầy khi kia. Chắc muốn có cái gì thay đổi... cho cuộc đời vui hơn một chút... Anh chỉ cần mỗi ngày... vui hơn một chút thôi, không đã lắm sao!

Ba chiếc ghe Mã từ từ cặp bến. Cầu tàu bằng cây dài khoảng một trăm thước, cột dầu cũng bằng cây lớn cắm sâu xuống những thùng phuy đổ đầy xi măng chôn dưới đáy nước. Nước biển trong xanh phản chiếu ánh nắng vàng rực buổi chiều chói mắt. Dưới chân cầu, hàng ngàn người da đen nâu đang nô đùa, lặn hụp trong sóng nước long lanh. Vì ở trên cao nhìn xuống tôi không phân biệt người lớn cùng trẻ con, đàn ông cùng đàn bà, tất cả đều nhỏ xíu xôn xao rộn rịp như đàn kiến. Ba chiếc ghe mới tới như miếng mồi ngon, đàn kiến ngưng đùa giỡn, bu quanh đen nghẹt, người vịn thành ghe, kẻ bám cột cầu tranh nhau hỏi tíu tít đến từ đâu?

Tôi cố nhìn xuống đám người đang lội dưới kia, hy vọng gặp một người quen, nhưng hoài công, không dễ nhìn thấy được. Ai cũng mình trần trụi đen thui, râu tóc dài thậm thượt rậm rì, giống nhau như hệt. Sóng nhấp nhô dưới chưn cầu, người bơi lội nhấp nhô theo sóng. Khi ghe đã cột đõi, chúng tôi được hướng dẫn lên đứng xếp hàng hai trên cầu để ban trật tự của đảo sắp xếp và kiểm soát. Hành lý được chuyển lên để kế bên. Bây giờ tôi mới có dịp đứng yên để nhìn vô đảo. Trên bờ người ta túa ra từ các ngả rầm rộ để coi ghe mới tới. Không thể tưởng tượng được tỷ lệ dân cư ở đảo này. Sao mà đông quá sức, cả rừng người chen lấn xô đẩy nhau. Phần đông đều ở trần, mặc xà lỏn, tóc dài, râu dài, chưn mang dép cao su đủ màu. Loại dép Mã Lai đế rất cao. Họ đứng dầy đặc ở bãi cát, ở dưới những gốc dừa. Cây dừa ở đây cũng cao vút như ở Kapas nhưng thưa hơn, dưới những tàn lá có vài mái nhà tôle, có thể là nhà hội, cơ sở của đảo. Tôi ngó bên này, rồi ngó bên kia, trong đầu nghĩ tới vài người bạn đã tới trước. Tôi thèm gặp được một người quen lúc này hết sức. Nhìn hoài không thấy được ai, thôi vậy đứng tách riêng ra cho người ta nhìn mình. Nghĩ xong tôi đứng tách ra khỏi hàng, ở vị trí cho dễ thấy... Cho tới khi ban trật tự ổn định sắp xếp xong hướng dẫn cả đoàn đi vào nhà đợi làm thủ tục nhập đảo, cũng chưa gặp được một người quen. Như vậy bạn bè vượt biên của tôi, ở đảo Bidong, chắc là ít lắm. Nhà chờ đợi cũng ở ngay mé biển, bên trái cầu tàu. Mái lợp tôle trắng, các cột bằng cây vuông, nền tráng xi măng, không có vách. Dĩ nhiên cũng không có bàn ghế gì hết. Ba trăm người vào ngồi lủ khủ bên các đống hành lý của mình như món hàng triển lãm, bên ngoài vòng rào thiên hạ chen lấn nhau dòm vào. Nếu lúc thường mà bị dòm ngó như vầy thì khó chịu và mắc cỡ nhưng người tỵ nạn đã vô Bidong ở cái cảnh tận cùng đất đen, nói nôm na một chút là “cùi không sợ lỡ” nữa rồi, còn gì đáng e ngại, quan tâm nữa đâu.

Tôi ngồi trân ra đó, bệt trên sàn xi măng, tai nghe mọi thứ âm thanh vang dội hỗn độn ồn ào xung quanh như trong một cái tổ ong bầu. Người ngồi bên trong nói vọng ra vang vang người bên ngoài chen lấn hét lớn vào, chia tay ở Việt Nam gặp lại ở Bidong xa xôi này không vui mừng sao được. Có những người là bà con ruột thịt, cũng có những người hàng xóm quen biết sơ sơ nhưng dầu là thân hay sơ câu chuyện cũng giòn giã thân tình. Bi phần nóng nực, phần ồn ào nên phát khóc, đòi đi chơi. Duyên vừa dỗ con vừa nói:

- Có qua đây rồi mới biết, sao mà hỗn độn rần rần, em muốn ngộp thở. Cái tên Bidong cũng là tiền định, làm em nhớ tới chữ bidonville...

Chắc nàng đang nghĩ tới khu Bàn Cờ, tôi thì nhớ tới những trại tỵ nạn của đồng bào An Lộc, Bình Long vào năm 1972, mùa hè đỏ lửa, cả chục ngàn người bỏ cửa bỏ nhà chạy đổ xô về Bình Dương sống chui rúc trong những căn nhà che tạm bằng bất cứ thứ gì lượm được: cây, ván, vải vụn, thùng giấy cạc tông... sống cảnh màn trời chiếu đất.

- Ừ, ừ, cũng ngộ thiệt. Bidong này với bidon kia có khác gì đâu. Gần bốn chục ngàn người sống trên một khoảnh cát nhỏ xíu như vầy. Trên thế giới chắc không có nơi nào tỷ lệ dân cư cao như ở đây. Mà đố em tại sao đảo này có tên là Pulau Bidong?

Duyên suy nghĩ một hồi, chịu thua.

Tôi nói cho nàng nghe:

- Pulau thì dễ rồi, có nghĩa là hòn đảo, tiếng Việt mình cũng dùng y như vậy gọi là cù lao. Hồi còn ở Kapas có lần anh hỏi thằng Zăm Bri, tiếng Mã Lai nghĩa của chữ Bidong là gì. Nó nói Bidong là rắn. Pulau Bidong là đảo rắn. Chắc ở đảo này rắn nhiều lắm nên mới được đặt tên như vậy.

Nàng hóm hỉnh nhìn tôi:

- Vậy Kapas là dừa, Pulau Kapas là đảo dừa...

Tôi cười trừ:

- Cái đó phải kiếm thằng Dân thủy thủ để hỏi, tên đảo Dừa của nó đặt ra đó!...

Lúc đó thì Chiêu đã gặp lại anh bạn học ở Hốc Môn, thơ ký của chiếc 0126C, rồi tới anh Tư Trần Hưng Đạo, anh chị Thuần, chị Điệp gặp được dì Chín, cậu Tám... nhiều nhứt là các người Tàu. Câu chuyện nổ ròn như bắp rang. Tôi ngó mông, ngó mênh mãi cũng không gặp được ai quen. Cho đến khi rời khỏi chỗ tạm trú qua đêm mới gặp được một cô học trò cũ. Ảnh Lang học ở Hoàng Diệu Sóc Trăng. Cô ta đã tốt nghiệp Y khoa một lượt với Tuyết và Tiến. Cả hai gặp lại nhau mừng rỡ tít tít nói chuyện huyên thuyên. Lang đã đến đảo từ mấy tháng trước, ngày mốt là lên đường đi định cư ở Úc. Người trên đảo đông nghẹt như trong hội chợ nên đường sá rất khó định hướng. Nhìn chỗ nào cũng thấy người ta, tôi sợ lạc nên từ giã Ảnh Lang đi theo dòng người về nơi tạm trú. Len lỏi trong rừng người, chen lấn xô đẩy vượt qua một đoạn đường giống như khu chợ trời ở chợ cũ Hàm Nghi, hai bên là những người ngồi bán các loại hàng hóa của Mỹ của Mã Lai trên các thùng cạc tông. Đường đầy rác rưới, đất cát dơ bẩn lồi lõm quanh co. Mãi rồi cũng tới khu đất trống để tạm trú qua đêm. Quăng cái sắc marin bự cùng cái xách tay xuống đất, tôi ngó quanh. Hỡi ơi! Khu tạm trú là đây sao? Dưới là cát đầy rác rưới, xung quanh la liệt những người bày hàng bán chợ trời, rải rác có các cây dừa cao. Bầu trời đã đầy sao. Trời tối từ hồi nào tôi không hay biết. Trên các sạp thấp lè tè người ta đã lên đèn. Đèn là các hộp lon coca tim vải, đốt bằng dầu lửa hoặc dầu cặn khói tù mù. Người di chuyển qua lại dùng đèn bấm để soi, ánh sáng chấp chóa, chớp tắt liên hồi. Cả một cảnh tượng hỗn độn, kỳ cục, lạ mắt, một cảnh sinh hoạt tìm không ở đâu có, chỉ trừ ở hải đảo lẻ loi này. (Chợ âm phủ trong các chuyện cổ tích được ghi chép lại chắc cũng y như vậy: các hồn ma cũng đi chợ, cũng mua bán trả giá, cũng dùng tiền giấy, trong những ánh đèn chập chờn...)

Các bạn gặp được người quen đến trước, họ lần lượt đi gởi hành lý và xin ngủ nhờ qua đêm, khỏi phải chịu cảnh màn trời chiếu đất đêm nay. Anh Tư Trần Hưng Đạo, anh chị Thuần và đám chị Điệp, chị Kiều đã đi rồi. Chỉ còn đám anh em tôi, tứ cố vô thân, ngó quanh ngó quất không quen ai để nhờ vả. Một đống hành lý ngùn ngụt, trời tối mò mò. Có vài người đứng nhìn chúng tôi e ngại, họ nhắc khéo nên coi chừng ăn cắp, ở đây hở ra cái gì là mất cái đó... Thôi phải rán tự túc tự cường. Tôi trải tấm ny lông trên bãi cát dơ, cạnh gốc dừa gom hết hành lý dồn đống lại. Đành đêm nay ngủ đỡ tại đây! Ngồi xuống tấm đệm, dựa lưng vào mấy cái gói xách, tôi duỗi tay chưn. Mấy bắp thịt nhão ra, mỏi nhừ. Đến bây giờ mới thấy mệt. Cổ họng khát khô. Duyên lục trong túi xách tay tìm được một thùng nước nhỏ, tôi cầm lấy uống một hơi, để xuống, cơn khát đã đỡ nhưng trong lòng cảm giác bơ vơ, trống vắng. Bóng đêm tối đen mù mù, tiếng chưn người xào xạc trên cát, những ánh đèn bấm chớp tắt, chớp tắt... Sơn và Dân gì đó sau một hồi dạo lên dạo xuống, sợt về. Dân ngồi xuống mặt đệm:

- Mình có thể nhắn tin tìm người quen ở phòng thông tin gì đó.

Tôi hăm hở:

- Làm sao để nhắn tin?

Anh viết tên tuổi địa chỉ hiện ở cùng số ghe của mình gì đó rồi đem lại phòng thông tin. Ở đó họ sẽ đọc lên loa phóng thanh gì đó cho mọi người cùng nghe...

Sơn lục trong đống hành lý tìm giấy. Không có. Tôi thoáng thấy mấy hộp cá mòi lăn lóc, bèn cầm lên gỡ lấy cho mỗi đứa một tờ nhãn hiệu cá đỏ bầm phía sau còn trắng bong có thể dùng để viết được. Cả ba hý hoáy vội vàng những chi tiết vào tờ giấy nhỏ bằng bàn tay... Tôi cùng đi với Dân và Sơn trở lại con đường hồi nãy rồi quanh về bên trái. Phòng thông tin được cất dưới tàn dừa âm u, bên trong có đèn điện sáng choang, vách cây dừng bốn phía. Tôi đứng ngay cửa sổ, chờ đợi. Sơn đứng kế bên. Cô xướng ngôn viên mặc áo trắng tay tóc ngắn thấy ba anh em tôi đến, quay lại. Sơn mừng quá la lên:

- Ơ, chị Ba, em nè.

Cô xướng ngôn viên cũng khựng lại, mừng hết sức:

- Sơn đó hả, tới hồi nào vậy, sao không kiếm chị?

Sơn cười tươi rói:

- Em mới tới hồi chiều, kiếm phòng thông tin để nhờ nhắn tin tìm chị đây nè!

Nó đưa tờ giấy nhắn tin viết trên lưng nhãn hộp cá mòi. Cô nhân viên trẻ đẹp đó là chị ruột của cô bồ Sơn. Cả gia đình của cô đã tới Bidong trước mấy tháng nay đang chờ đi định cư ở Mỹ. Sơn mừng húm, chạy về xách hành lý để theo tiếng gọi của... con tim. Tôi và Dân gì đó bị bỏ rơi, hai anh em bơ bơ đi trở về. Ở “nhà” Chiêu cũng không chịu ngồi yên, nó đi đông đi tây, may quá gặp được các người quen ở Bình Dương. Một số vội vàng đến thăm. Tôi từ từ thấy được một góc trời quê hương. Chị Mỹ Á bán vải ở nhà lồng chợ, anh Hưng Thạnh bán gạo ở mé sông cùng vợ chồng anh Liêu Thạnh. Anh Liêu Thạnh còn trẻ độ hai lăm, hai sáu có nhà ở sát cạnh nhà tôi, cũng bán gạo. Cô vợ bồng con còn nhỏ, anh mừng rỡ:

- Mấy anh có ăn uống gì chưa?

Tôi vội trả lời:

- Từ trưa tới giờ lung tung mọi chuyện nên không có thì giờ. Bây giờ rảnh rồi nhưng bếp núc đâu mà nấu?

Anh lục lục trong cái xách tay, cầm lấy mấy gói mì, miệng lanh chanh nói với vợ:

- Coi nè, mấy ảnh có gạo, có mì, có sữa...

Chị vợ mau mắn:

- Vậy thì mình nấu mì ăn đi cho vững bụng.

Tôi lo lắng:

- Làm sao có bếp, củi để nấu nước sôi?

Anh cười:

- Dễ quá, dễ quá, để tôi lo cho, có liền mà. Mấy anh chị chờ một chút nghen...

Anh vụt chạy về. Chừng một lúc sau anh khệ nệ bưng ra một nồi nước đầy nước còn nghi ngút khói. Chị vợ đã kỹ lưỡng cầm theo đủ cả chén đũa. Đoạn đường từ lều đến chỗ tạm trú cũng khá xa, đường ban đêm quanh co khúc khuỷu tối tăm, anh khiêng nồi nước nóng, cô vợ cầm đèn pin soi đường. Thiệt là ân nghĩa hết sức. Cách cho quí hơn của cho. Trong đời thỉnh thoảng tôi nhận được những tấm lòng thương yêu quí báu của những người thân và không thân. Tôi phải làm sao để đền đáp được những ân tình ấm áp đó?
Tôi ăn một chén mì, thấy đã no, ăn không nổi nữa, có lẽ mệt quá. Sau đó một thanh niên đến hướng dẫn tôi lại lều của dì Sáu để biết chỗ liên lạc với chị Điệp. Trời tối đen thui không thấy gì hết, nó đi len lỏi trong đám người đi mờ mờ, đèn đuốc không có, quanh quanh co co mãi một hồi lâu thì đến nơi. Nhìn quanh thì hỡi ơi! Đó là một cái lều cây nhỏ ọp ẹp, bước vô cửa phải cúi thật thấp nếu không muốn bị đụng bể đầu. Trong lều có sàn duy nhứt hẹp té làm bằng những đoạn cây nhỏ cỡ ngón chưn cái ghép lại. Cái sàn này vừa dùng để hành lý, để ngồi và cũng để ngủ. Cái mặt sàn nổi u nổi nần làm sao mà nằm? Một đống đồ đạc chất gần sát vách choán gần hết phân nửa mặt sàn. Một mình dì Sáu cũng đã chật rồi, bây giờ lại thêm chị Điệp với hai con nhỏ và mấy đứa em. Vậy thì phải giải quyết ra làm sao, tôi không biết. Đông qua, chỗ đứng cũng không có nói chi đến chỗ nằm. Trên boong ghe BL 1648 cũng còn rộng hơn. Dì Sáu khoe đã mua căn lều này giá một lượng vàng. Nó khá nhứt ở khu này đó! Tôi thụt lùi trở ra và đó là lần đầu tiên biết thế nào là một căn lều ở Bidong. Tôi vội từ giã để về, đêm hôm khuy khoắc. Chết rồi, hướng cũ chỗ nào, trời lại tối đen, thôi cứ đi đại. Tôi len lỏi trong các đường hẻm sình lầy, chưn mang đôi dép đứt đi bước thấp bước cao. Đường đi lại có nhiều gốc cây nhỏ chặt không sát, thỉnh thoảng trồi lên một gốc, vô ý đá mạnh vào xước da chảy máu, đau thấu tận trời xanh. Mò mẫm đi một hồi lâu ra tới bờ biển lạ hoắc. Nhìn kỹ đây không phải là chỗ lên hồi chiều. Tôi nghe tiếng nhạc bập bùng, giọng ca eo éo, rải rác trên bãi một đám đông nhàn hạ thảnh thơi hóng gió nghe nhạc ké trong quán vẳng ra. Tôi còn bụng dạ nào nấn ná chần chờ ở đây để thưởng thức những giọng oanh vàng. Phải hỏi đường cho kỹ để về khu tạm trú. Tôi hướng về cầu tàu rồi loay hoay cũng về được chỗ cũ. Tôi vừa về tới nơi thì vợ chồng con cái anh Tư Trần Hưng Đạo cũng trở lại tìm chỗ ngủ. Rồi tới chị Thuần, kế đó là mẹ con chị Điệp với mấy đứa em. Thì ra Bidong lòng ai cũng rộng nhưng lều thì hẹp quá, thôi tất cả đành ngủ tạm trên bãi cát dơ!

 Võ Kỳ Điền

(Trích trong chương 12 - “Hải Đảo Buồn Lâu Bi Đát” - của hồi ký “Pulau Bidong Miền Đất Lạ”)

HÌNH ẢNH HUẾ 100 NĂM TRƯƠC

Ảnh cực hiếm về cố đô Huế gần 100 năm trước

Những hình ảnh khắc họa Huế cổ kính, rêu phong với đầy đủ không khí hoàng tộc triều Nguyễn.

On 02/06/2017   
Cùng cảm nhận nét đẹp thâm trầm, cổ kính của Cố đô Huế qua loạt ảnh hiếm có do các nhiếp ảnh gia Pháp thực hiện ở Huế thời thuộc địa.
Hình ảnh nằm trong loạt ảnh về Huế thời thuộc địa do trang mạng Hiệp hội bằng hữu Huế xưa của Pháp (Aavh.org) đăng tải.
Điện Kiến Trung trong Tử Cấm Thành, 1929. 
Mặt tiền Điện Kiến Trung, 1930. Công trình này ngày nay chỉ còn là phế tích đổ nát.
Tiền sảnh Điện Kiến Trung, 1928.
Phòng khách ở Điện Kiến Trung, 1928.
Phòng chơi billiard ở điện Kiến Trung, 1928.

Bức bình phong trước Viện Cơ Mật, 1920.
Cung Diên Thọ trong Tử Cấm Thành Huế, 1928.
Điện Phụng Tiên trong Hoàng thành, 1928.
Lầu Tứ Phương Vô Sự trong Hoàng thành, 1928.
Tòa Thương Bạc do vua Bảo Đại cho xây dựng năm 1936. Ảnh chụp năm 1948.
Cầu Trường Tiền năm 1931.
Đài phun nước hình rồng bên bờ sông Hương, 1936.

LUÃT SƯ LÊ DUY SA * TRƯỜNG CHU VĂN AN

TẶng các cựu học sinh Chu Văn An

LỊCH SỬ TRƯỜNG CHU VĂN AN

 

alt



Việt Nam có nhiều trường trung học nổi tiếng, nhưng trường nổi tiếng nhất trong những trường nổi tiếng phải nói đó là trường Trung Học Chu văn An. Trường Chu văn An nổi tiếng không những vì nó đã có mặt trên cả hai miền Nam Bắc gần thế kỷ và đã đào tạo ra không biết bao nhân tài cho đất nước, mà còn vì học sinh trường Chu Văn An có tinh thần yêu nước rất cao.


Có điều không ai có thể ngờ được là nó lại chẳng được một nghị định nào của bộ Quốc Gia Giáo Dục ban hành thành lập, mà lại chỉ được một nghị định của bộ Mỹ Nghệ và Giáo Dục đổi tên do Giáo Sư Bộ Trưởng Hoàng xuân Hãn ký. Vì thế nói tới lịch sử của trường Chu văn An không thể nào không nói tới nguồn gốc của nó.


Nguồn gốc trường Chu văn An : trường Bưởi.

Người ta thường nói tiền thân của trường Chu văn An là trường Bưởi. Thực ra tên Bưởi không phải là tên chính thức. Tên chính thức của trường Bưởi lúc đầu là Collège des Interprètes. Nhưng chẳng bao lâu thì trường được đổi tên là Collège du Protectorat rồi tới năm 1930, trường lại được đổi tên lần nữa thành Lycée du Protectorat.


*


Trường này do chính quyền bảo hộ Pháp thành lập với mục đích đào tạo thông ngôn (thông dịch viên), phán sự (thư ký hành chánh) cho chính quyền bảo hộ. Trường được xây cất vào năm 1907 trên một khu đất rộng hơn 10 mẫu tây thuộc làng Thụy Khê, huyện Hoàn Long tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hànội), nằm dọc theo Hồ Tây từ gần đền Quan Thánh tới gần Ô Cầu Giấy thuộc làng Yên Thái còn gọi là làng Bưởi, nên dân Hànội, Hà Đông thường gọi là trường Bưởi cho tiện (1).




Collège du Protectorat près du Grand Lac. Trường Trung Học Bảo Hộ gần Hồ Tây, hồi xưa quen gọi là trường Bưởi, sau này là trường Chu Văn An. Nằm tại làng Bưởi, trên đường Route du Village du Papier nay là đường Thụy Khuê.


*


Trường khai giảng niên khóa đầu tiên vào năm 1908 đủ cả bốn lớp, từ première année tới quatrième année (tức từ lớp 6 đến lớp 9), đúng nghĩa là một trường Thành Trung (Grand Collège, thời Việt Nam Cộng Hòa gọi là trường Trung Học Phổ Thông, nay gọi là trường Trung Học Cơ Sở). Vị Hiệu Trưởng đầu tiên của trường Bưởi là giáo sư người Pháp tên Cyprien Mus. Các Hiệu Trưởng kế tiếp là các giáo sư Donnadieu, giáo sư Lomberger, giáo sư Pouget, giáo sư Autigeon, giáo sư Houlié, giáo sư Perruca và giáo sư Farchi (2). 
Nhưng cũng trong năm này (1908) trường Collège Jules Ferry ở Nam Định đóng cửa, nên tất cả các học sinh của trường này được chuyển lên trường Bưởi. Do đó trường Bưởi trở thành một trường Trung Tiểu Học, gồm cả hai cấp : cấp Tiểu Học (Petit Collège) từ lớp Tư (Cours Préparatoire) đến lớp Nhất (Cours Supérieur) và cấp Trung Học (Grand Collège) còn gọi là Cao Đẳng Tiểu Học (Enseignement Primaire Supérieur), sau này, thời Việt Nam Cộng Hòa được gọi là Trung Học Phổ Thông hay Trung Học Đệ Nhất Cấp (3).




TONKIN – Hanoi – Une fête d’écoliers Annamites. Một ngày hội của học sinh trường Trung học Bảo Hộ Hà Nội (trường Bưởi).
Tới năm 1926, cấp Tiểu Học được bãi bỏ, thay thế vào đó cấp Tú Tài Bản Xứ (Baccalauréat d’Enseignement Secondaire Local); do đó trường được đổi thành Lycée du Protectorat. Theo cụ Đinh Bá Hoàn, cựu học sinh trường Bưởi, thì từ niên khóa 1924-1925, chương trình học được kéo dài thêm 3 năm nữa, tổng cộng là 7 năm và các môn học không những cũng đầy đủ như ban Tú Tài của Pháp mà còn thêm cả phần học về văn hóa Á Đông nữa (4), nhưng mãi tới năm 1930 trường mới thực sự được đổi tên thành Lycée du Protectorat.


*


Năm 1943, quân đội Nhật tiến vào Đông Dương, tình hình trở nên nghiêm trọng. Để tránh bom đạn của máy bay Đồng Minh đánh phá các căn cứ quân sự của Nhật, trường Bưởi đã phải chia ra làm ba nhóm di tản đi ba nơi khác nhau còn trường thì bị binh lính Pháp chiếm làm chỗ đóng quân :
Nhóm 1 : Ban Cao Đẳng Tiểu Học (Enseignement Primaire Supérieur) di chuyển vào Phúc Nhạc thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Nhóm 2 : Ban Tú Tài (Baccalauréat) di chuyển vào Sầm Sơn thuộc tỉnh Thanh Hóa.
Nhóm 3 : Ban Classique Latin nhập vào trường Lycée Albert Sarraut, di chuyển về Chợ Trâu, thuộc thị xã Hà Đông. Chính vì sự sát nhập này mà nhiều cựu học sinh Bưởi chỉ nhớ tới nhóm 1 và 2 mà thôi (5).


*


Những nỗi truân chuyên của trường Chu Văn An.


Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp. Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời, Ngày 12 tháng 5 năm 1945, Bộ Trưởng bộ Mỹ Nghệ (6) là giáo sư Hoàng Xuân Hãn ký nghị định đổi tên trường Lycée du Protectorat thành trường Trung Học Chu văn An, tên của một danh sư đời Trần, người đã dám dâng sớ xin chém đầu bẩy tên nịnh thần gian ác, hại dân hại nước, và vị Hiệu Trưởng đầu tiên của trường Chu Văn An là giáo sư Hòang Cơ Nghị (7) (lúc này trường còn đang ở Sầm Sơn Thanh Hóa).


Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Cách Mạng Mùa Thu bùng nổ, Việt Minh nổi lên cướp chính quyền, trường được di chuyển về thị xã Hà Đông và giáo sư Nguyễn Gia Tường được đề cử làm Hiệu Trưởng để thay thế giáo sư Hoàng Cơ Nghị vào ngày 1 tháng 10 năm 1945 còn Giám Học là thầy Nguyễn Văn Chính. Cũng trong tháng này, niên khóa đầu tiên mang danh trường Chu Văn An đã được khai giảng. Được ít lâu, trường lại di chuyển về chùa Láng trên đường Hà Nội đi Hà Đông, rồi về Đông Dương Học Xá ở Bạch Mai, gần Hà Nội.


Tới năm 1946, trường lại rời về trường nữ trung học cũ cuả Pháp (Collège des Jeunes Filles) ở đường Félix Faure, kế bên nhà thờ Cửa Bắc, gần vườn hoa Canh Nông ở Hà Nội và vị giáo sư Quốc Văn nổi tiếng thời bấy giờ là giáo sư Dương Quảng Hàm được cử lên làm Hiệu Trưởng để thay thế giáo sư Nguyễn Gia Tường vào ngày 14 tháng 12 năm 1945, còn Giám Học là thầy Nguyễn Đình Phong. Nhưng cũng chẳng được bao lâu thì ngày 19 tháng 12 năm 1946, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Các cơ quan đầu não quan trọng đều được chính phủ Việt Minh di tản ra hậu phương hoặc lên mạn ngược, còn các cơ quan khác không quan trọng đều đương nhiên bị giải tán. Trường Chu Văn An không phải là cơ quan quan trọng nên cũng nằm chung trong số phận này (8).


Đêm 26 tháng 12 năm 1946, giáo sư Hiệu Trưởng Dương Quảng Hàm bị đạn lạc chết trên đường tản cư, khi đang lội qua sông. Xác giáo sư không biết trôi dạt nơi đâu! (9). Theo Cố Nhân, tác giả bài “Chu Văn An những ngày xưa cũ” đăng trên Đặc San Chu Văn An miền Đông Hoa Kỳ, xuân 1991, thì giáo sư Dương Quảng Hàm đã bị nạn chết ngay đêm đầu tiên cuộc chiến Việt Pháp bùng nổ tức đêm 19 tháng 12 năm 1946 và xác của ông có thể đã được vùi chôn trong ngôi mộ tập thể ở cạnh tòa án Hà Nội trên đường Lý Thường Kiệt, (10).

Năm 1947, Hoàng Đế Bảo Đại hồi loan và chính phủ Quốc Gia được thành lập, nhưng mãi tới ngày 26 tháng 1 năm 1948 trường Chu Văn An mới được tái lập và hoạt động trở lại (11). Trường sở được đặt tại trường nữ trung học Thanh Quan, tục gọi là trường Hàng Cót tức trường R. Brieux cũ và giáo sư Sử Địa Mai Văn Phương được cử giữ chức Hiệu Trưởng vào tháng 2 năm 1948, Giám Học là thầy Đỗ Văn Hoán.


Niên khóa 1949-1950, trường lại một lần nữa được đổi về trường nữ trung học Đồng Khánh nằm trên đường Đồng Khánh, nay gọi là Phố Hàng Bài Hà Nội và vị Hiệu Trưởng lần này là Giám Đốc Học Chính Bắc Việt Đỗ Văn Hoán kiêm nhiệm, Giám Học là thầy Phan Đình Hoan nhưng cũng không được bao lâu thì trường lại chia đôi : một nửa số học sinh (đa số có nhà cư ngụ ở mạn bắc Hà Nội) di chuyển cùng với tên trường về trường Giáo Sinh Sư Phạm hay Sư Phạm Tiểu Học (College Đỗ Hữu Vị?), nơi đào tạo các giáo viên bậc tiểu học, tại đường Đỗ Hữu Vị gần cửa Bắc và vị Hiệu Trưởng lần này là giáo sư Phạm Xuân Độ. Còn nửa số học sinh ở lại (đa số có nhà cư ngụ ở mạn Nam Hà Nội) và trường được đổi tên thành trường Trung Học Nguyễn Trãi.


Tới niên khóa 1950-1951, giáo sư Vũ Ngô Xán lên làm Hiệu Trưởng, Giám Học là thầy Vũ Đức Thận. Cũng trong thời gian này, Hiệu Đoàn kỳ với ngọn lửa mầu đỏ trên nền xanh da trời và Hiệu Đoàn ca với bản hùng ca Chu Văn An Hành Khúc do giáo sư Nhạc Sĩ Thẩm Oánh sáng tác ra đời.


*


Đoạn đường chuân chuyên của trường Chu Văn An đến đây tưởng chừng được chấm dứt, nhưng Trời chẳng chiều lòng người, thời gian êm đềm hạnh phúc cũng chỉ kéo dài được 4 năm (1950-1954). Tới ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, trường Chu Văn An cũng cùng chung số phận, một nửa theo lệnh của bộ Quốc Gia Giáo Dục di cư vào Nam, trong đó có Giáo Sư Hiệu Trưởng Vũ Ngô Xán, Giám Học Vũ Đức Thận và hầu hết các giáo sư nổi tiếng như Hoàng Cơ Nghị, Đào Văn Dương, Bạch Văn Ngà, Lê Văn Lâm, Nguyễn Sĩ Tế, Vũ Khắc Khoan, Vũ Hoàng Chương, Lê Ngọc Huỳnh, Bùi Đình Tấn, Trần Đình Ý v.v…


Còn một nửa thày trò khác, trong số đó có anh Nguyễn Thủy, vì chưa hiểu rõ bộ mặt thật của Cộng Sản nên đã ở lại để chịu sự đầy đọa của chủ nghĩa vô thần Cộng Sản. Anh Nguyễn Thủy hiện nay đang ở Pháp, có bài thơ “Hỏi thầy cũ” như sau :


Hà Nội tiếp thu tới cột cờ,
Hân hoan dào dạt buổi ban sơ.
Như say thầy Sách trông cờ Đỏ :
Hơn tám mươi năm một giấc mơ (11).


Ái quốc bùa yêu thật nhiệm mầu,
Tương lai mù mịt xá chi đâu.
Vụt tay khỏi trán,nghe tim nói :
Kẻ Sĩ vì dân chốn biển dâu.


Thấm thóat phần ba thế kỷ qua,
Các thầy chắc hẳn lắm phôi pha ?
Có còn gieo giống, trồng nhân bản,
Hay đã uất hận, chốn nở hoa (12) ?


Nhân quả chu kỳ cũng có a !
Khúc quanh lịch sử nước non nhà.
Nông gian (13) thống trị bao giai cấp,
Lạm dụng mỹ từ đại bịp ta.


Thời đại truyền thông đã điểm rồi,
Âm binh, phù thủy rút đi thôi.
Để người yêu nước xây đời mới,
Hoài bão thầy Chu thắp sáng ngời (14).



Phần ở lại, sau khi chính quyền Cộng Sản tiếp thu, tiếp tục hoạt động được một thời gian ngắn thì trường di chuyển trở về số 10 đường Thụy Khê Hà Nội tức trường sở cũ của trường Bưởi. Được mươi năm, trường xuống cấp và lại bị chia hai một lần nữa, nhưng lần này không phải chỉ chia hai số học sinh, mà còn chia hai cả ngôi trường. Một nửa vẫn mang tên Chu Văn An, còn nửa kia mang danh Ba Đình. Không những thế, đất của nhà trường còn bị cả chục cơ quan khác và cả trăm nhân viên của bộ Giáo Dục cậy quyền, cậy thế lấn chiếm làm trụ sở hoặc nhà ở.


Gần đây, chính quyền Cộng Sản còn dự định bán cả một phần sân vận động của trường Chu Văn An để làm khách sạn cho ngoại quốc thuê mướn. Việc làm này đã bị các cựu học sinh Bưởi-Chu Văn An khắp nơi lên tiếng phản đối mãnh liệt, trong số đó có cả những người hiện đang nắm giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền Cộng Sản. Ngay cả nhật báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của đảng Công Sản Việt Nam, trong số ra ngày 31 tháng 3 năm 1992 cũng đã đăng tải một bài phản đối dự án này dưới nhan đề “Xây khách sạn gần trường Chu Văn An là phản giáo dục”. Nhưng chính quyền Cộng Sản vẫn bỏ ngoài tai và vẫn tiến hành dự án phản văn hóa này để kiếm tiền cho Đảng.


Theo ông Nguyễn văn Chiến, giáo sư Viện Đại Học Hà Nội, nguyên Hiệu Trưởng trường Chu Văn An Hà Nội, cho biết thì vào ngày 17 tháng 2 năm 1995, chính quyền Cộng Sản đã ký quyết định nâng cấp (! ) trường Chu Văn An ngang hàng với các trường Quốc Học ở Huế và Trường Lê Hồng Phong ở Saigon. Thật đáng buồn thay, một trường trung học nổi tiếng nhất nước, với những giáo sư lỗi lạc mà trong đó có người đã làm Thủ Tướng như giáo sư sử gia Trần Trọng Kim hay Tổng Bộ Trưởng như giáo sư Hoàng Xuân Hãn, giáo sư Nguyễn Dương Đôn, Khoa Học Gia như giáo sư Nguyễn Xuân Vinh v.v.., sau 40 năm quằn quại dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghiã, nay mới lại được nâng cấp trở lại !


Phần di cư vào Nam, vì chưa có trường sở riêng, trường Chu Văn An phải học nhờ trường Pétrus Ký. Trường Pétrus Ký học buổi sáng, trường Chu Văn An học buổi chiều.

Tới niên khóa 1955-1956, nhờ sự vận động của Bộ Giáo Dục nên trường được cấp cho một building hai tầng lầu ngay đằng sau trường Pétrus Ký, nhưng cổng vào nằm trên đường Trần Bình Trọng. Building này nguyên trước là ký túc xá của học sinh Pétrus Ký, sau bị Công An Xung Phong của Bình Xuyên chiếm làm trụ sở nhưng đã bỏ chạy sau biến cố Bình Xuyên 1955. Giáo sư Vũ Ngô Xán tiếp tục làm Hiệu Trưởng đến niên khóa 1956-1957 thì giáo sư Trần Văn Việt, nguyên Hiệu Trưởng trường Nguyễn Trãi sang thay thế. Giám Học là thầy Nguyễn Hữu Văn. Đầu niên khóa 1957-1958, trường được nới rộng sang khu nhà in Caravelle cũ (còn gọi là khu chuồng ngựa), cạnh sân vận động trên đường Trần Bình Trọng.




Không Ảnh Saigon 1965 – NHÀ THỜ THÁNH NỮ JEANNE D’ARC, TRUNG HỌC CHU VĂN AN, ĐẠI HỌC XÁ MINH MẠNG.




Trường Trung Học Chu Văn An và Nhà thờ Thánh nữ Jeanne d’Arc.






Đường Minh Mạng. Saigon 1966-72.


Niên khóa 1961-1962, trường Chu Văn An mới thực sự có trường sở mới tọa lạc tại góc đường Minh Mạng – Triệu Đà nhưng cũng chỉ mới di chuyển được các lớp Đệ Nhất Cấp. Sang niên khóa 1962-1963, trường mới hoàn toàn rời bỏ trường cũ để di chuyển về trường mới. Tới niên khóa 1963-1964 thày Giám Học Nguyễn Hữu Văn lên làm Hiệu Trưởng rồi kế tiếp là các gíao sư Đàm Xuân Thiều, Bùi Đình Tấn, Dương Minh Kính và Nguyễn xuân Quế.




SAIGON 1966-67. Ngã sáu Cholon. Nhà thờ Thánh nữ Jeanne d’Arc. Photo by R Mahoney. Bên phải hình là trường Trung học Chu Văn An, nơi cuối đường Minh Mạng (nay là Ngô Gia Tự). Cạnh bên đó là khu Đại học xá Minh Mạng.




SAIGON Mậu Thân 1968 – Trại tạm cư Ngã sáu Chợ Lớn trên sân trường Chu Văn An

Vietnam Refugees Camp In Cholon (Feb 14, 1968) by Carl Mydans


Tháng 4 năm 1975, Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam, trường Chu Văn An hoạt động thêm được ba năm nữa, tới đầu niên khóa 1978-1979 thì Sở Giáo Dục thành phố HCM ra quyết định giải thể. Phải chăng vì bị thày Chu Văn An dâng sớ xin chém đầu, bẩy tên gian thần đem lòng thù hận, đầu thai làm loài Qủy Đỏ, tìm cách trả thù ?


Nghe tin trên, một cựu giáo sư Chu Văn An còn tại chức lúc đó có làm một bài Văn tế thật cảm động như sau :


Than ôi !
Trời đất xụt xùi,
Phố phường ngơ ngác,
Thầy trò tan tác


Thế là :


Sau ba năm ngắc ngoải, án “tử hình” còn đợi duyệt y. Rồi một sáng quạnh hiu, tin giải thể đã là đích xác !

Nhớ trường Xưa :
Thanh thế lẫy lừng, hào quang sáng rực,
Lò hun đúc bao bậc tài năng, nơi xuất thân muôn người hiền đức.
Kể từ khi mượn tên làng “giấy bản” (15),
Mấy tòa lầu ngạo nghễ bên sóng biếc Hồ Tây.
Đến sau này mang hiệu “bậc danh nho” (16),
Vài ngôi nhà ẩn mình gần Bùng Binh Ngã Sáu,
Cùng thăng trầm với vận non song,
Trải vinh nhục qua bao cảnh ngộ.
Tránh bom đạn trong thời Thế Chiến,
Vác “nồi niêu” đi đến vùng quê (17),
Đón tin mừng khi có hòa bình, dọn sách vở trở về thành phố.
Bỗng nhiên :
Khói lửa mịt mù, thành đô tan vỡ (18)
Lôi thôi lếch thếch, dân chúng giắt gìa cõng trẻ tìm chỗ an thân, Đói rét lầm than, thầy trò nhường áo, xẻ cơm, nêu gương tương trợ.
Nhưng rồi :
Chiến sự vẫn dằng dai,
Cuộc đời lỡ dở,
Dân chúng hồi cư,
Trường xưa lại mở,
Khó khăn, trắc trở phải từ bỏ “tổ cũ” Hồ Tây,
Vất vả gian nan, đành dọn về trường kia “Đỗ Vị”(19),
Ba tầng phòng ốc, tạm đủ cho con trẻ học hành,
Vài mảnh sân chơi, cũng thỏa được tuổi xanh giải trí
Tưởng rằng :
Nấn ná qua thì,
Đợi khi bình trị.
Nào ngờ :
Thời thế đổi thay,
Gặp hồi vận bỉ.
Bản Hiệp Định (20) ký tận trời Tây, chia cắt giang sơn.
Người quốc gia rời xuống miền Nam với niềm hận sỉ.
Chân ướt, chân ráo, đành phải ở đậu, học nhờ
Lạ đất, lạ người, may được kẻ giúp, bạn đỡ.
Dần dần gây lại cơ đồ,
Ngày ngày gắng công củng cố,
Tăng thêm uy tín, ban giáo sư gồm nhiều vị lão thành.
Nổi tiếng tài hoa, đám học sinh không thiếu người ưu tú,
Tranh tài hùng biện, mấy lần đoạt giải quán quân.
Đọ sức văn bài, nhiều phen chiếm ngôi danh dự.
Khắp nơi, khắp chốn, đưa con em bồi đắp giang sơn,
Mọi chỗ, mọi ngành, gửi nhân tài điểm tô xứ sở.
Nhưng than ôi !
Mùa xuân năm nọ, cuồng phong phương Bắc ào ạt thổi vào,
Ngày cuối tháng kia, nhà cửa miền Nam ầm ầm sụp đổ (21).
Đồng Nai quằn quại bi thương,
Bến nghé xụt xùi đau khổ.
Lạc loài thân gái, bẽ bàng lỡ bước sang ngang,
Lơ láo hàng thần, ngậm ngùi sống đời tủi hổ.
Biết thân biết phận, giữ gìn kẽ tóc đường tơ,
Giả dại giả khờ, làm bộ hoan hô cổ võ.
Thời kỳ ổn định qua rồi,
Đến lúc thanh trừng hàng ngũ.
Taberd, Bác Ái lần lượt “quy tiên”.
Không nao núng, chẳng ưu phiền,
“Chu Văn An” thản nhiên đợi giờ ”hành quyết”.
Thành tích, công lao để đâu ? Không biết !
Vàng thau, hay dở, phân biệt nữa chăng ?
Thôi ! Chẳng qua thế sự thăng trầm,
Nước có khi đầy khi vơi, trăng có lúc tròn lúc khuyết.
Được tin dữ, thân quyến, bạn bè có lời tiễn biệt.
Không lễ nghi kèn trống, không cả một nén hương !
Âm thầm nuốt nỗi xót thương,
Lặng lẽ nén niềm bi phẫn.
Tiết tháng bẩy, đìu hiu gío thổi, trời tối sầm như phủ mầu tang.
Mùa Trung Nguyên rả rích mưa rơi, đất nước sũng tựa đầm nước mắt.
Xác còn đó, mà hồn đã khuất,
Não lòng ai khi lững thững bứơc gần.
Hồn khôn thiêng, xin phù hộ thân nhân,
Cùng bè bạn thoát cơn hoạn nạn (22).
Hãy cùng nhau thành tâm cầu nguyện,
Vững lòng tin có luật tuần hoàn.
Sau cơn giông, gío lặng mây tan,
Trời Việt Nam rực rỡ huy hoàng.
Trong niềm vui nếp sống tự do,
Chu Văn An phục sinh,
Ngời sáng
Saigon, Trung Nguyên năm Mậu Ngọ, 1978. 

Kể từ ngày trường Bửơi được đổi tên thành trường Chu Văn An, 1945 cho tới ngày trường Chu Văn An Saigon bị giải thể, 1978, tổng cộng là 42 năm, trải qua 14 đời Hiệu Trưởng (23):


1945-1946 :

.GS Hoàng Cơ Nghị,

.GS Nguyễn Gia Tường

.GS Dương Quảng Hàm

.GS Trần Văn Khang (24)

1946-1948 : Tản cư

1948-1949 : GS Mai Văn Phương,

1949-1950 : GS Đỗ Văn Hoán,

1950-1951 : GS Phạm Xuân Độ,

1951-1957 : GS Vũ Ngô Xán,

1957-1959 : GS Trần Văn Việt,

1959-1963 : GS Nguyễn Hữu Văn,

1963-1964 : GS Đàm Xuân Thiều,

1964-1965 : GS Bùi Đình Tấn,

1965-1968 : GS Dương Minh Kính,

1968-1975 : GS Nguyễn Xuân Quế.


Suốt chiều dài lịch sử gần một thế kỷ, từ 1905, ngày trường Bưởi được thành lập, đến 1978, ngày trường Chu Văn An Saigon bị giải thể, trường Bưởi-CVA đã sản xuất không biết bao nhiêu nhân tài cho đất nước, cho mọi ngành nhất là trong lãnh vực văn học và giáo dục.


Những chức vụ lãnh đạo cao nhất nhì của đất nước như Thủ Tướng thì có Giáo Sư Trần Trọng Kim, Bác Sĩ Phan Huy Quát v.v… Chức vụ Thủ Hiến thì có ông Nguyễn Hữu Trí. Chức vụ Tổng Bộ Trưởng thì có cụ Phạm Quỳnh, cụ Cung Đình Qùy, Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn, Thạc Sĩ Phạm Duy Khiêm, Luật Sư Phan Anh, Luật Sư Trần Văn Tuyên, Giáo Sư Vũ Văn Mẫu, Giáo Sư Vũ Quốc Thông, ông Nguyễn Lương, Bác Sĩ Trần Ngọc Ninh, Bác Sĩ Nguyễn Tấn Hồng, Luật Sư Vương Văn Bắc v.v…Chức vụ Khoa Trưởng các trường Đại Học thì có Giáo Sư Nguyễn Chung Tú, Giáo Sư Phạm Biểu Tâm, Giáo Sư Đặng Văn Chiếu, Giáo Sư Vũ Quốc Thúc, Giáo Sư Nguyễn Cao Hách, Giáo Sư Nguyễn Đình Hòa v.v…

Trong lãnh vực khoa học chúng ta có Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, Kỹ sư Nguyễn Mạnh Tiến v.v…


Trong giới quân nhân, nhiều người đã lên tới cấp tướng như Phan Phụng Tiên, Lê Nguyên Khang, Phan Trọng Chinh, Bùi Thế Lân, Hoàng Cơ Minh v.v…và nhiều người đã bỏ mình ngoài chiến trường như Đại Tá Nguyễn Đình Bảo, Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc, Bác Sĩ Nghiêm Sĩ Tuấn v,v… để bảo vệ miền Nam tự do hoặc quyết chết vinh chứ không chịu sống nhục dưới chế độ Cộng Sản như Hải Quân Trung Tá Hà Ngọc Lương Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn v.v…vào ngày 30/4/1975.


Chú thích :


(1) Theo cụ Đinh Bá Hoàn, cựu học sinh trường Bưởi, thì trường được xây trên đất làng Thụy Khê, tục gọi là làng Bưởi, nhưng theo cụ Nguyễn Quang Nhạ cũng là cựu học sinh trường Bưởi thì trường được xây trên đất làng Yên Thái, tục gọi là làng Bưởi, chuyên nghề làm giấy bản, nên dân Hà Nội, Hà Đông thường gọi là trường Bưởi.


(2) Theo giáo sư Lê Văn Lâm và giáo sư Bùi Đình Tấn, tác giả bản Dự Thảo Kỷ Yếu Trung Học Chu Văn An Saigon thì vị Hiệu Trưởng cuối cùng của trường Bưởi là giáo sư Antoine Perucca.


(3) Theo cụ Đinh Bá Hoàn, lúc đầu với danh xưng là Collège des Interprètes, trường chỉ có hai lớp : Première Année và Deuxième Année. Hai năm sau, tức vào năm 1910, có đủ bốn lớp từ Première Année tới Quatrième a]Année, trường mới được đổi tên là Collège du Protectorat.


(4) Chính vì lý do này mà Tú Tài Local lại khó hơn Tú Tài Pháp và nhiều học sinh trường Bưởi thườngthi cả hai bằng và thường đậu luôn cả hai bằng.


(5) Mặc dầu bị sát nhập vào trường Albert Sarraut, các học sinh trường Bưởi vẫn không chịu nhận mình là học sinh trường Albert Sarraut vì cho đó là điều sỉ nhục, không như mấy anh Albert Sarraut chính cống, thường rất lấy làm hãnh diện mình là dân trờng Tây. Các học sinh gốc trường Bưởi thường không chịu chào cờ Pháp, họ thường lảng tránh ở xa, chờ cho chào cờ xong họ mới lững thững đi vào sân trường.


(6) Cũng theo giáo sư Lê Văn Lâm và giáo sư Bùi Đình Tấn, tác giả bản Dự Thảo Kỷ Yếu Trung Học Chu Văn An Saigon thì giáo sư Hòang Xuân Hãn là Bộ Trưởng Giáo Dục và ông đã ban hành một chương trình giáo dục mới theo đường hướng nhân bản và khai phóng, hoàn toàn Việt Nam.


(7) Vì thời gian làm giáo sư Hoàng Cơ nghị làm Hiệu Trưởng qúa ngắn, chừng bốn tháng, trường lại di chuyển ở nơi khác, nên có người không biết, tưởng rằng vị Hiệu Trưởng đầu tiên của trường Chu Văn An là giáo sư Nguyễn Gia Tường.


(8) Trong bài “Trường Chu Văn An trên núi rừng Việt Bắc” đăng trong Đặc San Bưởi-Chu Văn An của Hội Cựu Học Sinh Bưởi-Chu Văn An Canada vùng Montreal năm 1998 thì sau ngày 19/12/46, ngày Chiến Tranh Việt Pháp bùng nổ, trường Chu Văn An được tản cư tới thôn Đông Lĩnh, xã Đào Gĩa thuộc tỉnh Phú Thọ (vùng Việt Bắc). Hiệu Trưởng là giáo sư Trần văn Khang (giáo sư trường Bưởi) làm Hiệu Trưởng, giáo sư Nguyễn Văn Chiển làm Giám Học. Nhưng theo tôi thì đây là trường Trung Học Kháng Chiến Đào Giã, do chính quyền Việt Minh lập lên với một ban Giám Hiệu mới và ban giảng huấn mới, chỉ có một số nhỏ giáo sư Chu Văn An tản cư tới dạy và một số nhỏ học sinh Chu Văn An tới học mà thôi. Hơn nữa, sau năm 1954, không thấy trường này hồi cư về Hà Nội và trường Trung Học Chu Văn An Hà Nội thì vẫn tồn tại.


(9) Theo Phan Quân, tác giả bài “Ai đã đổi tiên trường Lycée du Protectorat (Bưởi) thành trường Chu Văn An” đăng trong Đặc San CHU VĂN AN năm 2002 của Hội Ái Hữu Bưởi-Chu Văn An N.S.W Australia thì GS Dương Quảng Hàm đã bị tai nạn chết vì bị máy bay Đồng Minh thả bom trong khi ông đang trên đường công tác lo việc di chuyển trường Chu Văn An từ Yên Mô, Ninh Bình trở về Hà Nội.


(10) Theo Cố Nhân, tác giả bài “Chu Văn An những ngày xưa cũ” đăng trên Đặc San Chu Văn An miền đông Hoa Kỳ, xuân 1991, thì trong đêm 19 tháng 12 năm 1946, dân Hà Nội tìm đường lánh nạn bị đạn lạc chết cả ngàn người trong số đó có giáo sư Dương Quảng Hàm. Khi quân Pháp làm chủ được tình hình đi dọn dẹp và góm góp tất cả các xác chết vô thừa nhận và chôn chung vào ngôi mồ tập thể ở cạnh tòa án Hà Nội trên đường Lý Thường Kiệt.


Tuy nhiên có người cho rằng các xác chết được chôn ở trong ngôi mồ tập thể này rất có thể là xác các tù nhân của nhà giam Hỏa Lò Hà Nội. Đa số các tù nhân này là các đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng hoặc của các đảng phái đối lập với Việt Minh tức Cộng Sản. Họ bị chính quyền Việt Minh bắt giữ và đã ra lệnh hành quyết trước khi rút khỏi Hà Nội tương tự như vụ Tết Mậu Thân, 1968 ở Huế. Những xác chết này không thể là những xác chết của những thường dân vô tội; bởi vì trước đêm đó, hầu hết dân chúng Hà Nội đã được Việt Minh ra lệnh di tản từ trước. Số còn ở lại, nếu có, hầu hết là Tự Vệ thành, nhưng nếu là xác của Tự Vệ thành thì tại sao bây giờ Cộng Sản lại san bằng ngôi mồ này đi mà không hề dựng một đài tưởng niệm cho những người đã hy sinh vì tổ quốc ? Còn nếu là xác chết của những đồng bào vô tội ở rải rác kháp nơi trong thành phố thì tại sao lính Pháp không chôn ở nơi khác mà lại mất công đem về tập trung ở đây và chôn tại nơi đây ? Vậy chỉ có thể là xác chết của các tù nhân nhà giam Hỏa Lò Hà Nội đã bị Việt Minh ra lệnh hành quyết trước khi rút lui. Vì số xác chết qúa nhiều, nên lính Pháp đã phải đào một cái hố lớn ngay giữa con đường nhỏ cạnh tòa án để chôn cho tiện.


(11) Với vẻ mặt hân hoan, mắt nhìn cờ đỏ sao vàng tung bay, thầy Sách nói với thầy Nguyễn Tường Phượng : “ Hơn 80 năm mới có ngày hôm nay được trông thấy cờ Việt Nam tung bay phất phới trên kỳ đài.”

(12) Chốn nở hoa tức Thiên Đàng.

(13) Nông gian : Cộng Sản thường tự coi là đại diên của hai giới công nhân và nông dân, nhưng thực ra chúng chỉ là kẻ mạo nhận.

(14) Thày Chu tức Chu Văn An.

(15) Làng Bưởi chuyên làm giấy bản.


(16) Bậc “danh nho” tức Chu Văn An.

(17) Vùng quê : Phú Nhạc Ninh Bình, Sầm Sơn Thanh Hóa.

(18) Chiến tranh Việt Pháp bùng nổ ngày 19 tháng 12 năm 1946.

(19) Đỗ Vị tức Đỗ Hữu Vị.

(20) Hiệp Định Genève ký ngày 20 tháng 7 năm 1954 chia cắt Việt Nam làm hai.

(21) Ngày 30 tháng 4 năm 1975.

(22) Nguyên tác tới đây là chấm dứt. Sau nghe lời bạn hữu, tác giả làm thêm sáu câu cuối.

(23) Nếu kể cả một Cán Bộ Cộng Sản là Giáo Sư Vũ Văn Huệ làm Hiệu Trưởng từ 1975 đến 1978 thì tất cả là 15 vị.

(24) Thực ra GS Trần Văn Khang là Hiệu Trưởng của Trường Kháng Chiến trong thới gian tản cư.


Tài liệu tham khảo :


“Từ Bưởi đến Chu Văn An” của Trương Hữu Lượng “ Đặc San Bưởi-Chu Văn An, Paris 1990.

“Trường Bưởi-Chu Văn An” cuả Vũ văn Phường, Đặc San Chu Van An Bắc Cali số 3/1990.

“Chu Văn An những ngày xưa cũ” của Cố Nhân, Đặc San Chu Văn An miền Đông Hoa Kỳ, xuân Tân Mùi, 1991.

“Hồi ký về trường Bưởi” của Tô Giang Tử Nguyễn Quang Nhạ, Đặc San Chu Van An miền Đông Hoa Kỳ, xuân Tân Mùi, 1991.

“Nguồn gốc trường Bưởi-Chu Van An” của Đinh Bá Hoàn, Đặc San Bưởi-Chu Van An Canada, số 1/1992.

“Vài hàng về trường Bưởi-Chu Văn An” của Đào Hữu Châu, Đặc San Bưởi-Chu Văn An Canada , số1/1992.


“Trường Chu Văn An Hà Nội ngày nay” đăng trong báo Xây Dựng số 40 ngày 30/4/92 tại San Jose, California và được trích đăng lại trong Đặc San Chu Văn An miền Đông Hoa Kỳ, 1993.

“Tài liệu lịch sử trường Chu Văn An” của giáo sư Phạm Biển Thước, Giai Phẩn Chu Văn An Nam Cali, 1994.

“Các đài phát thanh ngoại quốc loan tin VC bắt giữ Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế, một lãnh tụ Phong Trào đòi Tự Do, Dân Chủ và Đa Nguyên”, bản tin của Chữ Bá Anh, Đặc San Chu Văn An Bắc Cali, 3/1990.

“Tiểu sử của Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế” của Trung Ngôn, Tạp Chí Quốc Gia, cơ quan ngôn luận của Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia vùng Montréal số 8 tháng 11 năm1998.

“The Vietnamese ‘s people army” của Douglas Pike.

“Điạ Lý Biển Đông Với Hoàng Sa và Trường Sa” của Vũ Hữu San, cựu học sinh CVA.

“Đặc San Lướt Sóng” số 30 /4/1998.
“Ai đã đổi tên trường Bưởi thành trường Chu Văn An” của Phan Quân đăng trong Đặc San Chu Văn An 2002 cua Hội Ái Hữu Trường Bưởi-Chu Văn An N.S.W Australia.
“Bản Dự Thảo Kỷ Yếu Trung Học Chu Văn An Saigon” của giáo sư Lê Văn Lâm và giáo sư Bùi Đình Tấn năm 2004′

Bài trích đăng trong sách TÀ QUYỀN KHIẾP NHƯỢC (Tạp ghi), Ấn bản năm 2014; Từ tr. 10 đến tr. 29.


*******
Tác giả: Luật Sư LÊ DUY SA, cựu Biện Lý tòa Sơ Thẩm VNCH.

BÙI ANH TRINH * CHO MỸ THUÊ CAM RANH

Inline images 1Hà Nội thuận cho thuê Cam Ranh
Bùi Anh Trinh


“…


Vậy có thể kết luận chuyến đi của ông Phúc là “chốt lại” chuyện cho thuê Cam Ranh đã được hai bên thương lượng lâu nay…”







Đã có thương thảo ngầm trước chuyến đi


Ngày 4/6/2017 VOA đưa ra bài viết của Reuters xác nhận đã có thương thảo riêng giữa CSVN và ông Trump ngay sau khi ông Trump đắc cử. Lý do khiến cho CSVN phải móc nối sớm như vậy là vì Trump tuyên bố sẽ hủy kế hoạch TPP; mà đối với CSVN thì đó là một bi kịch :


“Đi đầu trong việc dàn xếp liên hệ là đại sứ của Việt Nam tại Washington, ông Phạm Quang Vinh … Ông Vinh cũng có vai trò quan trọng liên quan đến Hiệp định Quan hệ Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), nhưng ông Trump đã từ bỏ hiệp định này – một bi kịch đối với Việt Nam”.


“Việt Nam đã bắt đầu vận động hành lang ngay khi ông Trump đắc cử”… .. “Việt Nam đã thu xếp được một cuộc điện đàm giữa hai ông Phúc và Trump hơn một tháng trước khi ông Trump nhậm chức.”


Trước đó CSVN có 7 lần mời ông Trump sang thăm Việt Nam (sic). Việc ông Trump có tham dự APEC và có thăm VN hay không là chuyện của nước Mỹ và chuyện riêng của cá nhân ông Trump. Nhưng bảy lần mời liên tiếp khiến cho các nhà quan sát quốc tế hiểu rằng CSVN muốn ông Trump phải trả lời ngay về một chuyện gì đó chứ không phải là chuyện ông ta thăm Việt Nam.


Trước khi ông Phúc đến Mỹ, VOA đã đưa ra giải thích của ông Murray Hiebert, Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Mỹ : “Ông ấy cần đến để chốt lại chuyện ông Trump sẽ đến tham dự thượng đỉnh APEC”


Không ai tin là ông Phúc đến Mỹ để chốt lại chuyện ông Trump có tham dự APEC hay không. Chuyện “chốt lại” không cần phải có một chuyến đi rình rang và 7 lần thúc hối.


Ngoài ra giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng cũng có nói xa gần: “Vấn đề là liệu ông Phúc có đặt một cái tương quan cá nhân nào tốt đẹp với ông Trump hay không thì nó sẽ thành công rất nhiều”.


Vậy cái “tương quan” đó là gì? Đã có trước khi ông Phúc sang Mỹ, hay là đợi ông Phúc sang Mỹ mới tạo nên cái tương quan đó?… Để làm rõ nghĩa thêm cho câu nói của giáo sư Hùng, ngày 27/5/2016 VOA đã tiết lộ :


“Hãng tin Anh cho rằng đó là kết quả của “các cuộc gọi, các lá thư, các cuộc tiếp xúc ngoại giao và các chuyến thăm cấp thấp khởi sự từ trước cả khi ông Trump nhậm chức ở Washington, nơi Việt Nam vẫn duy trì một nhà vận động được trả giá 30 nghìn đôla một tháng”.


Rõ ràng đã có tiếp xúc mật từ khi ông Trump mới đắc cử Tổng thống Mỹ. Sau đó là chuyến đi Mỹ của Thứ trưởng ngoại giao Hà Kim Ngọc, rồi Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, và cuối cùng là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.


Kết quả “đi không về rồi” của ông Phúc chỉ là kết quả bề ngoài


Ngày 1/6/2017 Thông tấn xã CSVN đưa tin sau khi ông Phúc kết thúc chuyến đi : “Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã kết thúc tốt đẹp chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ theo lời mời của Tổng thống Donald Trump”.


Nghĩa là chỉ đi thăm chơi và nói chuyện thời tiết, chuyện mua bán, chuyện Bắc Hàn… rồi trở về tay không chứ không đạt được một thỏa thuận nào nơi ông Trump. *( Nội dung của buổi nói chuyện 30 phút đã được ông Trump nói trước với báo chí : “Chúng tôi sẽ nói chuyện về thương mại. Chúng tôi sẽ nói chuyện về Bắc Hàn. Chúng tôi có rất nhiều chuyện để nói…” ).


Không thể nào có chuyện ông Phúc “đi không về rồi” sau 7 lần cương quyết đòi gặp. Cũng không thể nào ông Trump gởi thư mời ông Phúc đến để nghe ông Phúc nói chuyện trên trời dưới đất, kể cả chuyện Bắc Hàn!


Vậy thì những gì trình diễn bên ngoài không phải là mục đích thực của chuyến đi. Mà phải là một đề nghị quan trọng của CSVN. Đề nghị này đã được đưa ra kể từ khi ông Trump mới đắc cử. CSVN cần ông Trump trả lời trước khi họ họp Hội nghị Trung ương 5.


Tiết lộ của Reuters


Lẽ ra thì chuyện có tiếp xúc mật sẽ không bao giờ được tiết lộ nếu như đề nghị của CSVN thất bại. Nhưng 2 ngày trước khi ông Phúc lên đường thì Reuters và VOA làm như vô tình hé lộ một chút bí mật. Thời điểm hé hộ trước chuyến đi có nghĩa là hai bên đã thỏa thuận rồi, chuyến đi chỉ là hợp thức hóa ( ký kết ).


Và sau khi phái đoàn của ông Phúc trở về thì VOA đăng bài bình luận của Reuters với tựa đề là “Việt Nam vận động Bạch Ốc vì lợi ích chiến lược”. Nội dung giải thích rõ hơn về chủ đề của cuộc dàn xếp riêng tư ngay sau khi ông Trump đắc cử.


Tựa đề “Vì lợi ích chiến lược” cho thấy ông Trump mời ông Phúc đến không phải là chuyện thương mại hay là chuyện Bắc Hàn. Mà là chuyện chiến lược. Tất nhiên chuyện chiến lược giữa Mỹ và CSVN thì chỉ có chuyện giữ an ninh ( làm sen đầm ) trên Biển Đông. Vậy cuộc thương lượng mật lâu nay là “đề xuất giải quyết tình hình Biển Đông” của CSVN .


Nhưng CSVN đã có 7 lần thúc giục ông Trump phải trả lời đủ thấy là CSVN đã chấp thuận đòi hỏi lâu nay của Mỹ là Hạm đội Mỹ sẽ đảm trách nhiệm vụ “cảnh sát biển” tại khu vực Biển Đông với điều kiện Mỹ phải được thủ giữ vị trí chiến lược số một của vùng biển Đông Nam Á là hải cảng Cam Ranh của Việt Nam.


Kết quả dàn xếp giữa hai bên được thấy rõ là khi ông Trump đang bàn bạc ( ký kết ?) với ông Phúc tại Washington thì tại Hà Nội ông McCain đang nói chuyện ( ký kết ?) về hợp tác an ninh trên Biển Đông với Chủ tịch nước CSVN Trần Đại Quang. Qua ngày hôm sau thì ông McCain đến Cam Ranh và lên thăm chiến hạm USS John S.McCain đang neo đậu tại Cam Ranh. Không phải vô tình mà chiến hạm McCain có mặt tại Cam Ranh để tiếp đón ông.


Hẵn nhiên một khi hạm đội Mỹ có nhiệm vụ quốc tế là giữ an ninh trên Biển Đông thì những nước được bảo vệ an ninh phải đóng góp chi phí cho hạm đội Mỹ. Những nước được bảo vệ trực tiếp là Trung Cọng, Việt Nam, Phi Luật Tân, Malysia, Indonesia, Brunei, Đài Loan. Còn những nước được bảo vệ gián tiếp là những nước thường xuyên sử dụng hải lộ Biển Đông như Nhật, Hàn Quốc, Úc, Tân Tây Lan, Anh, Pháp, Ấn Độ…Đặc biệt nếu Trung Cọng thoái thác nghĩa vụ đóng góp thì các nước khác sẽ tình nguyện đóng thay cho TC.


Riêng Việt Nam muốn Mỹ giữ luôn an ninh cho bờ biển Việt Nam thì phải cho Hải quân Mỹ được sử dụng cảng Cam Ranh làm bản doanh của Hạm Đội. Hải quân Mỹ cần một bến cảng chiến lược để làm nơi đồn trú và tiếp liệu. Tuy nhiên nơi đồn trú của một Hạm đội bắt buộc phải là một căn cứ chiến thuật, tức là căn cứ chiến đấu. Không chỉ đơn thuần là tiếp tế hay sửa chữa tàu thuyền.


Mà hễ đã xây dựng căn cứ chiến thuật thì cần phải có hợp đồng thuê mướn dài hạn để Mỹ có thề đổ của xây dựng căn cứ vững chắc, lâu bền chứ không thể nào có chuyện cho ở miễn phí rồi lúc nào muốn đuổi thì đuổi. Tốt nhất là cho thuê trong 99 năm ( coi như bán ).


Tóm lại, Reuters và VOA muốn xác nhận là ông Trump và CSVN đã có thương lượng về Cam Ranh từ tháng 11 năm 2016 và nay ông Phúc đi Mỹ để “chốt lại”. Dĩ nhiên chuyện “chốt lại” chỉ là kết quả của 7 tháng thương lượng và những chuyến đi con thoi. Mà chuyến đi con thoi sau cùng là chuyến đi của ông John McCain đến Cam Ranh.


Thông cáo kết thúc của phái đoàn “John McCain” cho biết phái đoàn đã tiếp xúc với Chủ tịch nước, Bộ trưởng Quốc phòng, Chủ tịch Quốc hội và những đại biểu Quốc hội khác trong kế hoạch Mỹ hỗ trợ an ninh và hợp tác quốc phòng với CSVN :


“…chuyến thăm được tiến hành trong bối cảnh có những diễn biến đáng ngại khu vực và những thách thức gia tăng tại vùng Biển Đông”…. “Đoàn nghị sĩ Hoa Kỳ tìm cách mở rộng hỗ trợ an ninh và hợp tác quốc phòng với phía Việt Nam”…


Đài RFA nhận xét: “Thông cáo của đoàn nghị sĩ Hoa Kỳ nêu rõ điều đáng chú ý là vào khi các vị thượng nghị sĩ Mỹ đang có mặt tại Việt Nam thì chính quyền của tổng thống Donald Trump tuyên bố mong muốn làm sâu sắc thêm mối quan hệ đối tác toàn diện với Việt Nam sau chuyến công du của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc”.


Mỹ và CSVN đẩy mạnh hợp tác giữ an ninh trên Biển Đông chứ không phải một mình Mỹ đối phó với TC trên Biển Đông. Nhưng vai trò của CSVN chỉ là cung cấp nơi đồn trú cho hạm đội Mỹ, tức là cho thuê cảng Cam Ranh.


Vậy có thể kết luận chuyến đi của ông Phúc là “chốt lại” chuyện cho thuê Cam Ranh đã được hai bên thương lượng lâu nay. Có thể hai bên đã thỏa thuận xong mọi chuyện nhưng chưa công bố vì cần một khoảng thời gian để chuẩn bị dư luận.


Bùi Anh Trinh

Thursday, June 15, 2017


TRUYỆN KIỀU

 
Ðàm Trung Pháp: Đọc Lại Truyện Kiều, Yêu Thêm Tiếng Việt

Chủ Nhật, ngày 04 tháng 9 năm 2016

Thi hào Nguyễn Du ra đời trong hậu bán thế kỷ 18. Bút giả thường tự hỏi có phải trong thời điểm ấy Thượng Đế đã nổi hứng rộng lượng và công bình mà ban cho nhân loại những thiên tài văn chương xuất chúng chăng? Như Johann Wolfgang Goethe sinh năm 1749 tại Đức Quốc, Nguyễn Du sinh năm 1765 tại đất nước chúng ta, Francois-René Chateaubriand sinh năm 1768 tại Pháp Quốc, và William Wordsworth sinh năm 1770 tại Anh Quốc.

Goethe, đệ nhất văn hào dân tộc Đức, năm mới 25 tuổi đã viết cuốn truyện tình bi đát mang tên Die Leiden des jungen Werthers (Những nỗi ưu sầu của chàng trai trẻ Werther) để nói về mối ưu sầu thực sự của chính ông: Goethe đã gặp và yêu say đắm trong tuyệt vọng một phụ nữ đã đính hôn với người khác. Câu chuyện lãng mạn và bi thảm ấy khiến ông lẫy lừng danh tiếng khắp Âu Châu và cũng làm cho một vài giai nhân đa sầu đa cảm đang thất tình giống người trong truyện nhảy xuống hồ tự tử mà trong tay còn nắm chặt cuốn tiểu thuyết kia! Chateaubriand có thể được coi là nhà văn tiên khởi của trào lưu văn chương lãng mạn nước Pháp qua cuốn tiểu thuyết Atala, một câu chuyện vừa buồn vừa mãnh liệt đam mê trong khung cảnh thiên nhiên rực rỡ của rừng núi Bắc Mỹ, một nơi mà Chateaubriand chưa từng thăm viếng và chỉ được làm quen với các sắc dân da đỏ qua sách vở. Và Wordsworth, đệ nhất thi nhân bên trời Anh Quốc, năm chưa đến 30 tuổi đã cùng Coleridge xuất bản tập thơ Lyrical Ballads, mở đầu cho thời đại thi ca lãng mạn trong nền văn học quốc gia ấy. 
Thế còn Nguyễn Du của chúng ta thì sao? Hãy nghe lời người ngoại quốc ca ngợi thi hào họ Nguyễn trước đã. Thi sĩ lẫy lừng người Ấn Độ chuyên làm thơ bằng tiếng Anh mang tên Rabindranath Tagore (giải Nobel văn chương 1913) khi viếng thăm Việt Nam năm 1929 đã coi Nguyễn Du là vị thi sĩ đứng thứ 3 trong hàng ngũ những thi sĩ muôn thuở, chỉ sau Lý Bạch và Victor Hugo (theo học giả Thái Văn Kiểm). Văn sĩ Pháp René Crayssac đã dịch Truyện Kiều sang tiếng Pháp và cho rằng áng văn kiệt tác của Nguyễn Du có thể so sánh mà không sợ kém các văn chương kiệt tác, vô luận ở thời nào và ở xứ nào (theo học giả Đào Duy Anh).  Như vậy thì thiên tài thi ca họ Nguyễn của chúng ta khi đứng cạnh những đại danh văn chương của nhân loại cũng ngang ngửa với họ, cũng đều “mười phân vẹn mười” cả, nhưng riêng đối với bút giả thì đọc thơ Nguyễn Du thích thú gấp bội phần đọc các tác phẩm của các vị ngoại quốc kia, vì bút giả là người cùng một ngôn ngữ và văn hóa với Nguyễn Du.
Nguyễn Du (ND) sinh năm 1765 trong một danh gia vọng tộc. Cha là hoàng giáp Nguyễn Nghiễm, người Hà Tĩnh, làm thủ tướng triều Lê. Mẹ là Trần Thị Tần, người Bắc Ninh, kém chồng 32 tuổi. ND mồ côi cha năm 11 tuổi và mồ côi mẹ năm 13 tuổi. Anh cả là tiến sĩ Nguyễn Khản, thượng thư bộ Lại, anh thứ hai là Nguyễn Điều từng làm trấn thủ Sơn Tây.

Năm 1783, lúc 18 tuổi, ND đậu tam trường (tú tài); cùng năm này, một người anh tên là Nguyễn Đề đậu thủ khoa kỳ thi hương (cử nhân). Tình hình chính trị lúc ấy thực bất ổn. Năm 1788 Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh; Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế ở Huế. Năm 1789 Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Năm 1802 Gia Long diệt Tây Sơn, bắt đầu triều Nguyễn; ND làm tri huyện Phù Dung (thuộc Hưng Yên ngày nay), mấy tháng sau thăng tri phủ Thường Tín (thuộc Hà Tây ngày nay). Năm 1809 ND làm cai bạ ở Quảng Bình. Năm 1813 ND thăng cần chánh điện học sĩ, chánh sứ sang nhà Thanh. Năm sau đi sứ về, thăng tham tri bộ Lễ. Năm 1820 Gia Long mất, Minh Mệnh nối ngôi. ND được cử chánh sứ sang Tàu báo tang và cầu phong, nhưng chưa kịp lên đường thì bị bệnh và qua đời, thọ 56 tuổi.
Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa biết rõ là khi nào ND viết Truyện Kiều, trước hay sau khi đi sứ sang Trung Quốc năm 1813? Theo Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim thì Truyện Kiều (TK) bắt nguồn từ một tiểu thuyết Tàu của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân, văn chương tầm thường, về một người đàn bà tài sắc, có lòng trung, hiếu, tiết nghĩa, mà đời bị bèo giạt hoa trôi. ND bỏ bớt những chỗ rườm rà, thô lỗ, dơ bẩn. So với tiểu thuyết Tàu thì TK của ND thanh nhã và văn vẻ hơn nhiều. Hà Như Chi, khi so sánh TK với tiểu thuyết Tàu nguyên thủy, nhận định TK là một công trình nghệ thuật cân đối hoàn hảo, kết cấu chặt chẽ, tình ý đậm đà khéo léo, văn chương tươi đẹp, thắm đượm màu sắc Việt Nam và dẫy đầy thi vị.
Vẫn theo Hà Như Chi, một nàng Kiều tài hoa duyên dáng như thế lại là nạn nhân của một số mệnh vô cùng khắt khe đã đánh mạnh vào tâm hồn ND và thúc giục cụ viết nên TK để hả hê những mối cảm tình đối với một người đã được cụ xem như đồng hội đồng thuyền với mình: ND phải quên nhà Lê mà ra làm quan với nhà Nguyễn thì có khác chi, vì chữ “mệnh” oái oăm, nàng Kiều phải bỏ Kim Trọng mà chịu bước giang hồ?  Đúng là:
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Nội dung TK gồm 3254 câu thơ lục-bát có thể chia làm 3 phần: (1) Thúy Kiều và Kim Trọng gặp gỡ và gắn bó với nhau; (2) Những nỗi khổ của Thúy Kiều trên bước đường luân lạc; và (3) Kim-Kiều tái ngộ. TK còn là một tác phẩm chứng minh cho định luật “tài mệnh tương đố”: Kiều là kẻ tài hoa nên phải mệnh bạc. Trong phần kết, may thay, ND cũng cho chúng ta tin tưởng rằng thiện tâm có thể cải hóa được số mệnh:
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Những phân đoạn chính trong TK như sau:  Phần (1): (a) Xác định thuyết tài mệnh tương đố, (b) Kiều gặp Kim Trọng, (c) Kiều và Kim Trọng thề thốt gắn bó. Phần (2): (a) Gia biến nàng Kiều, (b) Mã Giám Sinh mua Kiều, (c) Kiều phó thác tâm sự cho em, (d) Mắc tay Tú Bà, (e) Đi trốn với Sở Khanh, (f) Kiều tiếp khách trong lầu xanh, (g) Kiều được Thúc Sinh chuộc ra, (h) Mắc tay Hoạn Thư, (i) Đi trốn, (j) Giác Duyên sợ liên lụy, gửi Kiều cho Bạc Bà, (k) Bạc Bà lừa dối, Kiều lại bị bán vào lầu xanh, (l) Được Từ Hải chuộc ra, (m) Kiều báo ân báo oán, (n) Mắc mưu Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị giết, (o) Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường, (p) Giác Duyên vớt Kiều. Phần (3): (a) Kim Trọng trở lại vườn Thúy, (b) Lấy Thúy Vân, (c) Làm quan ở Lâm Tri, (d) Tìm Kiều ở Hàng Châu, (e) Giác Duyên đưa đến gặp Kiều, (f) Kim-Kiều xem nhau như bạn, (g) Kiều đánh đàn kết liễu đời bạc mệnh, (h) Kết thúc: Thiện tâm sửa được số mệnh.
Chúng ta đã nghe người ngoại quốc ca tụng TK trên đây, và bây giờ chúng ta tìm hiểu xem các nhà phê bình văn chương người Việt nghĩ gì về tuyệt tác phẩm này của Nguyễn Du. Bút giả xin đóng góp trong phần này này bằng cách tóm lược một số nhận định về giá trị TK của các nhà phê bình tên tuổi từ trước đến nay để chúng ta có một cái nhìn bao quát.
PHẠM QUỲNH: Sau khi cho rằng TK của ND hay hơn cả văn chương của Khuất Nguyên bên Tàu và  văn chương của Racine và Bossuet bên Tây, Phạm Quỳnh trong ngày giỗ ND năm 1924 tại Hà Nội đã thề trước anh linh thi hào họ Nguyễn rằng “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn, còn non còn nước còn dài, chúng tôi là kẻ hậu sinh xin dầu lòng dốc chí cố gia công trau chuốt lấy tiếng quốc âm nhà, cho quốc hoa ngày một rực rỡ, quốc hồn ngày một tỉnh táo, quốc vận ngày một vẻ vang, ngõ hầu khỏi phụ cái chí hoài bão của tiên sinh, ngậm cười chín suối cũng còn thơm lây” (Tạp chí Nam Phong, tháng 8, 1924). Vì những lời này mà Phạm Quỳnh bị hai cụ nghè Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng xỉ vả thậm tệ (bút giả sẽ nói tiếp về vụ lên án quá nặng tay này ở một đoạn sau).
NGUYỄN TƯỜNG TAM: Nhà văn thủ lãnh của Tự Lực Văn Đoàn viết trong Tạp chí Nam Phong năm 1924: “Cái làn sóng thơ Kiều hình như lai láng khắp cõi Nam. Trừ những câu ca dao ra, thật không có quyển truyện nào phổ thông trong đám dân gian bằng Truyện Kiều. Vì văn Kiều hay quá, nên những người nhà quê không có học thức cũng thích xem và thích ngâm nga. Nhưng nói đến cái hay của văn Kiều thì chưa biết thế nào mà kể được Tôi xin nói quyết một lời rằng: Mong được một quyển truyện nào hay hơn Truyện Kiều là mộng tưởng. Cái trình độ thơ quốc ngữ đến như thế là tuyệt đích rồi.” Nhận định về câu thơ thuộc loại văn hữu dư ba là câu “Lơ thơ tơ liễu buông mành,” Nguyễn Tường Tam thấy ba chữ “lơ thơ tơ” nghe rất êm tai, hay về phần tưởng tượng ít mà hay về phần âm điệu êm ái nhiều hơn. Và câu “Nách tường bông liễu bay ngang trước mành” ông thấy rất hay về cảnh sắc.  Ông cũng thấy trong TK nhiều chỗ cảnh và người có liên lạc, đúng như:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Như lúc Thúc Sinh trở về với Kiều, trông ra cảnh vật cũng hình như chia vui với mình:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng
Và khi Kiều và Kim gặp nhau lần đầu, lúc từ giã, cô Kiều còn trông theo, nhưng nào thấy gì đâu, chỉ thấy:
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Hai câu đệm ấy vào thật là tả rõ được cái buồn, cái nhớ của cô Kiều mà hình như cảnh vật cũng âu sầu!
VŨ ĐÌNH LONG: Lấy âm nhạc làm ẩn dụ để lượng giá TK, phê bình gia Vũ Đình Long viết trong Tạp chí Nam Phong năm 1924 rằng “TK thực là một cây đàn tuyệt quý không phím không dây. Tác giả lấy đầu lưỡi mà nẩy lên tiếng, mỗi đoạn văn là một cung, mỗi câu văn là một điệu, mỗi chữ là một tay nỉ non thánh thót, réo rắt tiêu tao, đêm khuya canh tĩnh mà nghe người tốt giọng ngâm Kiều thì còn đàn nào hay bằng nữa … Cụ ND không phải là nhà thi sĩ, cụ chính là Thần Thơ vậy!” Theo Vũ Đình Long, những câu Kiều nói với chàng Kim thật hay thật tình, như:
Thưa rằng đừng lấy làm chơi
Rẽ cho thưa hết một lời đã nao
Chữ “rẽ” dùng có thần tình không? Ta thấy hình như nàng Kiều lấy tay gạt chàng Kim ra vậy! Năm lần láy chữ “còn” trong hai câu thơ sau đây là một tuyệt chiêu, như thể một lời thề nguyền vĩnh cửu:
Còn non, còn nước, còn dài
Còn về còn nhớ đến người hôm nay
Tình nhân tương tư nhau là những cảnh não nùng mà ND tả rất khéo. Chàng Kim nỗi lòng canh cánh luôn nghĩ đến người đẹp đã gặp trong ngày hội Đạp Thanh:
Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!
Đêm không ngủ được, vẩn vơ ngọn đèn tàn:
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng
Cậu đồ đã mang nặng gánh tương tư thì còn thiết gì đến sách, đến bút, đến đàn:
Phòng văn hơi giá như đồng
Trúc xe ngọn thỏ, tơ chùng phím loan
Ngồi nghe tiếng gió đập vào mành cũng nhớ đến ai – vì nhớ nhung mà trà mất ngon, mùi hương kém ngát:
Mành tương phân phất gió đàn
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình
LƯU TRỌNG LƯ:  Để đáp lễ lời cụ nghè Ngô Đức Kế cho rằng TK “chỉ là một thứ văn chương ngâm vịnh chơi bời, để lúc thanh nhàn mà đọc đôi câu cho tiêu khiển, chứ không phải là một thứ văn chương chính đại theo đường chính học, mà đem ra dạy đời được đâu” (báo Hữu Thanh, tháng 9 năm 1924) và nhất  là lời kết tội gay gắt của cụ nghè Huỳnh Thúc Kháng rằng “Truyện Kiều là một thứ dâm thư, rõ không ích mà có hại … Hiện xã hội ta ngày nay mà diễn ra những tuồng thương phong, bại tục kia, cái giống độc con đĩ Kiều gieo vào trong cõi tư tưởng không phải là ít…” (báo Tiếng Dân, tháng 9 năm 1930), Lưu Trọng Lư viết trong tuần báo Phụ Nữ Thời Đàm vào cuối năm 1933: “Ai muốn làm thánh hiền thì đi đọc Ngũ Kinh, Tứ Thư. Hãy để Truyện Kiều lại cho bọn chúng tôi là hạng người trong những phút mệt nhọc, buồn rầu, chán nản, cần phải ngâm nga những câu như:
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”
ĐÀO DUY ANH: Để kết luận tập “Khảo Luận về Kim Vân Kiều” xuất bản năm 1943, học giả Đào Duy Anh khẳng định “Nguyễn Du đã gieo trong lòng ta một mối tin chắc chắn, một mối hy vọng dồi dào với tiếng nói của ta.” Cũng theo ông, ở thời Lê mạt, ta đã thấy có những tác phẩm có giá trị như Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm, Phan Trần Truyện, Hoa Tiên Ký … viết bằng quốc âm, nhưng lời văn điêu trác, hay dùng điển cố, cho nên chỉ được các hạng thượng lưu trí thức thưởng lãm, mà không phổ cập trong dân gian. Duy Truyện Kiều văn chương đủ tính nghiêm trang, đường hoàng, điêu luyện, đủ khiến cho kẻ học thức phải khâm phục và yêu mến, mà lại đủ cả tính giản dị, phổ thông để khiến cho bình dân hiểu được mà thưởng thức.
TRẦN TRỌNG KIM: Trong cuốn “Truyện Thúy Kiều” do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo xuất bản năm 1925, học giả Trần Trọng Kim viết: “ND khéo dùng lối hoạt họa, chọn cái hình dáng nào rõ thật nổi, rồi tìm một vài chữ thật đúng mà tả ra, hễ đọc qua là nhận ngay được chân tướng:
Kim Trọng:
Phong tư tài mạo tuyệt vời
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa
Mã Giám Sinh:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Tú Bà:
Thoắt trông nhờn nhợt màu da
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao
Sở Khanh:
Một chàng vừa trạc thanh xuân
Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng 
Từ Hải:
Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao” 
HOÀI THANH: Theo bài viết “Quyền Sống Của Con Người Trong Truyện Kiều” của nhà phê bình Hoài Thanh năm 1949, nếu nói về mức độ say Truyện Kiều thì không ai bằng ông nghè Chu Mạnh Trinh (một con người hào hoa phong nhã kiểu Kim Trọng). Ông nghè lãng mạn này không phải chỉ say văn chương Truyện Kiều mà lại còn say luôn cả nàng Kiều như say một giai nhân có thực, đến nỗi đã nói đến những chuyện si tình như thêu tên Kiều vào tay áo, mơ tưởng dựng một ngôi nhà vàng cho Kiều ở, mượn cỏ thơm gọi hồn Kiều về, và thấy như Kiều về thật! Chuyện lạ đời này cũng có thể hiểu được, vì theo Hoài Thanh, “ND có thể dạy cho ta biết ghét, biết yêu. Ghét những cái bất lương trong xã hội. Yêu những cảnh sống đáng yêu và nhân đó tránh cuộc sống tẻ nhạt, hiu hắt, cuộc sống của cỏ cây… Những cử chỉ uể oải, những câu nói thiếu lòng tin, những cái nhìn hời hợt, những tâm tư mệt nhọc hình như đương chờ đợi một cơn gió nào … TK ngay giờ đây vẫn còn khả năng cải tử hoàn sinh, vẫn có thể gieo chất nồng say vào cuộc sống…”
NGUYỄN LỘC: Trong cuốn sách “Văn Học Việt Nam Nửa Cuối Thế Kỷ 18” xuất bản năm 1997 tại Hà Nội, nhà biên khảo Nguyễn Lộc có những nhận xét tinh tế về cách sử dụng ca dao, tục ngữ trong TK, mà bút giả xin tóm lược trong những đoạn dưới đây.
Có thể nói trong TK có hàng
mấy chục câu thơ ND trực tiếp rút ra từ ca dao. Rất có thể hai câu:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường 
là rút ra từ câu ca dao:
Tiễn đưa một chén rượu nồng
Vầng trăng xẻ nửa tơ lòng đứt đôi 
Ca dao trong TK được ND sử dụng như một thứ chất liệu nghệ thuật, chứ không như những trích dẫn. Không có câu nào ND dùng lại nguyên vẹn, mà tất cả đều nhào nặn lại cho phù hợp với phong cách chung của nhà thơ trong tác phẩm. TK có những câu thơ không thấy dấu vết cụ thể của ca dao, mà ai cũng nhận ra ảnh hưởng của ca dao, như :
Xót thay huyên cỗi xuân già
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi
Chốc đà mười mấy năm trời
Còn ra khi đã da mồi tóc sương 
ND cũng dùng rất nhiều tục ngữ, như : 
Ra tuồng mèo mả gà đồng
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào 
hoặc:
Bề ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nham hiểm giết người không dao 
Ngôn ngữ TK vừa súc tích chính xác, đồng thời lại vừa giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu. ND có thể bằng một vài câu thơ khắc họa lên sắc nét chân dung ngoại hình của một nhân vật, hay miêu tả một biến cố, một cảnh ngộ. Một học trò giỏi đi thi bị rớt có thể tự an ủi bằng cách lẩy hai câu thơ súc tích, hợp tình hợp cảnh của TK: 
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần 
Tả một chàng đẹp trai hào hoa phong nhã thì ta có thể mượn ngay hai câu ND tả Kim Trọng:
Phong tư tài mạo tuyệt vời
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa 
Hai câu:
Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời 
thực tuyệt đẹp và chí tình để một chàng trai thiết tha căn dặn người yêu khi giã từ. Và khi giấc mơ ấp ủ từ lâu nay mới thành sự thực, ta vội kêu lên:
Đến bây giờ mới thấy đây
Mà lòng đã chắc những ngày một hai 
Qua những nhận định kể trên của các văn nhân lỗi lạc ngoại quốc và Việt Nam về tuyệt tác phẩm TK thì thiên tài Nguyễn Du đã chứng minh một cách hùng hồn rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ tuyệt vời cho thi ca. Còn đợi chờ gì nữa mà chúng ta không sốt sắng đọc lại Truyện Kiều để càng yêu thêm tiếng Việt của chúng ta?
Photo credit = Internet
ĐÀM TRUNG PHÁP  
Góp ý về Nhân Vật Truyện Kiều
Thiếu Khanh

LTG: Trong một email giới thiệu một bài viết rất hay về Nhân Vật Truyện Kiều,Tác giả, ông Tạ Quang Khôi, nói người ta "tôn thờ Truyện Kiều một cách mù quáng."
Tôi mạo muội góp một chút ý kiến thô thiển về chỗ này.
Từ trước đến nay Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du không chỉ được ca tụng không thôi (thực ra không phải hoàn toàn là mù quáng đâu) mà cũng bị không ít người chê. Người khen và người chê Truyện Kiều không cùng đứng trên một mặt phẳng mà họ thuộc hai phạm trù riêng biệt, có lẽ không liên quan gì với nhau: Văn chương và luân lý. Người khen cho Truyện Kiều là một viên ngọc về văn chương, người chê cho Truyện Kiều là dâm thư, có hại cho tinh thần đạo đức của... phái nữ! ("Đàn ông chớ đọc Phan Trần / Đàn bà chớ đọc Thúy Vân Thúy Kiều"). Nhưng cũng có thể với quan niệm "Văn dĩ tải đạo" - Văn chương để chuyên chở đạo lý - mà người ta kết án cả mặt văn chương của Truyện Kiều.
Việc chê Truyện Kiều về mặt luân lý để ghép tác phẩm vào hàng dâm thư thì cần được xem xét lại. Ngày nay cuộc sống đã thay đổi, các khái niệm đạo đức luân lý đã không còn như trước, nên lời chê đó có lẽ không còn hiệu lực nữa.  Thế thì ta bàn về chuyện khen ngợi.
 
Sự ca tụng Truyện Kiều về mặt văn chương, nếu xét từ thời điểm tác phẩm của thi hào Nguyễn Du ra đời có lẽ ta sẽ thấy dễ hiểu, và không có gì là quá đáng. Cách đây gần hai trăm năm,  ngôn ngữ văn học tiếng Việt đang ở mức độ mà, nói theo "phong cách" bây giờ,  "sự phát triển hoàn hảo còn ở phía trước," mặc dù từ lâu trước đó đã có những tác phẩm thơ nôm của Lê Thánh Tôn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm....  Đọc thơ của các cụ ấy dường như chúng ta có cảm giác mình đọc... tư liệu văn học,  chớ ít thấy cảm xúc; ngay cả thơ nôm của cụ Trạng Trình giàu tính dân dã  mộc mạc cũng thế.  Mặt khác, và sở dĩ như thế, vì tác phẩm của các cụ chủ yếu là thuật sự, thuật hoài, kể lại các cảm nghĩ, cảm xúc của cá nhân mình trải nghiệm với cuộc sống, cũng của cá nhân tác giả, và... tải đạo, tức nhằm dạy đời với các quy ước luân lý đạo đức Nho giáo.  

Trong tác phẩm của các cụ, ngay hiønh ảnh của chính tác giả đã khá lờ mờ; dù các cụ có mô tả một đối tượng nào khác thì cũng chỉ với vài nét chung chung, mơ hồ, được nhìn từ xa qua ống kính khuôn mẫu ước lệ. Không một con người nào, không một khuôn mặt nào được vẽ rõ ràng, nói chi đến có một cuộc đời nào được kể ra cho rành mạch. Đó là một trong những tính chất đặc trưng của thể loại văn học phổ biến trong giới nhà nho ngày trước, sản xuất những tác phẩm lụn vụn ngắn ngủn, với bốn câu, tám câu, từ hai mươi chữ (ngũ ngôn tứ tuyệt), 28 chữ (thất ngôn tứ tuyệt) 40 chữ (ngũ ngôn bát cú) và 56 chữ (thất ngôn bát cú). Một truyện ngắn trăm chữ ngày nay chỉ vẽ được vài nét bút sắt nhỏ ri ri, thì với 56 chữ người ta phải "nén" mọi thứ cần diễn tả, và độ nén ấy phải đậm đặc hơn cả các "file" nén .rar hay .zip trên máy tính bây giờ! Cho nên khi một tác phẩm "dài hơi" như Truyện Kiều ra đời đã làm cho người ta... choáng.
 
Truyện Kiều với 3.254 câu thơ  gồm 22.778 chữ đủ là  một kỷ lục ghê gớm rồi, lại mô tả rất nhiều con người thuộc nhiều thành phần trong xã hội thời đó là một chuyện rất mới. Nhưng điều đặc biệt và đặc sắc hơn hết là ngôn ngữ của thơ rất trau chuốc, bóng bẩy, khiến thể thơ lục bát đằm thắm của ca dao trở nên càng lộng lẫy sang trọng trong lâu đài văn học. Dù người ta có thể kể ra một số câu thơ  khá "vè" kiểu như  "Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân," hoặc  "Thanh minh trong tiết tháng ba /  Lệ là tảo mộ hội là đạp thanh" vân vân, nhưng so với nhiều truyện thơ dân gian khác ra đời sau, vào khoảng thế kỷ 19, như "Phạm Công Cúc Hoa," "Lâm Sanh Xuân Nương," "Thạch Sanh Lý Thông," "Trần Minh Khố Chuối", v.v.. thì Truyện Kiều quả là một viên ngọc mà quãng cách giá trị đối với các tác phẩm kia là quá xa.

 
Với ba cái nhất từ lúc bấy giờ: tác phẩm dài nhất, nội dung mô tả mới nhất, ngôn ngữ hay nhất, (chưa nói đến sự thành tựu rực rỡ của thể thơ Lục Bát của dân tộc trong tác phẩm) khiến người ta khen ngợi không tiếc lời là phải. Không mù quáng gì đâu.
Trước khi Truyện Kiều ra đời đã có bản dịch Chinh Phụ Ngâm rất hay của bà Đoàn Thị Điểm (dài 483 câu, có thuyết nói do Phan Huy Ích dịch) từ tác phẩm bằng Hán văn của Đặng Trần Côn; truyện thơ nôm Phan Trần (dài 954 câu, có chỗ nói Bà Đoàn Thị Điểm là tác giả), và có lẽ trễ một chút hoặc đồng thời với Truyện Kiều là truyện thơ Hoa Tiên (1.532 câu) của Nguyễn Huy Tự. (Cả Hoa Tiên và Phan Trần cũng đều "cải biên" từ những tác phẩm văn học Trung Quốc, như Truyện Kiều). Trong số ba tác phẩm đó, Chinh Phụ Ngâm được nói đến nhiều hơn cả. Thế nhưng lời khen ngợi về văn chương có vẻ chỉ tập trung nhiều nhất vào Truyện Kiều. Ngay cả điều này cũng không phải vô cớ. Suốt tác phẩm Chinh Phụ Ngâm người ta chỉ  nghe thấy một tiếng than dài não nuột và bất tuyệt của một người vợ lính, trong khi Truyện Kiều vẽ ra gần như cả một xã hội với nhiều tầng lớp người, với nhiều hoàn cảnh và tâm trạng phức tạp của người trong cuộc. Cụ Hoa Đường Phạm Quí Thích không quá lời khi nói rằng tác giả của nó, cụ Nguyễn Du có cái tâm và con mắt nhìn thấu suốt ngàn đời.
 
Trong Chinh Phụ Ngâm, theo cách mô tả ước lệ truyền thống, dung nhan người chinh phụ thế nào ta không rõ; ngoài việc nhớ chồng đi chinh chiến, sinh hoạt hàng ngày của nàng thế nào ta cũng không biết. Trong khi đó, mỗi nhân vật truyện Kiều được khắc họa rất rõ chân dung, đến nỗi không những danh tính của họ đã đi vào ngôn ngữ của chúng ta như những nhân vật điển hiønh, mà cả trong cuộc sống của xã hội hiện đại, tưởng chừng ta có thể nhìn thấy một số họ đang nhởn nhơ trước mắt: những Mã Giám Sinh "mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao," những tú bà "ăn gì to lớn đẫy đà làm sao,"vân vân.
 
Tôi không phải là nhà nghiên cứu văn học, thành ra đây là những cảm nhận cá nhân có thể là không đầy đủ và không sâu sắc,  nhưng tôi thấy người ta không "tôn thờ Truyện Kiều một cách mù quáng". Ông Tạ Quang Khôi nói người ta "tôn thờ Truyện Kiều một cách mù quáng" theo tôi là không đúng. Tuy nhiên những nhận xét của ông về các nhân vật Truyện Kiều (1) thì quả là không sai. Đây không phải là chuyện "ba phải," mà thuộc hai phạm trù khác nhau (cũng như có người khen ngợi văn chương Truyện Kiều trong khi người khác chê Truyện Kiều là dâm thư). Điều ông Tạ Quang Khôi nói là thuộc về lãnh vực xây dựng tâm lý nhân vật.
Các nhà văn xưa của ta có vẻ hoàn toàn không quan tâm đến khía cạnh này. Một phần là do nền văn học của ta lúc đó chưa phát triển, chưa có "nhà văn", và (cho nên) chưa có nhu cầu khắc họa tính cách nhân vật. (Trong khi trong văn học Tàu có những hình tượng điển hình nổi bật như Tôn Ngộ Không, Bát Giới... [Tây Du Ký], Tào Tháo, Trương Phi... [Tam Quốc Chí], Lỗ Trí Thâm, Lý Quì... [Thủy Hử] v.v...). Phần khác, có thể nào những cái bất cập trong tính cách các nhân vật truyện Kiều mà ông Tạ Quang Khôi nêu ra vốn đã có sẵn từ trong tác phẩm gốc của nó là bộ Phong Tình Lục của Tàu (2) mà khi mượn cốt truyện để "cải biên" thành Đoạn Trường Tân Thanh cụ Nguyễn Tiên Điền, tuy có con mắt thấu suốt nghìn đời nhưng vốn chưa quan tâm đầy đủ đến tâm lý nhân vật, đã không nhận ra sự thiếu nhất quán của các tính cách ấy chăng?
 
Nói Nguyễn Du chưa quan tâm đầy đủ, vì nên biết rằng Phong Tình Lục không phải là một tác phẩm nổi tiếng trong văn học cổ Trung Quốc, và cô Kiều trong đó khá "phô" đã được cụ Tiên Điền "tút" lại mới đẹp đẽ thanh lịch tài hoa như thế đấy. Nhưng khi gọt dũa lại nhân vật, Nguyễn Du đã để sót những điều biểu lộ sự không nhất quán trong tính cách của họ như ông Tạ Quang Khôi đã vạch ra chính xác. Nhưng đó là sự thiếu sót của một tác giả cách đây hai trăm năm, thời văn học tiếng Việt chưa phát triển. Sau Nguyễn Du gần hai trăm năm, nhà văn Lê Văn Trương đã từng bị coi là người bất chấp tâm lý nhân vật trong các tiểu thuyết "người hùng" của ông đó thôi.
http://truyenkimvankieu.blogspot.com/2009/12/16-nhan-vat-truyen-kieu-ta-quang-khoi.html (2) - Từ trước đến nay, nhiều người đinh ninh Truyện Kiều được Nguyễn Du mô phỏng từ tiểu thuyết Thanh Tâm Tài Nhân của Tàu (trước năm 1975 đã được dịch giả Tô Nam Nguyễn Điønh Diệm dịch ra tiếng Việt và được Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa VNCH xuất bản với tựa "Kim Vân Kiều Thanh Tâm Tài Tử" ). Gần đây có người phát hiện Thanh Tâm Tài Nhân là tác phẩm do một người Tàu dịch từ Truyện Kiều của Nguyễn Du sang chữ Hán. Trong số các nhà nghiên cứu đưa ra nhận định mới này, cụ Hương Ngạn Đào Tử Đàm Duy Tạo (thân phụ của hai Gs Đàm Trung Pháp và Đàm Trung Phán) trong tác phẩm "Truyện Kim Vân Kiều Giảo Đính Tường Giải" (tác phẩm còn dạng bản thảo chưa xuất bản), đã nêu bằng chứng khẳng định rằng Nguyễn Du dựa vào một cốt truyện trong bộ "Phong Tình Lục" của Tàu để sáng tác Đoạn Trường Tân Thanh, và rằng "cuốn tiểu thuyết Thanh Tâm Tài Nhân đích xác là dịch ở truyện Kim Vân Kiều ra". Có thể đọc "Truyện Kim Vân Kiều Giảo Đính Tường Giải" tại đây: http://kimvankieu.wordpress.com/ . Và vẫn còn có thể download bản thảo tác phẩm này tại đây: 

TRẦN TRUNG ĐẠO * NGUYỄN THÁI HỌC

Tưởng niệm VN Quốc Dân Đảng

"Không Thành Công Cũng Thành Nhân"
Nguyễn Thái Học



85 năm Ngày Tang Yên Bái: Không ai trong số họ đã hô “Việt Nam Quốc Dân Dân Đảng muôn năm!" mà hô "Việt Nam Vạn Tuế!" Việt Nam Muôn Năm!".

Trần Trung Đạo


Tưởng Niệm 85 năm Ngày Tang Yên Bái


Vào khoảng thời gian này 85 năm trước, tức vài hôm sau Ngày Tang Yên Bái, ngày 17 tháng Sáu năm 1930, bức hình bên đây được đăng trên báo Pháp. Mười ba chiếc đầu của các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng vừa bị chém còn phơi trên bãi cỏ. Chiếc đầu được đánh dấu tròn được tờ báo ghi chú “đây là đầu của Nguyễn Thái Học”.


Theo tác giả Hoàng Văn Đào trong tác phẩm “Từ Yên Bái tới ngục thất Hoả Lò”: Trong chuyến xe lửa bí mật, riêng biệt khởi hành từ Hà Nội lên Yên Bái, các tử tù cứ hai người còng làm một, trò chuyện ở toa hạng tư trên một lộ trình dài 4 tiếng đồng hồ. Cùng đi với các tội nhân còn có thanh tra sở mật thám Pháp, hai cố đạo người Âu là Linh mục Mechet và Dronet. Máy chém di chuyển theo cùng chuyến xe. Đao phủ thủ phụ trách buổi hành quyết là Cai Công.


Cuộc hành quyết khởi sự vào lúc 5 giờ kém 5 phút sáng ngày 17.6.1930 trên một bãi cỏ rộng với sự canh phòng cẩn mật của 400 lính bản xứ. Xác chết 13 người chôn chung dưới chân đồi cao, bên cạnh đồi là đền thờ Tuần Quán, cách ga xe lửa độ một cây số.


Tác giả Louis Roubaud in trong cuốn sách Việt Nam, xuất bản 1931, được trích dẫn khá nhiều, viết về cuộc khởi nghĩa Yên Bái và những diễn biến tại pháp trường.


Ngay ở trang đầu Roubaud đã viết: “Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam! 13 lần tôi nghe tiếng hô này trước máy chém ở Yên Bái. 13 người bị kết án tử hình đã lần lượt thét lên như vậy cách đoạn đầu đài hai thước”. Tác giả cũng viết về nhà cách mạng Nguyễn Thái Học: “Anh mỉm miệng cười, cực kỳ bình thản, đưa mắt nhìn đám đông công chúng và cúi đầu chào đồng bào rồi cất giọng đĩnh đạc, trầm hùng mà hô lớn: “Việt Nam vạn tuế”. Cô Giang, vợ chưa cưới của Nguyễn Thái Học, cũng có mặt trong đám đông.”


Trong hồi ký Từ Yên Bái Đến Côn Lôn, Nguyễn Hải Hàm tức Ký Thân, người bị kết án tử hình sau Khởi Nghĩa Yên Bái nhưng sau giảm xuống chung thân nơi Côn Đảo, kể lại lời của vị Linh mục chứng kiến giờ phút cuối cùng của 13 Anh hùng Yên Bái: “Ông Học thật tốt. Ông không hề tỏ ra một cử chỉ hay lời nói nào buồn trách Cha như những người kia. Trái lại ông Học nói chuyện với Cha tự nhiên, bình thản như ngày thườn… Quá vui tính… 12 anh kia bị chém trước rồi sau mới là anh Học… Anh Học trước khi lên đoạn đầu đài hô lớn câu Việt Nam Vạn Tuế, và khi hô lớn xong đầu cũng lọt vào thùng mạt cưa bên cạnh. Anh nào cũng hô Việt Nam Vạn Tuế, có anh thì hô Việt Nam Muôn Năm… Nhưng đau lòng nhất là có một vài anh chưa hô hết câu đầu đã rơi xuống thùng mạt cưa”.


Mười ba liệt sĩ lên máy chém thực dân sáng ngày 17 tháng 6 năm 1930: Nguyễn Thái Học, Phó Ðức Chính, Bùi Tư Toàn, Bùi Văn Chuẩn, Nguyễn An, Hà Văn Lạo, Ðào Văn Nhít, Ngô Văn Du, Nguyễn Ðức Thịnh, Nguyễn Văn Tiềm, Ðỗ Văn Sứ, Bùi Văn Cửu và Nguyễn Như Liên.


Đảng trưởng Nguyễn Thái Học và 12 đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng đã dành hơi thở cuối cùng của đời mình trên mặt đất này để gọi tên hai tiếng Việt Nam trước khi bước lên máy chém. Như hai tác giả Louis Roubaud và Hoàng Văn Đào viết, không ai trong số họ đã hô “Việt Nam Quốc Dân Đảng muôn năm”.


Đó cũng là điểm khác biệt chính giữa các đảng cách mạng thật sự chiến đấu vì tự do, độc lập của dân tộc và đảng Cộng Sản VN. Với những người yêu nước chân chính, đảng cách mạng chỉ là chiếc ghe để đưa dân tộc Việt Nam qua sông trong khi với Đảng Cộng sản chiếc ghe lại chính là dân tộc.


Hôm nay, sở dĩ đảng CS ca ngợi lòng yêu nước của Nguyễn Thái Học chỉ vì ông đã hy sinh, tuy nhiên, nếu ông còn sống và tiếp tục lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng trong giai đoạn 1945, số phận của Nguyễn Thái Học cũng giống như Bùi Quang Chiêu, Trương Tử Anh, Khái Hưng, Phạm Quỳnh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Thế Nghiệp và hàng ngàn người Việt Nam yêu nước bị CS giết mà thôi.


Nguyễn Thái Học khi sống là Đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng nhưng khi chết đã chết như bao nhiêu thanh niên yêu nước khác, thư thái ngâm những vần thơ tuyệt mệnh “Chết vì tổ quốc, chết vinh quang, lòng ta sung sướng, trí ta nhẹ nhàng”. Chàng thanh niên Việt Nam Nguyễn Thái Học chỉ mới 28 tuổi.

Lịch sử mang tính thời đại và tính liên tục. Mỗi thế hệ có một trách nhiệm riêng, nhưng dù hoàn thành hay không, khi bước qua thời đại khác, vẫn phải chuyển giao trách nhiệm sang các thế hệ lớn lên sau. Sức đẩy để con thuyền dân tộc vượt qua khúc sông hiểm trở hôm nay không đến từ Mỹ, Anh, Pháp hay đâu khác, mà bắt đầu từ bàn tay và khối óc của tuổi trẻ. Lịch sử Việt Nam đã và đang được viết bằng máu của tuổi trẻ Việt Nam.


Trần Trung Đạo

Wednesday, June 14, 2017


HẢI SÂM

Hải sâm, vú nàng, máu và nước mắt




0:00:00 /0:06:07



Nói về đất Quảng Ngãi là đang nói đến một vùng đất có nhiều mộ gió để tưởng nhớ các ngư dân đã bỏ mình trên biển và cũng nói về một làng chài mà ở đó, đời sống ngư dân chưa bao giờ bình yên.
Nếu như làng chài Lý Sơn luôn bất an bởi ngư dân luôn bị tàu Trung Quốc đâm chìm, thậm chí xả súng thì làng chài Sa Kỳ, đặc biệt là ngư dân xã Bình Châu lại luôn thấp thỏm bởi lựa chọn chẳng đặng đừng của họ. Đó là đánh bắt trộm hải sâm, vú nàng ở các vùng biển của nước khác.
Hầu hết các gia đình có người bị bắt đều ngại tiếp xúc với người lạ và đóng cửa khi có ai đó bước vào xóm.
Hải sâm, vú nàng là tiếng gọi đầy ma lực mà cũng đầy rủi ro.
Ông Khái, ngư dân xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi chia sẻ với VOA:
"Họ lặn bắt hải sâm thì thu nhập lớn lắm. Một ký họ bán được 700 ngàn. Nếu trúng thì một người được vài trăm triệu, ít thì vài chục triệu."
Ông Thương, thợ lặn hải sâm xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi cho biết:
"Nhà nước không có ủng hộ gì hết, vì nhà nước mình cũng cấm, nhưng mình qua bên đó mình đi ăn trộm."
Làng chài Bình Châu có ba nhóm đánh bắt cơ bản, nhóm gần bờ, nhóm xa bờ và nhóm bắt trộm hải sâm, vú nàng. Những người không còn đủ sức thì đánh bắt gần bờ, những người không sợ Trung Quốc thì ra ngư trường Hoàng Sa đánh bắt và người muốn đổi đời, liều lĩnh một chút thì đi đánh bắt trộm hải sâm, vú nàng ở vùng biển các nước khác như Papua New Guinea, Philippines, Australia…
"Họ đi lặn hải sâm thì đi hai tháng, ba tháng mới về. Qua tận Pháp, Úc, Papua [New Guinea] mới có," ông Khái nói. "Còn mình làm lưới ở đây, hồi êm ái thì bình thường nhưng hồi mưa gió, nước chảy thì nguy hiểm lắm!"
Những ngư dân đi đánh bắt trộm không nhận được hỗ trợ gì của nhà nước, theo lời ông Thương. "Vì mình trộm bên nước của họ, mình đi làm bên nước họ mà bị bắt thì mình tự bỏ tiền ra mà chuộc về thôi chứ nhà nước không hỗ trợ đâu, bên Hoàng Sa mới có hỗ trợ," ông nói.
Hiện nay tại Việt Nam, giá thành một ký hải sâm tươi là 800.000 đồng, một ký vú nàng là 1,6 triệu đồng. Nhưng để có một ký vú nàng hay hải sâm bán ra thị trường, cái giá phải trả của người thợ lặn trộm không hề nhỏ chút nào.
Nếu không bị các nước chủ quyền vùng biển bắt nhốt, phạt tù thì cũng bị chính công việc giết dần giết mòn bởi lặn ở độ sâu 70 mét, 80 mét dưới đáy biển trong vòng vài giờ và tiếp xúc với khí độc, áp suất cao, nguy cơ hỏng bình hơi và vỡ mạch máu rình rập.
Dường như cái chết có thể đến bất kì lúc nào với người lặn hải sâm, vú nàng.
Ông Hùng, người có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết trong nghề thợ lặn, ở Quảng Ngãi nói:
"Đại đa số người đi lặn về là bị [liệt] hết, vì lý do vì sao, vì không có tiền để chữa bệnh, vì ra ngoài biển, lặn sâu quá, độ độc hại quá nhiều. Từ đó dẫn đến việc họ bị bệnh hết, nằm một chỗ."
Vì kế sinh nhai, những người thợ lặn bắt hải sâm bất chấp mọi nguy hiểm tới tính mạng của chính mình. Ông Thương chia sẻ thêm:
"Khổ lắm, đi đây thì không đủ xăng dầu, đi ra Hoàng Sa thì bị Trung Quốc dí. Ở biển mình thì không có hải sâm, vú nàng, vậy nên cứ lén lén vượt ra biển nước ngoài để khai thác lén lút."
Rủi ro nhỏ của người thợ lặn là mất vốn, bị bắt nhốt tù, lao động khổ sai và rủi ro lớn thường là cái chết, mọi sự chấm hết, bỏ lại vợ con, cha mẹ già bơ vơ, lạc lỏng. Như trường hợp cái chết của chồng chị Thúy ở xã Bình Châu là một ví dụ đau lòng.
"Sống ở đây thì không làm biển thì biết làm gì," chị Thúy nói. "Biết ảnh đi lặn thì nguy hiểm đó nhưng biết làm sao. Một bữa trưa em nghe tin bị sự cố bình hơi, ảnh chết. Từ đó gia đình mất đi ảnh, em phải bươn chải qua ngày để nuôi con."
Người ta thường nói rằng nghề biển, đặc biệt là nghề lặn hải sâm, vú nàng là nghề giàu có, xài tiền như lá mít và đôi khi vứt tiền qua cửa sổ. Nhưng người ta cũng nói với nhau rằng sự giàu có của nghề biển và thợ lặn hải sâm, vú nàng ở Việt Nam giống như bọt nước, thoáng chốc đã thấy trắng cả vùng và thoáng chốc tiêu tan.
Và có vẻ như hiếm có nơi nào chúng tôi đến lại im vắng đến lạnh lùng như xóm thợ lặn ở xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Nhóm cộngtác viên của VOA
  https://www.voatiengviet.com/a/hai-sam-vu-nang-mau-va-nuoc-mat/3897493.html


Canh bạc hải sâm




0:00:00 /0:04:42


Đường dẫn trực tiếp
Xóm lặn Bình Châu nằm khuất sau một rừng dương, nối với đường cái huyện bằng một con đường đất nhỏ. Đây là nơi sinh ra và lớn lên của nhiều thế hệ thợ lặn hải sâm của đất Quảng Ngãi.
Nghề lặn hải sâm có một ma lực khó tả, dù biết là nó nguy hiểm đến tính mạng nhưng người ta vẫn không bỏ nghề. Những cơn tai biến áp suất dẫn đến tàn tật vĩnh viễn và cái chết đã khá dày trong kỉ yếu nghề lặn Bình Châu.
Anh Trương Phong, con trai của thợ lặn hải sâm Trương Danh, bị bắn chết ở vùng biển Papua New Guinea chia sẻ với VOA:
“Ba em bị mất vào năm 2016, nghe từ chủ ghe họ báo về như vậy. Năm nay em mới học lớp 11 nên chưa làm được gì để kiếm thêm tiền. Ba mất là trụ cột của gia đình mất đi nhưng giờ vẫn chưa làm được giấy khai tử cho ba vì chưa tìm thấy xác.”
Ông Bùi Tường, thợ lặn hải sâm bị tai nạn nghề và tàn tật vĩnh viễn, giải thích lý do các ngư dân lại đi xa như vậy:
“Nguyên nhân là vùng biển Việt Nam mình ít hải sản rồi, mà tàu thì càng ngày càng nhiều. Vậy nên chỉ cần đi ra vùng biển nước ngoài thì biết chắc chắn là nhiều. Có thể trang trải chi phí cho tàu lớn, đông người. Đi vùng biển nước ngoài chắc chắn làm được nhiều.”
Người không may nằm xuống, bỏ mình giữa trùng dương hoặc trởi về đất liền bằng thân xác lạnh giá. Người may hơn một chút thì bị bắt, bị nhốt tù và gia đình phải chạy vay chạy mượn để chuộc về. Nhưng tiếng gọi hải sâm vẫn chưa ngưng lặng.
Nhóm cộng tác viên của VOA tìm gặp anh Bùi Tấn Sĩ, người vừa được thả về từ Papua New Guinea sau mấy tháng ngồi tù. Anh chia sẻ:
“Về vấn đề giúp đỡ thì nhà nước cũng có quan tâm giúp đỡ nhưng thực ra thì toàn bộ là người nhà chạy vay chạy mướn để nộp phạt rồi đóng tiền vé máy bay về. Chứ nhờ nhà nước hỗ trợ để về không là không có."
Bà Nguyễn Thị Bích, người vừa chuộc chồng về nhà với giá 175 triệu đồng từ Papua New Guinea cho biết thêm:
“Thì chuộc được ảnh về thì ảnh về được tới nhà thì em rất mừng chứ không biết nói sao. Còn tiền bạc thì nhà này vẫn đang thiếu nợ nhà nước.”
Thợ lặn hải sâm Bùi Tấn Quang, người cũng từng bị bắt ở Papua New Guinea vào năm 2016, nói:
“Nói chung đi làm không có bảo hiểm gì hết. Tự dân mình đi làm thôi chứ không có bảo hiểm gì, mình làm được nhiều thì ăn nhiều, ít thì ăn ít thôi, cũng đủ trang trải chứ không giàu có gì.”
Không có hợp đồng lao động, không có hợp đồng bảo hiểm, không có bất kì thứ quyền lợi nào ngoài việc chia lãi với chủ tàu với một tỉ lệ rất thấp, tương đương 3% toàn sản lượng. Và khi có sự cố thì chủ tàu không có bất kì trách nhiện nào với các thợ lặn, từ tai nạn nghề nghiệp cho đến bị bắt hay bị bắn chết, chủ tàu cắt đứt mọi quan hệ với gia đình thợ lặn từ lúc xảy ra sự cố.
“Nói chung ở trong tù thì không được liên lạc gì hết, chỉ có 1 lần hay hai lần gì đó được họ hỗ trợ gọi điện về cho vợ con thôi," anh Quang kể. "Sau ngày tôi ra tù thì người nhà chạy tiền chạy bạc để lo vé máy bay về.”
Ngư trường Việt Nam ngày càng hiếm hải sản, xăng dầu tăng giá lliên tục, giá điện cũng quá cao so với các nước khu vực. Điều này dẫn đến tình trạng giá nước đá cũng tăng và chi phí đánh bắt xa bờ đội lên rất cao.
Lặn hải sâm không tốn chi phí mua nước đá bởi chỉ cần ướp bằng muối và thời gian ướp kéo dài trên ba tháng.
Chấp nhận mọi rủi ro để ra vùng biển nước ngoài bắt trộm hải sâm giống như một giải pháp tình thế để chống thua lỗ của người thợ lặn. Vì chi phí thì thấp, thời gian đánh bắt kéo dài và lợi nhuận thì cao, hải sâm một canh bạc li kì và mạo hiểm.
Nhóm cộng tác viên VOA
 https://www.voatiengviet.com/a/canh-bac-hai-sam/3897507.html











TS. PHẠM CAO DƯƠNG * PHẠM QUỲNH

Việt Nam 1945: Những Ngày Cuối Cùng Trong Cuộc Đời Làm Chính Trị Của Học Giả Phạm Quỳnh

2014 Oct 30 pham-quynh_1922-tai-phap.jpg300



Cho tới nay mọi người đều biết là sau ngày Nhật đảo chánh Pháp, 9 tháng 3, 1945, Nội Các Phạm Quỳnh đã từ chức và được thay thế bởi Nội Các của Học Giả Trần Trọng Kim. Vắn tắt như vậy, nhưng một vấn đề không kém quan trọng cần được đặt ra là chuyện gì đã xảy ra ở chung quanh Hoàng Đế Bảo Đại và thái độ của nhà vua đối với Phạm Quỳnh trong thời gian một tuần lễ kể từ ngày Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nhà vua mà Phạm Quỳnh là tác giả , được ban hành, từ ngày 11 tháng 3 đến ngày 19 tháng 3 năm 1945, ngày Phạm Quỳnh và các thượng thư khác, mà người ta thường quen gọi là Cơ Mật Viện hay Hội Đồng Thượng Thư hay Nội Các Phạm Quỳnh tùy theo từng sách, từ chức và nhà vua tuyên bố đích thân điều khiển việc nước, sau đó đã quyết định thành lập chính phủ mới? Trong bài này người viết xin được phần nào trả lời câu hỏi này.


Nội Các Phạm Quỳnh Từ Chức và Vai Trò của Ngự Tiền Tổng Lý Văn Phòng Phạm Khắc Hoè
Sau Đảo Chính 9 tháng 3, 1945 Hoàng Đế Bảo Đại vẫn còn tín nhiệm Học Giả Phạm Quỳnh và muốn giao thêm nhiệm vụ mới

Theo Bảo Đại qua hồi ký sau này của ông thì một ngày sau khi Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được ban hành, ngày 12 tháng 3, nhà vua có triệu Đại Sứ Yokoyama vào cung để trao bản Tuyên Ngôn Độc Lập của ông. Trong buổi gặp gỡ này Bảo Đại đã đặt vấn đề xứ Nam Kỳ và trước khi cáo lui, Yokoyama với giọng như dò hỏi và nhẹ nhàng gợi ý là giữa lúc Việt Nam đi vào con đường mới, nhà vua có định thành lập một chính phủ hợp bởi những người mới để đáp ứng nhu cầu của một nước Việt Nam mới hay không? 
 
Trước câu hỏi này, Bảo Đại chỉ cười mà không trả lời, nhưng trong hồi ký, ông viết thêm là “Trao sự điều khiển quốc gia cho những người mới…Một trong những mục tiêu mà tôi nhắm tới vào lúc tôi mới lên ngôi.”[2] Những người mới này là những người hoàn toàn mới hay là luôn cả những người có thể được coi là mới vì mới được nhà vua đưa vào làm việc khi ông mới lên ngôi nhưng chưa thi thố được tài năng, trong đó có Phạm Quỳnh và Ngô Đình Diệm? 
 
Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì Bảo Đại không trực tiếp trả lời Yokoyama mà chỉ cười, một cái cười đầy ý nghĩa, mà sau này lời chứng của Phạm Khắc Hoè, đương thời là Ngự Tiền Tổng Lý Văn Phòng của nhà vua, người vốn đã là một cảm tình viên của Việt Minh, nằm vùng trong Đại Nội bên cạnh nhà vua và Nam Phương Hoàng Hậu, nhân chứng người ngoài duy nhất có mặt trong Đại Nội trong những ngày này cho ta biết phần nào. 
 
 Trong hồi ký của Phạm Khắc Hoè, Phạm Khắc Hoè đã ghi rằng sáng ngày 12 tháng 3, một ngày sau khi Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được công bố, nhà vua có bảo ông thảo một “đạo dụ” cử Phạm Quỳnh làm người thay mặt cho Chính Phủ Việt Nam Độc Lập để giao thiệp với người Nhật.[3] Sự kiện này chứng tỏ là vào lúc đó Bảo Đại vẫn chưa có ý định thay thế Phạm Quỳnh và còn tín nhiệm Phạm Quỳnh hay ít ra là muốn dùng Phạm Quỳnh trong thời gian chuyển tiếp, một thời gian vô cùng quan trọng cho vị nguyên thủ quốc gia, sau một biến cố vô cùng trọng đại và bất ngờ xảy ra cho đất nước mình và chính mình là Đảo Chính 9 tháng 3 năm 1945, làm chủ được vị thế của mình, đồng thời lượng định được tình hình rồi mới đi đến những quyết định cuối cùng hay những thay đổi có tính cách lâu dài hơn mà không gây xáo trộn. Điều này cũng được Hoàng Xuân Hãn kể lại khi nhân chứng đáng tin cậy này được Nhà Văn Thụy Khuê phỏng vấn như sau:


“Rồi đến lúc đảo chính Nhật, một hôm tôi ở Hà Nội, nghe tin radio biết rằng ông ấy (Vua Bảo Đại) giao cho ông Phạm Quỳnh liên lạc với người Nhật để đổi mới gì gì đấy. Đợi mãi hơn một tuần không có tin gì mới hết cả. chúng tôi nhiều người nóng ruột lắm. Chính ở Bắc, anh em có mượn một người đi vào Huế dò tin tức, người ta đi xe đạp từ Hà Nội về Huế, lúc ấy tầu hỏa bị đứt đoạn, đi lại khó lòng lắm. Đến lúc trở về đây thì cũng chỉ biết tin vừa vừa thôi, rằng hình như ông ấy giao cho Phạm Quỳnh, nhưng Phạm Quỳnh không làm gì cả.”[4]

Nội Các Phạm Quỳnh từ chức – Vai trò của Ngự Tiền Tổng Lý Văn Phòng Phạm Khắc Hoè
Mọi chuyện đã hoàn toàn đổi khác vì Phạm Quỳnh đã từ chức và lịch sử đã chuyển sang một hướng khác. Theo Phạm Khắc Hoè thì việc từ chức của Nội Các Phạm Quỳnh và sự chấp thuận sự từ chức này của Vua Bảo Đại là do chính Phạm Khắc Hoè gợi ý và chủ động. Thay vì tuân lệnh Vua Bảo Đại, soạn thảo đạo dụ theo ý muốn của nhà vua, Phạm Khắc Hoè đã quay sang nói xấu Phạm Quỳnh và khuyên nhà vua không nên dùng Phạm Quỳnh nữa. Câu chuyện hôm đó kéo dài hơn nửa giờ và Bảo Đại quyết định tạm cử Phạm Quỳnh “cho dễ liên lạc với Nhật đã rồi sau sẽ hay.” Nguyên văn lời kể của Phạm Khắc Hoè như sau:


“Sau một đêm thao thức, suy nghĩ về những chuyện trên, sáng ngày 12 tháng 3, tôi vào Đại Nội làm việc với ý định nêu vấn đề cải tổ Viện Cơ Mật lại với Bảo Đại. Nhưng chưa biết bắt đầu như thế nào?
“Tôi đang ngồi bóp trán suy nghĩ thì một nguời thị vệ vào nói: Dạ bẩm, Hoàng đế ban Cụ qua chầu có việc gấp. Tôi liền sang Phòng Phê thì Bảo Đại bảo thảo một đạo Dụ cử Phạm Quỳnh làm người thay mặt Chính phủ Việt Nam độc lập giao thiệp với tối cao Cố vấn Nhật và các nhà chức trách Nhật nói chung. Thấy tôi làm thinh, tỏ vẻ không thông mệnh lệnh ấy, Bảo Đại nói thêm: Nếu ông thấy có chi khó khăn chi thì cứ đi bàn với ông Lại mà làm cho kịp thời. 
 
Sau phút ngập ngừng, tôi nói toạc ra với Bảo Đại rằng: Phạm Quỳnh là một người xấu, bị mọi từng lớp nhân dân oán ghét và giới nhân sĩ trí thức khinh bỉ, mặc dầu ai cũng biết ông ta học rộng, nói hay cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp. Cho nên nếu nhà vua thực tâm vì dân, vì nước thì không nên dùng Phạm Quỳnh nữa. Câu chuyện kéo dài hơn nửa giờ và cuối cùng Bảo Đại nói: Thôi! Hãy tạm cử Phạm Quỳnh cho dễ liên lạc với Nhật đã, rồi sau sẽ hay.


“Tôi trở về văn phòng thảo ngay một tờ Chỉ cử Lại Bộ Thượng Thư Phạm Quỳnh tạm thời làm nhiệm vụ liên lạc giữa Chính phủ Việt Nam độc lập với các nhà chức trách Nhật, đem lên cho Bảo Đại ký rồi sao lục ngay cho các Bộ và Tối cao cố vấn Nhật. Làm như vậy, tôi chắc rằng những chữ chỉ, tạm thời, và liên lạc thế nào cũng làm cho Phạm Quỳnh căm thù mình! Ấy thế nhưng sáng ngày 14 tháng 3, khi gặp tôi trong buổi lễ cáo yết Liệt Thánh, Phạm Quỳnh đã tỏ ra ngọt ngào với tôi hơn bao giờ hết. Và lúc buổi lễ kết thúc, ông ta thiết tha căn dặn tôi chiều hôm ấy trên đường đi vào Đại Nội, ghé qua Bộ Lại nói chuyện.


“Đúng hai giờ chiều, tôi ghé qua Bộ Lại, Phạm Quỳnh đón tiếp tôi niềm nở hơn trước nhiều và giữ lại nói chuyện hơn một tiếng đồng hồ. Nội dung câu chuyện xoay quanh tương lai tốt đẹp của Tổ quốc và tiền đồ vẻ vang của những người trí thức Âu-Á kiêm thông.”[5]


Đoạn hồi ký này rất quan trọng. Nó cho người ta thấy Hoàng Đế Bảo Đại lúc đầu chưa có ngay ý định thay thế Phạm Quỳnh và lập một chính phủ mới. Không những thế, ngay sau ngày 11 tháng 3, nhà vua đã có ý định bổ nhiệm Phạm Quỳnh thay mặt Chính Phủ độc lập trong việc giao thiệp với Tối Cao Cố Vấn Nhật và các giới chức Nhật khác bằng một đạo Dụ. Nhà vua đã tới văn phòng làm việc rất sớm, tới trước cả Phạm Khắc Hoè, để thực hiện quyết định này.
 
 Nhưng Phạm Khắc Hoè đã phá hỏng tất cả khiến cho ít ra một thời kỳ chuyển tiếp đã không được thực hiện và một tình trạng không chính phủ đã xảy ra từ ngày 19 tháng 3, ngày sáu vị thượng thư từ chức và được chấp nhận cho đến ngày 8 tháng 5, ngày nội các Trần Trọng Kim họp phiên họp đầu tiên với đầy đủ các nhân sự để nhận lãnh công tác và Vua Bảo Đại có lúc “đã cuống lên” vi không kiếm ra được người lập nội các như lời kể của Hoàng Xuân Hãn,[6] trong khi tình hình đất nước vô cùng nghiêm trọng, có nhiều việc cấp bách cần phải làm.


Thành công bước đầu,Phạm Khắc Hoè sau đó đã làm một “tờ chỉ”, một văn kiện kém quan trọng hơn một “đạo dụ” rất nhiềuđể cử Phạm Quỳnh vào vai trò tạm thời nàynhằm hạ thấp vaitrò và uy tín của Phạm Quỳnh. Cho là chưa đủ, có lẽ vì cho tới thời điểm đó Phạm Khắc Hoè chỉ mới hành động do ý riêng của cá nhân mình do sự ghen ghét với Phạm Quỳnh sau “một đêm thao thức suy nghĩ..”, Phạm Khắc Hoè sau đó một mặt hỏi ý kiến Tôn Quang Phiệt, một đảng viên Tân Việt kỳ cựu hoạt động cho Việt Minh ở Huế đương thời, sau này là Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng đầu tiên của tỉnh Thừa Thiên rồi Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chính Thừa Thiên, mặt khác vận động với các thượng thư Bùi Bằng Đoàn và Ưng Úy để hai vị này thuyết phục Bảo Đại loại bỏ Phạm Quỳnh và “vận động toàn thể Cơ Mật Viện từ chức”.[7] 
 
Kết quả là sáng sớm ngày 17, Bảo Đại đã cho gọi Phạm Khắc Hoè qua phòng làm việc của mình, Phòng Phê, và ra lệnh cho ông này soạn thảo một đạo dụ theo đó “từ nay Trẫm sẽ tự cầm quyền và chế độ chính trị sẽ căn cứ vào khẩu hiệu Dân vi quý”.[8] Dụ này mang tên là Dụ Số 1, được ban hành ngày 17 tháng 3 năm 1945.


Tiếp theo đó là “ Khoảng 10 giờ sáng ngày 19 tháng 3, cả sáu vị Thượng thư vào yết kiến nhà vua đưa đơn xin từ chức” và đã được Bảo Đại chấp thuận.[9] Cũng nên để ý là theo hồi ký của Bảo Đại, trước đó Phạm Quỳnh có báo cáo cho nhà vua biết về những phản ứng xảy ra trong Hội Đồng, hiểu theo nghĩa ở đây là Hội Đồng Thượng Thư, theo đó người ta sợ hoặc là người Nhật sẽ đổi ý, hoặc là người Pháp sẽ trở lại, hoặc là Vua Duy Tân hay Hoàng Thân Cường Để sẽ trở về… 
 
Điều này cho phép người ta suy đoán rằng tình trạng hoang mang của các vị thượng thư này ngoài những tin tức liên quan đến tình hình thời đó, phần nào còn là do Phạm Khắc Hoè tạo ra qua hai Thượng Thư Bùi Bằng Đoàn và Ưng Úy. Tuy nhiên, để trả lời Phạm Quỳnh, nhà vua đã dứt khoát bảo với ông này qua nguyên văn: “Ông liệu mà bảo họ chấm dứt những chuyện ăn nói lung tung và mưu mô đó đi… Hoàng đế là Trẫm! Bảo họ đừng quên điều đó. Nếu ngày nào Trẫm phải ra đi, ngày đó sẽ không còn Đế Quốc Việt Nam này nữa!”[10] Những sự kiện này và câu nói của Bảo Đại cho ta thấy một điều là ngay từ những ngày đầu nhà vua đã phải đương đầu với hoạt động của những người Cộng Sản xuyên qua người nằm vùng của họ, ngay trong Đại Nội bên cạnh nhà vua, là Phạm Khắc Hoè, nạn chống đối nhau trong nội bộ các quan lại cao cấp trong triều, đồng thời sự hiểu biết và thái độ cương quyết của ông.


Sự thù ghét và chống đối Phạm Quỳnh của Phạm Khắc Hoè
Câu hỏi được đặt ra là tại sao Phạm Khắc Hoè lại thù ghét và chống lại Phạm Quỳnh như vậy? Trong hồi ký của ông, Phạm Khắc Hoè không cho biết lý do mà chỉ nói rằng Phạm Quỳnh là một người “bản chất xấu xa và nguy hiểm”[11] nhưng người ta có thể suy đoán hai điều. Trước nhất là sự ghen tị của Phạm Khắc Hoè đối với Phạm Quỳnh. Sự ghen tị này bắt nguồn từ sự kiện là cả hai người đều là thân cận của Bảo Đại ở vào thời điểm này. 
 
Thêm vào đó, Phạm Khắc Hoè có gốc quan trường, được huấn luyện theo đường lối chính thống để làm công chức, quan lại với chức vụ trước đó là Quản Đạo Đà Lạt, một chức vụ cũ của Ngô Đình Diệm, còn Phạm Quỳnh không có gốc quan trường mà xuất thân là một nhà báo, một học giả tiếng tăm, bất ngờ được chuyển sang làm Ngự Tiền Văn Phòng rồi Thượng Thư Bộ Học và Lại. Tại sao lại cứ là Phạm Quỳnh mà không phải là Phạm Khắc Hoè? 
 
Thứ hai, Phạm Khắc Hoè vốn cùng quê với Tôn Quang Phiệt và có liên lạc với Tôn Quang Phiệt từ trước nên đã chịu ảnh huởng của Tôn Quang Phiệt, do đó đã trở thành nằm vùng cho Tôn Quang Phiệt. Nhất cử nhất động của vua Bảo Đại cũng như những gì xảy ra ở trong Đại Nội đều được Phạm Khắc Hoè kể cho Tôn Quang Phiệt nghe và hỏi ý Tôn Quang Phiệt hết. 
 
Sự kiện Phạm Quỳnh bị loại bỏ do đó phần nào có thể là do chủ trương và vận động của những người Cộng Sản hay thiên Cộng ở Huế lúc bấy giờ hay xa hơn nữa, y hệt như trường hợp của Trường Thanh Niên Tiền Tuyến do Phan Anh thành lập. Phạm Khắc Hoè chỉ là một nhân vật bị Cộng Sản lợi dụng qua Tôn Quang Phiệt mà thôi.[12] Nhưng dù đúng dù sai, hành động gièm pha, ngăn cản Vua Bảo Đại chính thức chỉ định Phạm Quỳnh vào chức vụ mới bằng một đạo Dụ và thay bằng một tờ Chỉ, rồi sau đó vận động với các nhân vật tai mắt ở Huế lúc đó, tiếp tục lung lạc nhà vua dẫn đến việc sáu vị thượng thư từ chức và tình trạng vô chính phủ đã xảy ra sau đó, khiến cho lịch sử Việt Nam diễn tiến theo một chiều hướng khác. Đây là khúc quanh thứ nhất trong thời gian ngắn ngủi chưa tới 4 tháng của năm 1945. 
 
Nếu không có sự thay đổi do Phạm Khắc Hoè chủ động gây ra này, guồng máy hành chánh của Chính Phủ Nam Triều từ trung ương đến địa phương vẫn tiếp tục hoạt động bình thường, không bị xáo trộn và người dân không bị hoang mang trong thời gian chuyển tiếp như Hoàng Xuân Hãn đã kể, chưa nói tới sự kiện Phạm Quỳnh đã bộc lộ thái độ lạc quan về “tương lai tốt đẹp” của Tổ Quốc và ‘tiền đồ vẻ vang” của những người trí thức Âu Á kiêm thông, vì đây là dịp nhà học giả này thực hiện những gì từ lâu ông vẫn ôm ấp và mong đợi, xuyên qua những bài viết của ông, không phải cho riêng cá nhân ông mà cho cả đất nước và dân tộc. 
 
 Nên nhớ Phạm Quỳnh lúc đó là Thượng Thư Bộ Lại là bộ đứng đầu lục bộ lo việc quản lý các quan văn ở trong nước và trước đó là Ngự Tiền Tổng Lý của Vua Bảo Đại nên ông nắm vững sinh hoạt hành chánh và nhân sự trong sinh hoạt này. Với Phạm Quỳnh trong vai trò liên lạc với người Nhật, việc chuyển giao nền hành chánh từ người Nhật sang người Việt sẽ chấm dứt sớm hơn và triều đình Huế có cơ hội nắm vững quyền hành hơn trước khi tình thế thay đổi, chưa kể tới việc thay thế các quan lại tham nhũng hay bất lực.[13] Đây là một điều đáng tiếc cho Vua Bảo Đại và Đế Quốc Việt Nam nói riêng và cho dân tộc Việt nam nói chung. Cuối cùng, để chính thức giải thích thái độ của mình đối với Phạm Quỳnh, Phạm Khắc Hoè viết:


“Thực ra, tôi không có oán thù cá nhân gì với Phạm Quỳnh và tôi nghĩ hắn có tội, thì sẽ bị nhân dân trừng trị. Khi nghĩ như vậy, tôi không ngờ rằng chỉ khoảng một tháng sau, Phạm Quỳnh đã bị đền tội trước nhân dân.”[14]
Qua đoạn văn này, Phạm Khắc Hoè không nói rõ Phạm Quỳnh đã bị đền tội như thế nào, bị bắt không thôi hay bị bắt rồi bị thủ tiêu và ông đã biết những gì về chuyện này.


Hoạt động cuối cùng của Phạm Quỳnh
Buổi họp chiều ngày 15 tháng 8, 1945 tại văn phòng Vua Bảo Đại với Nhà Vua, Phó Tổng Trưởng kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao Trần Văn Chương và Đại Nội Đại Thần Nguyễn Duy Quang.


Đây có thể là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Phạm Quỳnh gặp lại nhà vua và các giới chức khác trong Đại Nội từ sau khi ông từ chức cùng với Nội Các của ông, từ ngày 19 tháng 3 và người duy nhất nói tới buổi họp này là Phạm Khắc Hoè. Buổi họp diễn ra sau khi Phạm Khắc Hoè vào gặp Vua Bảo Đại để báo cáo với nhà vua về “tin Nhật đã đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện” vào buổi chiều ngày 15 tháng 8 và kéo dài từ khoảng 3 giờ 30 đến hơn 5 giờ. Lúc đầu chỉ có nhà vua, Trần Văn Chương và Nguyễn Duy Quang, sau đó Phạm Quỳnh mới tới do con trai ông là Phạm Bích đương thời làm việc trong Đại Nội dưới quyền của Nguyễn Duy Quang lấy xe của Đại Nội đón vào. Phạm Khắc Hoè không có mặt trong buổi họp này vì ông được nhà vua nhờ sang gặp Trần Trọng Kim để hỏi xem Trần Trọng Kim “có ý kiến chi trước tình hình mới không?” nên ta không biết nội dung là để bàn những gì? 
 
Phạm Khắc Hoè chỉ cho ta biết là trên đường từ dinh Tổng Trưởng Nội Các về “thì gặp trên cầu Tràng Tiền một chiếc xe ô-tô của Đại Nội trong đó có Phạm Quỳnh và con trai của ông ta là Phạm Bích làm việc ỏ Đại Nội dưới quyền trực tiếp của Nguyễn Duy Quang. Tôi liên tưởng ngay đến việc gặp Trần Văn Chương vào phòng Bảo Đại lúc tôi mới ra đi và đoán rằng, chắc trong khi tôi đi gặp Trần Trọng Kim thì ở Đại Nội bọn Trần Văn Chương, Nguyễn Duy Quang và Phạm Quỳnh đã họp với Bảo Đại bàn mưu tính kế trở về với chủ cũ là thực dân Pháp”. Hôm sau, ngày 16 tháng 8, Phạm Khắc Hoè lại kiểm chứng về buổi họp này bằng cách hỏi người thị vệ thuờng trực phòng làm việc của nhà vua, thì được người này cho biết là sau khi Trần Văn Chương vào chầu thì Phạm Bích lấy xe đi đón Phạm Quỳnh đến và họp hơn 5 giờ mới chấm dứt.[15]


Trần Đình Nam đề nghị bắt Phạm Quỳnh vào những ngày chót nhưng không được Vua Bảo Đại chấp nhận


Ý kiến bắt Phạm Quỳnh này được Trần Đình Nam, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ trong Chính Phủ Trần Trọng Kim, chia sẻ với Phạm Khắc Hoè, Nguyễn Hữu Thí và Trần Đình Nam vào một buổi tối, khoảng 20-7-1945, tại nhà Trần Đình Nam khi bốn người kiểm điểm “công tác của Nội Các Trần Trọng Kim trong hai tháng vừa qua” trong đó Trần Đình Nam yêu cầu mọi người phải“cảnh giác đối với cả bọn thân Pháp, cả bọn thân Nhật và nhất là vừa thân Nhật, vừa thân Pháp như loại Phạm Quỳnh thì lại càng vô cùng nguy hiểm…rồi hạ giọng nói nhỏ cho biết rằng Nam định bắt giam Phạm Quỳnh, vì bộ Nội vụ đã có nhiều chứng cớ về tội ác của Phạm Quỳnh trong thời thuộc Pháp, mà còn cả về âm mưu của nó hiện đang lo lót, chạy vạy với Nhật để hòng lên nắm quyền, làm tay sai cho Nhật.”[16]


Ý kiến kiến kể trên đã được Trần Đình Nam chính thức thực hiện vào cuối tháng 7 bằng một “tờ phiến”[17] của Bộ Nội Vụ gửi lên Vua Bảo Đại tâu xin bắt giam Phạm Quỳnh. Tờ phiến này đã được Phạm Khắc Hoè trình lên nhà vua để xin phê chuẩn nhưng Bảo Đại không làm theo mà bảo “hãy đợi vài hôm”, rồi ba hôm sau ra lệnh “tạm xếp việc ấy.”[18] Phạm Quỳnh đã thoát nạn nhưng chỉ trên dưới một tháng sau ông đã bị Việt Minh bắt và những người dân sống bên bờ sông thuộc làng An Cựu gần Biệt Thự Hoa Đường không bao giờ còn thấy bóng dáng quen thuộc của “Cụ Phạm”[19] nữa.


Kết Luận

Trong cuộc đời làm văn hóa cũng như trong cuộc đời làm chinh trị, Phạm Quỳnh có rất nhiều kẻ thù nhưng không kẻ thù nào nguy hiểm bằng những kẻ thù ông phải đương đầu trong thời gian từ sau Cuộc Đảo Chính 9 tháng 3 năm 1945 cho tới ngày ông và nội các từ chức, tức ngày 19 cùng tháng và luôn cả sau này nữa. Lý do là vì đằng sau những kẻ thù này là Đảng Cộng Sản với mục tiêu tối hậu của họ là cướp chính quyền từ tay Hoàng Đế Bảo Đại. Chưa hết, điều nguy hiểm hơn nữa nằm ở chỗ Phạm Khắc Hoè, cảm tình viên của họ, nằm vùng ngay trong Đại Nội và Tôn Quang Phiệt, đảng viên của họ, đã từ lâu hoạt động ngay giửa thành phố Huế. Họ đã thành công. Phạm Quỳnh không những chỉ bị giảm vai trò trong việc giao thiệp với Nhật mà còn hoàn toàn bị loại trừ. 
 
 Giữa lúc mọi người từ quan lại đến quần chúng nóng lòng mong đợi phản ứng của Vua Bảo Đại và của triều đình thì nhà vua đã phải đối phó với một khủng hoảng nội các kéo dài cho mãi tới ngày 8 tháng 5 khi Chính Phủ Trần Trọng Kim chính thức nhận lãnh trách nhiệm mới chấm dứt. Thời gian chuyển tiếp để nhà vua ổn định được tình hình ở trung ương cũng như ở địa phương đã bị rút ngắn khiến công việc thu hồi chính quyền từ trong tay người Nhật, kiện toàn nền độc lập cũng như thu hồi Xứ Nam Kỳ và các nhượng địa khác bị chậm lại, đặc biệt công tác cứu đói gặp trở ngại rất nhiều. Lịch sử Việt Nam cũng bị chuyển sang một hướng khác.

Phạm Cao Dương, TS
 
____
 
[1] Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế đến Chiến Khu Việt Bắc, Hồi Ký (in lần thứ ba, có sửa chữa và bổ sung).  Huế:  Nhà Xuất Bản Thuận Hoá, 1987, tr. 16-17. Đặng Văn Nhâm, “Nhân Ngày Giỗ Thứ 54 Cố Học Giả Phạm Quỳnh, Tìm Hiểu Cái Chết Oan Khiên, Bi Thảm Của Một Danh Tài Lỗi Lạc”, trong Giải Oan Lập Một Đàn Tràng. Silver Spring, MD: Ủy Ban Phục Hồi Danh Dự Phạm Quỳnh, 2001, tr. 254-255.
[2] S.M. Bao Dai.  Le Dragon d’Annam. Paris: Plon,  1980, tr. 105;  Bảo Đại,  Con Rồng Việt Nam, Hồi Ký Chánh Trị 1913-1987, Nguyễn Phước Tộc Xuất Bản.  Los Alamitos, CA: Nhà Sách Xuân Thu phát hành, 1990, tr. 163.
[3]Nên để ý là cho tới thời điểm này Việt Nam bị Pháp bảo hộ nên quyền ngoại giao do người Pháp nắm giừ.  Vì vậy trong tổ chức triều đình không có cơ quan nào lo công tác này.  Phạm Quỳnh được Bảơ Đại muốn bổ nhiệm bằng một đạo dụ là vì thế.
[4] Thụy Khuê, Nói Chuyện với Hoàng Xuân Hãn…, đã dẫn, tr. 128.
[5] Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế đến Chiến Khu Việt Bắc, tr. 18-19
[6]Thụy Khuê,  Nói Chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp. Westminster, CA:  Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, 2002, tr. 134-135.
[7] -nt-, tr. 20 và 24.
[8]  Dụ này mang tên là Dụ Số 1, được ban hành ngày 17 tháng 3 năm 1945 nguyên văn như sau:
 Dương Lịch ngày 17 tháng 3 năm 1945
Nước Nhật muốn hoàn toàn thực hiện chương trình sây nền thịnh vượng chung ỏ Đại-Đông-Á đã giải phóng cho nước Nam ta, và Trẫm tuyên bố Việt Nam độc lập rồi.
Nay Trẫm có trách nhiệm đối với lịch sử và thần dân, nên tự cầm lấy quyền để bảo vệ lấy quyền lợi cho Tổ-quốc và giáng dụ rằng
1)   Chế độ chính trị từ nay căn cứ vào khẩu hiệu “DÂN VI QUÍ’
2)  Trong chính giới sẽ chiêu tập các nhân tài đích đáng để chỉnh đốn lại nền tảng Quốc gia cho xứng đáng là một nước độc lập chân chính có thể hợp tác với Đại-Nhật-Bản trong công cuộc kiến thiết Đại-Đông-Á.
3) Trẫm sẽ tài định và tuyên bố các cơ quan chính trị để ban hành những phương pháp hợp với nguyện vọng của Quốc dân.
Nhận định về đạo dụ này, Nguyễn Tường Phuợng trong bài “Một Đạo Dụ, Một Chế Độ” đăng trên Tri Tân Tạp Chí ngày 20 tháng 4 năm 1945, trên trang đầu, đã viết như sau:
“Ba điều ban bố trên đáng ghi vào lịch sử xứ này, thật là trên thuận lòng giời, dưới đẹp lòng dân, quốc dân rất trông mong ở sự thi hành triệt để khác nào như đói mong ăn và khát mong uống vậy.
“Nếu một khi nhà nước dùng được ngưòi tài, đức vẹn hai ra gánh vác, đảm đương những trọng trách, lại thêm vào đấy cái chính sách thân dân, thể tất đến dân nguyện thời nền tảng quốc gia xứ này có thể phục hưng.
 “Được như vậy, đạo dụ ngày 17 tháng ba đáng ghi vào trang đầu lịch sử của nước Việt-Nam độc lập.”
Còn Luật Sư Bùi Tường Chiểu, trong bài “Đạo Dụ Số 1 Của Đức bảo Đại Hoàng Đế” đăng trên Thanh Nghị, số 107, “Số Đặc-San Chính Trị”, ra ngày 5 tháng Năm 1945, cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng đặc biệt của đạo dụ này. Ngay những dòng mở đầu ông viết:
“Đạo dụ trên đối với chế độ chính trị nước ta sau này có một tính cách quan trọng đặc biệt mà ta có thể nói rằng đạo dụ này đã nêu lên một cách tóm tắt những quả quyết rõ ràng những nguyên tắc kiến thiết chính thể nước Việt-Nam sau này.” Rồi nhấn mạnh hơn đến ba chữ Dân Vi Quý, ông phân tích:
 “Nay đạo Dụ số 1 đã nêu lên khẩu hiệu Dân vi quí có nghĩa là đức Bảo-Đại đã hủy bỏ cái lý thuyết cũ mà đến nay hầu hết các nước văn minh đã cho là không hợp thời.  Đã lấy dân làm trọng. đã lấy quyền lợi dân để trên tất cả thì vua tất chỉ là một cơ quan tối cao trong nước điều khiển những cơ quan chính trị khác để phụng vụ quốc gia, tìm những phương pháp hợp với nguyện vọng của cả quốc dân mà thi hành.  Như thế là trong nền chính trị đức Bảo-Đại Hoàng-Đế đã định đặt quốc dân ta đi vào một con đường mới.”
Cuối cùng đi xa hơn nữa, vị luật gia này còn nói tới hiến pháp. Theo ông:
“Xong chúng ta có thể căn cứ vào điều thứ 3 của bản Dụ mà nói rằng đức Bảo-Đại sẽ tuyên bố các cơ quan chính trị mới mà trong câu cơ quan ấy sẽ có một cơ quan có quyền lập pháp. Muốn tổ chức một cách phân minh các cơ quan hành chính, lập pháp và tư pháp, tất nhiên phải có một đạo hiến-luật để ấn định rõ ràng những quyền hành của các cơ quan chính trị”.
[9]   Phạm Khắc Hoè, đã dẫn, tr.25.
[10]  Le Dragon d’Annam, tr. 105; Con Rồng Việt Nam, tr. 164.
[11] Phạm Khắc Hoè, đã dẫn, tr. 20-21.
[12] Tôn Quang Phiệt (1900-1973), học Cao Đẳng Sư Phạm Đông Dương, năm thứ hai, theo Tân Việt, bị đuổi, sang Trung Quốc cùng với Trần Phú , Vương Thúc Oánh…, bị Pháp bắt giam ở Hà Nội, sau được thả, trở thành đảng viên Cộng Sản và dạy ở trường Thăng Long ở Hà Nội, rồi Thuận Hóa ở Huế. Chính trong thời gian này Phạm Khắc Hoè đã được móc nối để trở thành nằm vùng trong Đại Nội. Nguyễn Quyết Thắng và Nguyễn Bá thế. Từ Điển Nhân vật Lịch Sử Việt Nam. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Văn Hóa, 1999.
[13]  Về vai trò của bộ lại và các bộ trong triều đình Nhà Nguyễn, xin xem Võ Hương An, Từ Điển Nhà Nguyễn. Irvine, CA: Nam Việt Publisher, 2012, tr. 60.
 Về sự quan trọng và nhu cầu cấp bách của công tác Việt hóa guồng máy hành chánh ờ thời nàỳ, xin xem Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên.  Saigon: Nam Chi Tùng Thư xuấtn, Không rõ năm,  Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ, không đề năm, tr. 34- 37.
[14] Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế…, tr. 47.
[15]   -nt-, tr. 59-61.
[16]   -nt- , tr. 45.
[17]  Phiến là báo cáo của của Nội Các hay các bộ gửi lên nhà vua.
[18]  Phạm Khắc Hoè, tr. 46.
[19] Về danh xưng “Cụ Phạm”, xin xem: Nguyễn Phước  Bửu Tập, “Chiến Sĩ Ái Quốc Phạm Quỳnh”, trong Giải Oan Lập Một Đàn Tràng, đã dẫn, tr. 223.

No comments: